Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

Bảo tồn và phát huy giá trị của di tích lịch sử văn hóa Thành Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.14 KB, 68 trang )

TRƯỜNG...
KHOA...

ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT

Đề tài : Bảo tồn và phát huy giá trị của di tích lịch sử văn hóa Thành Cổ Loa,
Đông Anh, Hà Nội.

Họ tên sinh viên :
MSSV :
Lớp :
Khoa :
GV hướng dẫn :

Hà Nội 2018
1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan : Khoá luận tốt nghiệp với đề tài “ Bảo tồn và phát huy
giá trị của di tích lịch sử văn hóa Thành Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội ” là công trình
nghiên cứu của cá nhân tôi, không sao chép của bất cứ ai.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của riêng mình !

Hà Nội, ngày ………….

Người cam đoan

2



MỤC LỤC

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu về đời
sống vật chất và tinh thần của con người ngày càng trở nên phong phú và đa dạng.
Đứng trước cuộc sống hiện đại thì nhu cầu trở về cội nguồn tìm hiểu lích sử dân tộc
ngày càng trở nên bức thiết.
Di tích lịch sử văn hóa có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội
của mỗi quốc gia, dân tộc. Là tài sản vô cùng quý giá, là bọ phận hợp thành nên
nền văn hóa Việt Nam được lưu giữ trường tồn từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ở đó
thể hiện được bản sắc văn hóa dân tộc, các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng diễn ra tại
di tích có tác dụng giáo dục lòng tự hào dân tộc, lòng yêu quê hương đất nước.
Những di tích mà ông cha ta để lại vô cùng phong phú với hàn ngàn Đình, Đền,
Miếu mạo, Lăng tẩm…. giá trị của các di tích lịch sử văn hóa dã thấm sâu vào tâm
hồn, máu thịt của bao thế hệ người Việt Nam.
Nhận thức của toàn xã hội về vai trò, ý nghĩa, giá trị của di tích văn hóa nói
chung, di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh nói riêng ngày càng được
nâng cao. Bảo vệ di tích, phát huy giá trị của di tích phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, đấu tranh chống vi phạm đã trở thành nhiệm vụ quan
trọng của toàn Đảng, toàn dân. Hàng ngàn di tích được xếp hạng và tu bổ trong
mấy chục năm qua đã thể hiện những nỗ lực to lớn của toàn xã hội chăm lo và bảo
vệ di tích. Về cơ bản hệ thống di tích của đất nước đã được bảo vệ, chăm sóc và tu
bổ bảo đảm khả năng tồn tại lâu dài. Tuy nhiên, do trải qua hàng chục năm chiến
tranh, chúng ta chưa có nhiều điều kiện chăm lo, bảo vệ di tích nên đến nay, mặc dù
đã rất cố gắng nhưng vẫn còn nhiều di tích bị vị phạm chưa được giải tỏa. Phần lớn
4



các vi phạm này đã diễn ra từ nhiều chục năm nay nên việc giải quyết cần có quyết
tâm và sự phối hợp của nhiều ngành, nhiều cấp.
Một trong số những di tích nổi tiếng ở Hà Nội phải kể đến đó tích lịch sử văn
hóa Thành Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội. Thành gắn liền với những truyền thuyết kỳ
thú của dân tộc Việt, về việc Vua An Dương Vương định đô xây thành, về việc
chiếc nỏ thần Kim Quy bắn một phát hạ hàng trăm tên giặc, về mối tình bi thương
và cảm động của Mỵ Châu - Trọng Thuỷ... Từ bao đời nay, dấu vết của ngôi thành
cổ này cùng với những nhân vật được huyền thoại hoá đã đi vào tiềm thức của
người dân Việt Nam. Thành Cổ Loa là toà thành cổ nhất, quy mô và có cấu trúc
lớn nhất trong số thành cổ ở nước ta. Theo dân gian truyền lại, Cổ Loa có 9 vòng
thành xoáy trôn ốc, nhưng do chiến tranh và sự phá huỷ của thời gian, Cổ Loa hiện
tại chỉ còn 3 vòng thành. Cổ Loa là một khu du lịch nổi tiếng với những công trình
độc đáo như giếng Ngọc, đình Cổ Loa, đền thờ An Dương Vương, am Mị Châu…
Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa hiện nay Thành Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội
có nguy cơ đứng trước quá trình đô thị hóa luôn có những nguy cơ bị hủy hoại do
sự tác động của thời gian, thiên tai và những hoạt động thiếu ý thức của con
người… làm hao mòn, thất thoát tài sản văn hóa dân tộc. Chính vì thế, những vấn
đề bảo vệ di tích nói chung và quản lý di tích lịch sử văn hóa Thành Cổ Loa, Đông
Anh, Hà Nội đang là việc làm rất cần thiết.
Chính vì vậy để hiểu rõ hơn về vấn đề này em xin chọn đề tài : Bảo tồn và
phát huy giá trị của di tích lịch sử văn hóa Thành Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội để
làm khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Tìm về bảo tồn, lưu giữ và phát huy các giá trị di tích lịch sử văn hóa là một đề
tài không bao giờ cũ đối với bất cứ ai là con người Việt Nam. Bởi đó là một phẩm
chất của người Việt như một biểu hiện của lòng yêu cội nguồn văn hóa dân tộc.
5



Trong đó, giá trị di tích lịch sử văn hóa là hiện thân rõ nét nhất. Thật vậy, khi tìm
hiểu về giá trị di tích lịch sử văn hóa ta sẽ nhận được những điều quý giá từ nó. Đó
không chỉ là vốn kiến thức về tập tục đó mà nó còn hình thành cho ta những phẩm
chất đạo đức đầy ý nghĩa.
Hoạt động bảo tồn, lưu giữ và phát huy các giá trị di tích lịch sử văn hóa của
Việt Nam trong thời gian qua đã có những bước tiến bộ rất đáng phấn khởi, nhà
nước ta đã quan tâm đầu tư nhiều hơn trong công tác nhiên cứu, trưng bày và quảng
bá giá trị văn hóa cổ vật ở trong nước và quốc tế, nhiều cuộc hội thảo, triển lãm,
trưng bày, hội chợ, festival …vv đã được tổ chức và bước đầu thu hút được sự
quan tâm của đông đảo nhân dân.
Có thể nói, đó là những quan điểm chỉ đạo có ý nghĩa định hướng không
những cho công tác nghiên cứu trên lĩnh vực này, mà còn là cơ sở cho các hoạt động
văn hóa nói chung và quản lý thị trường hàng hóa văn hóa nói riêng.
Ở nước ta hiện nay, đã có nhiều đề tài nghiên cứu về phong tục ma tang của
các dân tộc ở việt nam. Sau đây chúng tôi xin trình bày một số tác phẩm nổi bậc
liên quan đến đề tài mà tác giả nghiên cứu:
Thứ nhất : Cuốn sách”Cơ Sở Văn Hoá “ của GS. TSKH Trần Ngọc Thêm,
1997. Sách đã phân tích và tổng hợp được hệ thống cơ sở văn hoá Việt Nam và đưa
ra được cái nhìn tổng quan về nền văn hoá dân tộc, cũng như về di tích lịch sử văn
hóa. Đó là nền văn hoá đi từ lý thuyết: văn hoá học, văn hoá việt nam cho đến thực
tiễn là văn hoá nhận thức. Từ đó đưa ra cái nhìn mới về văn hoá tổ chức tập thể và
vai trò của văn hoá , di tích lịch sử văn hóa đời sống cá nhân. Trong tác phẩm có đề
cập đến các di tích lịch sử văn hóa. Tuy nhiên, sách chưa nghiên cứu chuyên sâu về
vấn đề này. Nhìn chung, sách Cơ sở văn hoá của người việt chính là sự quy tụ của
hệt thống văn hoá cơ bản cần thiết nhất cho chúng ta.

6



Thứ hai : Cuốn Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam của tác giả Hà Văn Tấn, Nxb
khoa học xã hội, Hà Nội,1994. Cuốn sách viết về nền văn hóa cổ từng tồn tại ở một
số tỉnh miền bắc Việt Nam và bắc trung bộ Việt Nam (Phú Thọ, Yên Bái, Hòa
Bình, Hà Nội,Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh mà trung tâm là khu
vực Đền Hùng), và ba con sông lớn và chính của đồng bằng Bắc Bộ (sông
Hồng, sông Mã vàsông Lam) vào thời kỳ đồ đồng và thời kỳ đồ sắt sớm. Nền văn
hóa này được đặt tên theo địa phương nơi các dấu tích đầu tiên của nó được phát
hiện, gầnsông Mã, Thanh Hóa. Nhiều dấu tích đặc trưng cho văn hóa Đông Sơn
cũng được tìm thấy ở một số vùng lân cận Việt Nam như ở Vân Nam, Quảng
Tây,Hải Nam của Trung Quốc, ở Lào hay ở Thái Lan... Tác phẩm có nói đến các di
tích lịch sử văn hóa của dân tộc trên các khía cạnh phân tích và bình luận, nhưng
chưa có nghiên cứu về bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích lịch sử văn hóa.
Ngoài ra còn có các tác phẩm viết về hoạt động quản lý văn hóa, di tích lịch
sử văn hóa như : Quản lý hoạt động văn hóa (của tác giả Nguyễn Văn Hy, Phan
Văn Tú, Hoàng Sơn Cường, Lê Thị Hiền, Trần Thị Diên, Nxb Văn hóa Thông tin,
Hà Nội, 1998) ; Thể chế xã hội trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ ở nước ta (Đề tài
cấp bộ, Học viện CTQG. HCM- do GS, TS Hoàng Vinh chủ nhiệm, nghiệm thu
năm 2000) ; Xây dựng thể chế quản lý kinh doanh văn hóa phẩm hiện thời ở nước
ta. (Đề tài cấp bộ. Học viện CTQG.HCM- Do GS,TS Hoàng Vinh chủ nhiệm,
nghiệm thu năm 2005).
Tất cả những tài liệu trên đây đều xoay quanh về di tích lịch sử văn hóa của
Việt Nam trong tất cả các giai đoạn. Tuy nhiên, chưa có một đề tài nào đi sâu
nghiên cứu về bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa thành Cổ Loa,
Đông Anh, Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. Do đó tác giả chọn vấn đề này làm đề
tài nghiên cứu của mình nhằm nâng cao tính tích cực trong việc về bảo tồn và phát
huy giá trị di tích lịch sử văn hóa thành Cổ Loa trong thời gian tới.
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
7



3.1.

Đối tượng nghiên cứu

Các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị của di tích lịch sử văn hóa Thành Cổ
Loa, Đông Anh, Hà Nội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Thành Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội.
- Thời gian: Trong vòng 4 năm, từ 2015- 2018
4. Mục tiêu nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu và giải quyết các vấn đề sau:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về bảo tồn và phát huy giá trị của di tích
lịch sử.
- Tìm hiểu giá trị của di tích lịch sử văn hóa Thành Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội
- Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động bảo tồn và phát huy giá
trị của di tích lịch sử văn hóa Thành Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả bảo tồn và phát huy giá trị của di tích
lịch sử văn hóa Thành Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đã sử dụng các phương pháp sau :
- Nghiên cứu tài liệu: : internet, các website .
- Phân tích tổng hợp
- Sử dụng các phương pháp thu thập thông tin khác
- Phương pháp khảo sát thực tế: quan sát
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của
khóa luận được trình bày qua 3 chương:
8



Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo tồn và phát huy giá trị của di tích lịch sử.
Chương 2: Thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị của di tích lịch sử
văn hóa Thành Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị
của di tích lịch sử văn hóa Thành Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội.

9


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA DI TÍCH
LỊCH SỬ
1.1. Cơ sở lý luận về bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm di tích
Trước khi tìm hiểu khái niệm di tích, phải hiểu về di sản văn hóa. Theo quy
định của Luật di sản văn hóa được Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam, khóa X, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2001, Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật di sản văn hóa năm 2009 thì di sản văn hóa bao gồm di sản văn
hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị
lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam .
Trong khái niệm này, thì di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể
và di sản văn hóa vật thể. Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng
đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan; có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học; thể hiện bản sắc của cộng đồng; không ngừng được tái tạo và được
lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình
diễn và các hình thức khác. Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị
lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh,

di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Như vậy, di tích lịch sử - văn hóa (gọi chung là di tích) là một bộ phận của di
sản văn hóa vật thể. Từ những khái niệm trên, ta có khái niệm di tích là “công trình
xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa
điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học” .
10


Trong đó, di vật được hiểu là “hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học”; cổ vật được hiểu là “hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu
biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học và có từ 100 năm tuổi trở nên”; bảo vật quốc gia
được hiểu là “hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm về các mặt
lịch sử, văn hóa, khoa học”. Theo quan niệm truyền thống, di tích lịch sử - văn hóa
gồm các bộ phận cấu thành sau đây:
Một là, các công trình kiến trúc, địa điểm có liên quan tới các sự kiện lịch sử
hoặc nhân vật lịch sử, danh nhân văn hóa.
Hai là, những đồ vật trong nội thất các công trình kiến trúc (vật dụng cá
nhân, đồ tế tự trong các thiết chế văn hóa, tín ngưỡng...).
Ba là, môi trường cảnh quan thiên nhiên xem kẽ hoặc bao quanh di tích.
Bốn là, những giá trị di sản văn hóa phi vật thể gắn với các công trình địa
điểm đó.
1.1.1.2. Khái niệm di tích lịch sử văn hóa
Pháp lệnh di tích lịch sư năm 1984 lần đầu tiên đã đưa ra khai niệm ve di
tích lích sư, văn hóa và danh lam thắng canh. Theo đo, di tích hch sử, văn hóa và
danh lam thắng cảnh được hiểu như sau:
- Di tích lịch sử, văn hóa là những công trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài
liệu và tác phẩm có giá trị lịch sử, khoa học nghệ thuật, giá trị văn hóa hoặc có liên
quan đến những sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hóa, xã hội;
- Danh lam thắng cảnh là những khu vực thiên nhiên có cảnh đẹp hoặc có
công trình xây dựng cổ đẹp nổi tiếng.

Như vậy, pháp luật quan niệm di tích lịch sử là những di tích có giá trị về
mặt lịch sử, văn hoá, khoa học, nghệ thuật và liên quan đến quá trình phát triển văn
11


hoá, xã hội của đất nước. Còn danh lam thắng cảnh là những khu vực có cảnh đẹp
được mọi người biết đến và được thừa nhận rộng rãi.
Di tích lịch sử văn hóa là tài sản văn hóa quý giá của mỗi địa phương, mỗi
dân tộc, mỗi đất nước và của cả nhân loại. Nó là bằng chứng trung thành, xác thực,
cụ thể nhất về đặc điểm văn hóa của mỗi nước. Ở đó chứa đựng tất cả những gì
thuộc về truyền thống tốt đẹp, những tinh hoa, trí tuệ, tài năng con người, góp phần
vào việc phát triển trí tuệ, tài năng con người, góp phần vào việc phát triển khoa
học nhân văn, khoa học lịch sử. Đó chính là bộ mặt quá khứ của mỗi dân tộc, mỗi
đất nước.
Di tích lịch sử văn hóa là những không gian vật chất cụ thể, khách quan
trong đó chứa đựng các giá trị điển hình lịch sử, do tập thể, cá nhân con người hoạt
động sáng tạo ra trong lịch sử để lại.
1.1.1.3. Khái niệm bảo tồn giá trị di tích lịch sử
Quan điểm bảo tồn giá trị di tích lịch sử không phải không có cơ sở khoa
học của nó. Những người theo quan điểm này cho rằng, những sản phẩm của quá
khứ nên được bảo tồn nguyên vẹn như nó vốn có để tránh tình trạng thế hệ hiện tại
làm méo mó, biến dạng di sản. Mỗi di sản chứa đựng những giá trị văn hoá - xã hội
nhất định mà không phải lúc nào thế hệ hiện tại cũng có thể hiểu biết một cách cụ
thể để có thể phát huy những giá trị ấy một cách thích hợp. Không những thế,
những tác động của ngày hôm nay sẽ tạo nên những lớp văn hoá khác không trùng
nghĩa với lớp văn hoá mà thế hệ trước chuyển giao cho thế hệ sau, vì thế, có thể
làm cho các thế hệ sau nữa không thể truy nguyên được những giá trị của di sản
đang tồn tại.
Như vậy, những người theo quan điểm này cho rằng, do chúng ta chưa có đủ
thông tin, trình độ hiểu biết để có thể lý giải giá trị của các di sản văn hoá, chúng ta

12


nên giữ nguyên trạng những di sản này để khi có điều kiện, các thế hệ tiếp nối có
thể xử lý, giải thích và tìm cách kế thừa, phát huy di sản một cách tốt hơn.
"Bảo tồn giá trị di tích lịch sử” là giữ lại, không để bị mất đi, không để bị
thay đổi, biến hoá hay biến thái… Như vậy, trong nội hàm của thuật ngữ này,
không có khái niệm “cải biến”, “nâng cao” hoặc phát triển”. Hơn nữa, khi nói đối
tượng bảo tồn “phải được nhìn là tinh hoa”, chúng ta đã khẳng định giá trị đích
thực và khả năng tồn tại theo thời gian, dưới nhiều thể trạng và hình thức khác nhau
của đối tượng được bảo tồn.
1.1.1.4. Khái niệm phát huy giá trị di tích lịch sử
Xung quanh hoạt động phát huy giá trị di tích lịch sử cũng đặt ra nhiều vấn
đề. Song điều quan trọng hơn cả đối với việc phát huy những giá trị di tích lịch sử
nói chung và di tích nói riêng là làm sao khơi dậy ý thức của cộng đồng, niềm tự
hào của cộng đồng về di sản văn hoá phi vật thể, để di sản ấy sống trong cộng đồng
như bản chất của nó.
Trong công tác phát huy, vấn đề đặt ra là tuyên truyền, giáo dục trong cộng
đồng, nhất là thế hệ trẻ những hiểu biết về giá trị di tích lịch sử với những giá trị
văn hoá của nó. Chính đây là cây cầu để chúng ta đưa giá trị di tích lịch sử về với
cộng đồng. Cộng đồng chính là môi trường không chỉ sản sinh ra giá trị di tích lịch
sử, mà còn là nơi tốt nhất bảo tồn, làm giàu thêm, phát huy nó trong đời sống xã
hội.
Xét về bản chất, mỗi di tích hay mọi sinh hoạt nghệ thuật, lễ hội, tín
ngưỡng, tôn giáo, phong tục tập quán, lối sống nếp sống, hoặc các tri thức dân gian
về ngành nghề thủ công, y học, ẩm thực,... tất cả đều là những giá trị tồn tại dưới
những dạng cái vật chất cụ thể ẩn chứa phía sau những hoạt động hoặc kết quả của
các hoạt động tinh thần của con người trong mọi mối quan hệ với tự nhiên, với xã
hội và với chính bản thân mình. Những giá trị ấy chính là cái “hồn”, một nơi thể
13



hiện rõ nhất những thành tựu, trình độ và bản sắc văn hóa của một cộng đồng tại
một không gian và ở một thời gian nhất định. Tích lũy trong quá khứ, qua trường
kỳ lịch sử các giá trị đó có thể trở thành một bộ phận quan trọng hợp thành vốn di
sản văn hóa quý báu của dân tộc và có thể cũng là của cả nhân loại. Vì vậy, phát
huy các giá trị di sản văn hóa phải biết kế thừa có chọn lọc phần “hồn” ấy, sáng tạo
thêm, làm cho nó đó thấm sâu, lan tỏa vào đời sống cộng đồng để cộng đồng nhận
diện được giá trị, biết trân trọng những giá trị ấy và tránh có cái nhìn phiến diện. Từ
đó mà khơi lòng tự hào để chung tay vào bảo tồn di sản văn hóa của địa phương,
của

dân

tộc



của

cả

nhân

loại.

Phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa là để phát triển kinh tế, nhưng phát
huy là phải biết kế thừa những tinh hoa của đời trước để lại. Những giá trị đó chính
là sự đúc kết kinh nghiệm từ thực tiễn, nếu chúng phù hợp với thời đại mới thì cần
được phát huy, đồng thời phải biết sáng tạo thêm những cái mới trên nền tảng

những cái truyền thống để vừa làm giàu thêm bản sắc văn hóa, góp phần đáp ứng
nhu cầu hưởng thụ văn hóa của cư dân đương đại đồng thời cũng là cơ hội để tạo ra
thêm nhiều sản phẩm du lịch đặc trưng giúp phát triển kinh tế bền vững cho địa
phương.
1.1.2. Nội dung của bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử
Mỗi di tích lại có những giá trị lịch sử, văn hóa khác nhau chứa đựng trong
mình những giá trị truyền thống của dân tộc. Nhiều năm qua, cùng với sự phát triển
kinh tế của đất nước, công tác quản lý, bảo tồn, phát huy các di tích lịch sử văn hóa
của địa phương cũng đã đạt được kết quả tốt. Việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá
trị lịch sử - văn hóa tuy được sự quan tâm của các cấp, các ngành, tổ chức quốc tế
nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn bất cập: nguồn kinh phí đầu tư tu bổ chủ yếu do các
cá nhân và tổ chức xã hội đóng góp mang tính chất tự phát nên khó quản lý; tình
trạng xuống cấp của một số di tích, việc lấy cắp cổ vật, tình trạng mất an ninh, trật
tự trong các dịp tế lễ; chưa có đội ngũ làm công tác hướng dẫn tại các điểm di tích.
14


Nguyên nhân của những thực trạng trên một phần do công tác quản lý ở một
số khu di tích và địa phương còn lỏng lẻo, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan chức
năng. Chính vì thế, vấn đề đặt ra ở đây là làm sao có được định hướng đúng đắn
cho công tác quản lý, vận dụng sáng tạo các quy định của nhà nước và pháp luật về
quản lý di tích lịch sử văn hóa, phối hợp giữa các ngành các cấp để có thể cụ thể
hóa chính sách quản lý của nhà nước về việc bảo tồn và quản lý các di tích lịch sử
văn hóa của địa phương.
Nội dung công tác quản lý , bảo tồnvà phát huy gí trị của di tích lịch sử văn
hóa là quá trình quản lý bộ phận lớn kho tàng di sản văn hóa của dân tộc. Việc quản
lý di tích lịch sử văn hóa không chỉ đơn thuần là quản lý những giá trị văn hóa vật
thể mà điều quan trọng hơn là làm cho những giá trị văn hóa phi vật thể gắn với di
tích luôn sống động, song hành trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng, làm cho các thế
hệ sau nhận thức được tầm quan trọng của các di tích lịch sử văn hóa, biết bảo tồn

và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp mà các thế hệ trước đã lưu truyền lại.
1.1.3. Phân loại di tích
- Di tích lịch sử - văn hóa
Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
Di tích lịch sử - văn hóa phải có một trong các tiêu chí sau đây:
Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong quá trình
dựng nước và giữ nước. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như đền Hùng, Cổ
Loa, Cố đô Hoa Lư, Bãi cọc Bạch Đằng, Cột cờ...
Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân
tộc, danh nhân của đất nước. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như Khu di tích
lịch sử Kim Liên, Đền Kiếp Bạc, Quần thể di tích danh thắng Yên Tử, Lam
Kinh, đền Đồng Nhân...
15


Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của các thời
kỳ cách mạng, kháng chiến. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như Khu di tích
chiến thắng Điện Biên Phủ, Địa đạo Củ Chi, Khu di tích lịch sử cách mạng Pắc
Bó, Phòng tuyến Tam Điệp, Hành cung Vũ Lâm, Khu rừng Trần Hưng Đạo...
Năm 2010, di tích lịch sử chiếm 51.2% số di tích được xếp hạng. Các di tích này
không những có giá trị lịch sử và văn hóa mà còn mang lại những giá trị lớn trên
phương diện kinh tế, nhất là kinh tế du lịch.
- Di tích kiến trúc nghệ thuật
Di tích kiến trúc nghệ thuật là công trình kiến trúc nghệ thuật, tổng thể kiến trúc
đô thị và đô thị có giá trị tiêu biểu trong các giai đoạn phát triển nghệ thuật kiến
trúc của dân tộc. Quần thể các công trình kiến trúc hoặc công trình kiến trúc đơn lẻ
có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử.
Các di tích tiêu biểu loại này như Chùa Bút Tháp, phố cổ Hội An, nhà thờ Phát
Diệm, chùa Keo, đình Tây Đằng,Chùa Phật Tích.

Năm 2010, di tích kiến trúc nghệ thuật chiếm 44.2% tổng số di tích được xếp
hạng.
- Di tích khảo cổ
Di tích khảo cổ là những địa điểm khảo cổ có giá trị nổi bật đánh dấu các giai
đoạn phát triển của các văn hoá khảo cổ. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này
nhưHoàng thành Thăng Long, hang Con Moong, di chỉ Đông Sơn, động Người
Xưa, thánh địa Mỹ Sơn
Năm 2010, di tích khảo cổ chiếm 1.3% các di tích được xếp hạng.
- Di tích thắng cảnh

16


Di tích thắng cảnh (danh lam thắng cảnh) là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa
điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá
trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học. Danh lam thắng cảnh phải có một trong các tiêu chí
sau đây:
Cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên
với công trình kiến trúc có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu. Các di tích quốc gia đặc
biệt tiêu biểu thuộc loại này như 4 danh lam thắng cảnh khu danh thắng Tây
Thiên, Tràng An - Tam Cốc - Bích Động, vịnh Hạ Long, động Phong Nha.
Khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý, đa dạng
sinh học, hệ sinh thái đặc thù hoặc khu vực thiên nhiên chứa đựng những dấu
tích vật chất về các giai đoạn phát triển của Trái Đất. Các di tích tiêu biểu thuộc
loại này như vịnh Hạ Long, Cao nguyên Đồng Văn, các vườn quốc gia và khu dự
trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam.
Danh lam thắng cảnh chiếm khoảng 3.3% số di tích được xếp hạng.
- Di tích lịch sử cách mạng
Di tích cách mạng - kháng chiến là một bộ phận cấu thành hệ thống các di tích
lịch sử - văn hoá, tuy nhiên, nó có những điểm khác với các di tích tôn giáo tín

ngưỡng như đình, đền, chùa, miếu… ở chỗ: đó là những địa điểm cụ thể, công trình
kiến trúc có sẵn (nhà ở, đường phố…), là những công trình được con người tạo nên
phù hợp với mục đích sử dụng (địa đạo, hầm bí mật…) gắn liền với những sự kiện
cụ thể, nhân vật lịch sử cụ thể mà trở thành di tích. Loại hình di tích này rất đa
dạng, phong phú, có mặt ở khắp mọi nơi, khó nhận biết, đồng thời cũng rất dễ bị
lãng quên, dễ biến dạng theo mục đích sử dụng, theo thời tiết và theo thời gian. Bởi
vậy các di tích này vừa khó bảo tồn vừa khó phát huy tác dụng nếu không được
quan tâm đặc biệt.
17


Một số di tích lịch sử cách mạng như: Chiến khu Tân Trào, Chiến khu Quỳnh
Lưu, Khu di tích chiến thắng Điện Biên Phủ,..
1.1.4. Đặc điểm của di tích lịch sử
Hệ thống di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh có giá trị to lớn và
là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô giá của đất nước.
Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự
nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. (Luật di sản văn hóa)
Hệ thống di tích lịch sử - văn hóa và danh thắng là nguồn tài nguyên du lịch
vô cùng quan trọng, sự độc đáo, phong phú, đa dạng của hệ thống này tạo nên sức
hấp dẫn kỳ lạ đối với du khách. Giá trị của hệ thống di tích lịch sử - văn hóa và
danh lam thắng cảnh mang lại cho du khách những hiểu biết về lịch sử dân tộc, lịch
sử địa phương, những tri thức về đặc điểm tự nhiên, những giá trị thẩm mỹ, những
khoảnh khắc thư giãn, nghỉ ngơi...
Di tích là những bằng chứng vật chất có ý nghĩa quan trọng, minh chứng về
lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Di tích giúp cho con người
biết được cội nguồn của dân tộc mình, hiểu về truyền thống lịch sử, đặc trưng văn
hóa của đất nước và do đó có tác động ngược trở lại tới việc hình thành nhân cách
con người Việt Nam hiện đại.

Di tích chứa đựng những giá trị kinh tế to lớn (trị giá nhiều ngàn tỷ đồng)
nếu bị mất đi không đơn thuần là mất tài sản vật chất, mà là mất đi những giá trị
tinh thần lớn lao không gì bù đắp nổi. Đồng thời, di tích còn mang ý nghĩa là nguồn
lực cho phát triển kinh tế, một nguồn lực rất lớn, sẵn có nếu được khai thác, sử
dụng tốt sẽ góp phần không nhỏ cho việc phát triển kinh tế đất nước và nó càng có
ý nghĩa to lớn khi đất nước đang rất cần phát huy tối đa nguồn nội lực để phát triển.
18


Di tích lịch sử liên quan tới sự kiện hoặc nhân vật lịch sử có những đóng
góp, ảnh hưởng tới sự tiến bộ của lịch sử dân tộc. Đến với di tích lịch sử, khách
tham quan như được đọc cuốn sử ghi chép về những con người, những sự kiện tiêu
biểu, được cảm nhận một cách chân thực về lịch sử, những cảm nhận không dễ có
được khi chỉ đọc những tư liệu ghi chép của đời sau.
Giá trị của di tích kiến trúc nghệ thuật thể hiện ở quy hoạch tổng thể và bố
cục kiến trúc, ở sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc với cảnh quan, ở những bức chạm
khắc trên kết cấu gỗ, ở vẻ đẹp thánh thiện của những pho tượng cổ, ở nét chạm tinh
xảo của những đồ thờ tự...
Các di tích, di vật khảo cổ học là nguồn sử liệu quan trọng giúp việc biên
soạn lịch sử trái đất và lịch sử dân tộc từ thời tiền-sơ sử tới các thời kỳ lịch sử sau
này.
1.1.5. Vai trò của bảo tồn và phát huy giá trị của di tích lịch sử
Bảo tồn và phát huy giá trị của di tích lịch sử văn hóa là bảo tồn và giữ gìn
những bằng chứng xác thực trung thành, cụ thể nhất về đặc điểm văn hóa của mỗi
đất nước, nó chứa đựng tất cả những gì thuộc về truyền thống tốt đẹp, những tinh
hoa trí tuệ, tài năng, giá trị văn hóa nghệ thuật của mỗi cuốc gia.
Với tính độc đáo, truyền thống cũng như tính địa phương của nó, các di tích
lịch sử văn hóa có sức hút lớn đối với những du khách - là tài nguyên quan trọng để
phát triển du lịch, góp phần phát triển kinh tế ở địa phương nơi có di tích.
Trong hoạt động du lịch văn hóa lịch sử, các sản phẩm văn hóa như tranh vẽ,

sản phẩm điêu khắc, sản vật đặc trưng của địa phương, từng vùng khác nhau…
được bán trực tiếp cho khách du lịch đã thực sự mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp
phần tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân, thay đổi cơ cấu sản
xuất thúc đẩy phát triển nền kinh tế quốc gia dựa trên cơ sở tài nguyên và nội lực
19


của mình. Bên cạnh đó những giá trị của di tích còn góp phần nâng cao dân trí,
nâng cao sự trân trọng đối với văn hóa dân tộc, lòng yêu nước, yêu con người, tình
hữu nghị giữa các dân tộc.
1.2.

Giới thiệu chung về Hà Nội và di tích lịch sử văn hóa Thành Cổ Loa,

Đông Anh, Hà Nội
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cũng
là kinh đô của hầu hết các vương triều phong kiến Việt trước đây. Do đó, lịch sử Hà
Nội gắn liền với sự thăng trầm của lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ.
Hà Nội là thành phố trực thuộc trung ương có diện tích lớn nhất cả nước từ
khi tỉnh Hà Tây sáp nhập vào, đồng thời cũng là địa phương đứng thứ nhì về dân
số với gần 8 triệu người (năm 2018), sau Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, nếu
tính những người cư trú không đăng ký thì dân số thực tế của thành phố này năm
2017 là hơn 9 triệu người. Hiện nay, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là hai đô
thị loại đặc biệt của Việt Nam.
Hà Nội nằm giữa đồng bằng sông Hồng trù phú, nơi đây đã sớm trở thành
một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa ngay từ những buổi đầu củalịch sử Việt
Nam. Năm 1010, vua Lý Thái Tổ, vị hoàng đế đầu tiên của nhà Lý, quyết định xây
dựng kinh đô mới ở vùng đất này với cái tên Thăng Long. Trong suốt thời kỳ của
các triều đại Lý, Trần, Lê, Mạc, kinh thành Thăng Long là trung tâm văn hóa, giáo

dục và buôn bán của cả nước. Khi Tây Sơn rồi nhà Nguyễn lên nắm quyền trị vì,
kinh đô được chuyển về Huế và Thăng Long bắt đầu mang tên Hà Nội từ
năm 1831, dưới thời vua Minh Mạng.
Năm 1902, Hà Nội trở thành thủ đô của Liên bang Đông Dương và được
người Pháp xây dựng, quy hoạch lại, được mệnh danh là Tiểu Paris Phương
Đông thời bấy giờ. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Hà Nội là thủ đô của Việt
20


Nam Dân chủ Cộng hòa và sau khi thống nhất tiếp tục là thủ đô của nước Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Đó là thủ đô của Đông Dương thuộc Pháp
1887-1946 và của miền Bắc Việt Nam trước khi thống nhất miền Bắc và miền Nam
Việt Nam.
Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, Hà Nội hiện nay
gồm 12 quận, 1 thị xã và 17 huyện ngoại thành. Hiện nay, Hà Nội vàThành phố Hồ
Chí Minh là hai trung tâm kinh tế – xã hội đặc biệt quan trọng của Việt Nam.
1.2.2. Vị trí địa lý
Nằm chếch về phía tây bắc của trung tâm vùng đồng bằng châu thổ sông
Hồng, Hà Nội có vị trí từ 20°53' đến 21°23' vĩ độ Bắc và 105°44' đến 106°02' độ
kinh Đông, tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc, Hà
Nam, Hòa Bình phía Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên phía Đông, Hòa
Bình cùng Phú Thọ phía Tây. Hà Nội cách thành phố cảng Hải Phòng 120 km, cách
thành phố Nam Định 87 km tạo thành 3 cực chính của Đồng bằng sông Hồng. Sau
đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, thành phố có diện tích
3.324,92 km², nằm ở cả hai bên bờ sông Hồng, nhưng tập trung chủ yếu bên hữu
ngạn.
Địa hình Hà Nội thấp dần theo hướng từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang
Đông với độ cao trung bình từ 5 đến 20 mét so với mực nước biển. Đồi núi tập
trung ở phía bắc và phía tây thành phố. Nhờ phù sa bồi đắp, ba phần tư diện tích tự
nhiên của Hà Nội là đồng bằng, nằm ở hữu ngạn sông Đà, hai bên sông Hồng và

chi lưu các con sông khác. Phần diện tích đồi núi phần lớn thuộc các huyện Sóc
Sơn, Ba Vì, Quốc Oai, Mỹ Đức, với các đỉnh núi cao như Ba Vì (1.281 m), Gia Dê
(707 m), Chân Chim (462 m), Thanh Lanh (427 m), Thiên Trù (378 m)... Khu vực
nội thành có một số gò đồi thấp, như gò Đống Đa, núi Nùng.
Thủ đô Hà Nội có bốn điểm cực là:
21


Cực Bắc là xã Bắc Sơn, huyện Sóc Sơn.
Cực Tây là xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì.
Cực Nam là xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức.
Cực Đông là xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm.
1.2.3. Tài nguyên thiên nhiên
- Thủy văn :
Sông Hồng là con sông chính của thành phố, bắt đầu chảy vào Hà Nội ở
huyện Ba Vì và ra khỏi thành phố ở khu vực huyện Phú Xuyên tiếp giáp Hưng
Yên rồi xuôi về Nam Định, thành phố có nhiều gắn kết với Thăng Long từ thời nhà
Trần. Sông Hồng chảy qua Hà Nội dài 163 km, chiếm khoảng một phần ba chiều
dài của con sông này trên đất Việt Nam. Hà Nội còn có sông Đà là ranh giới giữa
Hà Nội với Phú Thọ, hợp lưu với dòng sông Hồng ở phía Bắc thành phố tại
huyện Ba Vì. Ngoài ra, trên địa phận Hà Nội còn nhiều sông khác như sông
Đáy, sông Đuống, sông Cầu, sông Cà Lồ,... Các sông nhỏ chảy trong khu vực nội
thành như sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu,... là những đường tiêu thoát nước thải
của Hà Nội.
Hà Nội cũng là một thành phố đặc biệt nhiều đầm hồ, dấu vết còn lại của các
dòng sông cổ. Trong khu vực nội thành, hồ Tây có diện tích lớn nhất, khoảng
500 ha, đóng vai trò quan trọng trong khung cảnh đô thị, ngày nay được bao quanh
bởi nhiều khách sạn, biệt thự . Hồ Gươm nằm ở trung tâm lịch sử của thành phố,
khu vực sầm uất nhất, luôn giữ một vị trí đặc biệt đối với Hà Nội. Trong khu vực
nội ô có thể kể tới những hồ khác như Trúc Bạch, Thiền Quang, Thủ Lệ... Ngoài ra,

còn nhiều đầm hồ lớn nằm trên địa phận Hà Nội như Kim Liên, Liên Đàm, Ngải
Sơn - Đồng Mô, Suối Hai, Mèo Gù, Xuân Khanh, Tuy Lai, Quan Sơn.

22


Do quá trình đô thị hóa mạnh mẽ từ năm 1990 đến nay, phần lớn các sông hồ
Hà Nội đều rơi vào tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng. Theo PGS-TS Trần Đức Hạ –
Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Cấp thoát nước và Môi trường thuộc Hội Cấp
thoát nước Việt Nam, lượng nước thải chưa qua xử lý xả thẳng ra môi trường quá
lớn. Chỉ tính riêng trong khu vực nội đô, mỗi ngày lượng nước thải xả thẳng ra hệ
thống sông hồ vào khoảng 650.000 m3/ngày (2015). Sông Tô Lịch, trục tiêu thoát
nước thải chính của thành phố, hàng ngày phải tiếp nhận khoảng 250.000 m³ nước
thải xả thẳng xuống dòng sông mà không hề qua xử lý. Nó bị ô nhiễm nặng nề:
nước sông càng lúc càng cạn, màu nước càng ngày càng đen và bốc mùi hôi thối
nặng. Với chiều dài gần 20 km chảy qua địa bàn thủ đô, nhiều khúc của sông
Nhuệ nước đen kịt, đặc quánh, mùi hôi thối bốc lên nồng nặc và gần như không còn
xuất hiện sự sống dưới lòng sông.
Tương tự, sông Kim Ngưu nhận khoảng 125.000 m³ nước thải sinh hoạt mỗi
ngày. Sông Lừ và sông Sét trung bình mỗi ngày cũng đổ vào sông Kim Ngưu
khoảng 110.000 m³. Lượng nước thải sinh hoạt và công nghiệp này đều có hàm
lượng hóa chất độc hại cao. Các sông mương nội và ngoại thành, ngoài vai trò tiêu
thoát nước còn phải nhận thêm một phần rác thải của người dân và chất thải công
nghiệp. Những làng nghề thủ công cũng góp phần vào gây nên tình trạng ô nhiễm
này.
- Khí hậu
Khí hậu Hà Nội mang đặc điểm của khí hậu nhiệt đới gió mùa, được nêu trên
trang web chính thức của Hà Nội. Tuy nhiên, dựa theo Phân loại khí hậu Köppen,
trang web ClimaTemps.com lại xếp Hà Nội mang khí hậu cận nhiệt đới ẩm (Humid
Subtropical) với mã Cwa.

Thời tiết có sự khác biệt rõ ràng giữa mùa nóng và mùa lạnh. Mặc dù thời
tiết được chia làm hai mùa chính: mùa mưa (từ tháng 4 tới tháng 10) và mùa đông
23


(từ tháng 11 tới tháng 3), Hà Nội vẫn được tận hưởng thời tiết bốn mùa nhờ các
tháng giao mùa. Mùa nóng bắt đầu từ giữa tháng 4 đến giữa tháng 9, khí hậu nóng
ẩm vào đầu mùa và cuối mùa mưa nhiều rồi mát mẻ, khô ráo vào tháng 10. Mùa
lạnh bắt đầu từ giữa đầu tháng 11 đến hết tháng 3 năm sau. Từ cuối tháng 11
đến tháng 1 rét và hanh khô, từ tháng 2 đến hết tháng 3 lạnh và mưa phùn kéo dài
từng đợt. Trong khoảng cuối tháng 9 đến tháng 11, Hà Nội có những ngày thu với
tiết trời mát mẻ (rõ rệt hơn Hải Phòng, Nam Định và nhiều tỉnh phía Bắc khác) do
đón vài đợt không khí lạnh yếu tràn về. Tuy nhiên, do chịu sự tác động mạnh mẽ
của gió mùa nên thời gian bắt đầu và kết thúc của mỗi mùa thường không đồng đều
nhau giữa các năm, nên sự phân chia các tháng chỉ mang tính tương đối.
Nhiệt độ trung bình mùa đông: 16,5 °C (lúc thấp xuống tới 2,7 °C). Trung
bình mùa hạ: 29,5 °C (lúc cao nhất lên tới 43,7 °C). Nhiệt độ trung bình cả năm là
23 °C, lượng mưa trung bình hàng năm vào mức 1.800mm đến 2.000mm.
Vào tháng 5 năm 1926, nhiệt độ tại thành phố được ghi lại ở mức kỷ lục
42,8 °C. Tháng 1 năm 1955, nhiệt độ xuống mức thấp nhất, 2,7 °C do chịu ảnh
hưởng của La Nina. Vào đầu tháng 6 năm 2017 với việc bị ảnh hưởng bởi El
Niño trên toàn thế giới, Hà Nội phải hứng chịu đợt nóng dữ dội trong 1 tuần (từ 2-6
đến 6-6) với nhiệt độ lên tới 42.5 °C, là nhiệt độ kỷ lục ghi nhận trong lịch sử.
Hơn nữa, do chịu ảnh hưởng của hiệu ứng đô thị và là vùng khí hậu có độ ẩm
cao nên những đợt nắng nóng, nhiệt độ cảm nhận thực tế luôn cao hơn mức đo đạc,
có thể lên tới 50 °C. Và trong đợt nắng nóng này có hai người bị chết do nắng
nóng, trong tương lai mọi chuyện còn khủng khiếp hơn. Thậm chí các chuyên gia
khí tượng của Mĩ còn đưa ra “Sự dịch chuyển các thành phố” trong đó có dự báo
cho Thủ đô Hà Nội vào năm 2100. Có hai kịch bản được đặt ra, nếu giảm khí thải ở
mức trung bình thì mùa hè của Hà Nội sẽ gay gắt như New Delhi (Ấn Độ), nếu

không giảm thì sẽ như chảo lửa Faisalabad (Pakistan), tại hai thành phố này nhiệt
độ đều trên 48 độ C. Tại Hà Nội năm 2100, mùa hè sẽ kéo dài hơn và sẽ xuất hiện
24


mức nhiệt 48 độ C, nhiệt độ cảm nhận được từ 55–58 độ C. Nơi có tuyết vào mùa
đông ở Hà Nội là Ba Vì khoảng 6h sáng 24/1 với mức nhiệt khoảng 0 độ C.
1.2.4. Kinh tế – xã hội
Trong 10 năm 2008 - 2018, kinh tế Hà Nội tăng trưởng bình quân
7,41%/năm, gấp gần 1,3 lần mức tăng bình quân chung cả nước là 6%; Quy mô
GRDP năm 2017 đạt 519.568 tỷ đồng, gấp 1,9 lần so với năm 2008; GRDP bình
quân đầu người theo đó tăng lên, năm 2017 đạt 86 triệu đồng (khoảng 3.910
USD/người), gấp 2,3 lần so với 1.697 USD/người vào năm 2008. Đặc biệt, thu
nhập của người nông dân đã tăng từ 13 triệu lên 38 triệu đồng/người/năm (khoảng
2,92 lần)...
Tổng mức bán lẻ tăng từ 132.837 tỷ lên 288.955 tỷ đồng (2,18 lần); Kim
ngạch xuất khẩu tăng từ 6,9 tỷ USD lên 11,78 tỷ USD (1,7 lần). Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng tích cực: tỷ trọng các ngành dịch vụ, công nghiệp - xây
dựng tăng, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm. Các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng
lớn, dịch vụ trình độ cao, chất lượng cao tiếp tục được phát triển.
Khách quốc tế từ 1,3 triệu lượt năm 2008 tăng lên 4,95 triệu lượt năm 2017
(tăng xấp xỉ 4 lần). Thị phần khách quốc tế tăng lên chiếm xấp xỉ 40% lượng khách
cả nước. Hà Nội tiếp tục khẳng định là trung tâm du lịch, là nguồn phân phối du
khách lớn của khu vực phía Bắc, cầu nối đưa khách du lịch trong ASEAN và các
nước trong khu vực.
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) khả quan, đặc biệt nhờ cải thiện
mạnh mẽ môi trường kinh doanh, 7 tháng đầu năm 2018, Hà Nội vươn lên dẫn đầu
cả nước về FDI. Số DN trên địa bàn không ngừng tăng lên. Tín dụng tăng trưởng
tốt, bình quân hàng năm đạt khoảng 21,7%. Thu ngân sách giai đoạn 2008 - 2017
liên tục đạt và vượt dự toán, bình quân hàng năm tăng 12,69%/năm. Năm 2017, thu

ngân sách ước thực hiện 212.276 tỷ đồng, gấp 2,93 lần năm 2008. Cân đối ngân
25


×