TRƯỜNG....
KHOA...
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI : Công tác quản lý, bảo tồn và phát triển di tích lịch sử văn hoá
chùa Cổ Am, xã Diễn Minh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
HỌ TÊN SINH VIÊN :
KHOA
:
GV HƯỚNG DẪN
:
LỚP
:
MSSV
:
Hà Nội 2018
LỜI CÁM ƠN
Với những kiến thức tích lũy được trong suốt thời gian học tập, nghiên
cứu tại trường ....... tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của Ban
Giám Hiệu nhà trường, Quý Thầy/Cô, cùng với sự nhiệt tình giúp đỡ của ......
giảng viên khoa ..............
Đến nay, tôi đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình, với sự trân
trọng tôi xin chân thành cảm ơn đến:.................., người đã trực tiếp hướng dẫn
tôi trong suốt thời gian hoàn thành khóa luận. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến Quý Thầy/Cô trong Khoa .............đã tận tình cung cấp tài liệu cần
thiết và đóng góp nhiều ý kiến quý báu để tôi hoàn thành khóa luận này.
Kính chúc Quý nhà trường đạt được nhiều thành công trong công tác giáo
dục.
Sinh viên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan : Khoá luận tốt nghiệp với đề tài : Công tác quản lý, bảo
tồn và phát triển di tích lịch sử văn hoá chùa Cổ Am, xã Diễn Minh, huyện Diễn
Châu, tỉnh Nghệ An là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, không sao chép
của bất cứ ai.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của riêng mình !
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Sinh viên
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG BÀI
DTLS
VH
DTLS VH
DS
DSVH
UBND
BQL
DT
Di tích lịch sử
Văn hóa
Di tích lịch sử văn hóa
Di sản
Di sản văn hóa
Ủy ban nhân dân
Ban quản lý
Di tích
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghệ An là một tỉnh lớn nằm ở phía Bắc miền Trung với cảnh quan thiên
nhiên đẹp như tranh vẽ. Nghệ An còn là mảnh đất đã sản sinh nhiều danh nhân
lịch sử, nhà khoa bảng, nhà khoa học, nhà văn hóa nổi tiếng như Mai Hắc Đế,
thi sĩ Hồ Xuân Hương… Đặc biệt Nghệ An là quê hương của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, một nhà yêu nước lớn, một danh
nhân văn hóa thế giới và anh hùng giải phóng dân tộc.
Trong những năm qua, nhất là từ khi Luật di sản văn hóa được ban hành ,
công tác quản lý di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Nghệ An có nhiều
chuyển biến tích cực. Các di tích trọng điểm của tỉnh đã được quản lý, đầu tư
trùng tu, tôn tạo, phát huy tác dụng đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ văn hóa
của cộng đồng trong và ngoài tỉnh. Tuy nhiên, công tác quản lý di tích vẫn còn
bộc lộ nhiều hạn chế như việc chống xuống cấp, xử lý lấn chiếm đất đai, khoanh
vùng bảo vệ di tích, nhiều di tích còn bị mất cắp cổ vật, di vật; việc tuyên
truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước về di tích đến cộng đồng còn chưa thực hiện đầy đủ, có kế hoạch…
Cũng như các tỉnh khác của Việt Nam, truyền thống văn hóa của Nghệ An rất
phong phú. Là một tỉnh có nhiều dân tộc cùng sinh sống, mỗi dân tộc đều mang
một bản sắc văn hóa, ngôn ngữ riêng giàu truyền thống. Nghệ An là xứ sở của
nền văn hóa dân gian đặc sắc với những điệu hò, hát phường vải, hát đò đưa…
Du khách đến với bất kỳ lễ hội hay di tích lịch sử nào của tỉnh Nghệ An đều có
thể thưởng thức loại hình sinh hoạt văn hóa đặc sắc này.
Chùa Cổ Am là ngôi chùa cổ đi cùng với lịch sử dân tộc Lèn Hố Lĩnh, thuộc
xã Diễn Minh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, nằm trong quần thể di tích lịch
sử văn hóa Lèn Hai Vai. Hiện nay, Nghệ An là địa phương có tốc độ phát triển
kinh tế - xã hội nhanh, quá trình CNH, ĐTH diễn ra mạnh mẽ. Điều này có
những tác động tích cực đến bảo tồn, phát huy giá trị di tích như tăng nguồn
6
ngân sách để trùng tu, tôn tạo cho các di tích lịch sử tại đây cũng như di tích
chùa Cổ Am, xã Diễn Minh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Do đó vấn đề đặt
ra là cần có những biện pháp quản lý cũng như giữ gìn được những giá trị vốn
có của di tích là điều vô cùng quan trọng. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này em xin
chọn đề tài : Công tác quản lý, bảo tồn và phát triển di tích lịch sử văn hoá
chùa Cổ Am, xã Diễn Minh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động quản lý di tích lịch sử văn hóa với những
thành công, hạn chế và xác định nguyên nhân của các hạn chế.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đạt hiệu quả cao hơn nữa trong công tác
quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của di tích lịch sử văn hoá chùa Cổ Am, xã
Diễn Minh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là toàn bộ các vấn đề liên quan đến
quản lý di tích lịch sử văn hoá chùa Cổ Am, xã Diễn Minh, huyện Diễn Châu,
tỉnh Nghệ An trong những năm qua, trong đó tập trung vào nghiên cứu các chính
sách của Đảng, Nhà nước và địa phương về bảo tồn di tích và chính sách đối với
cộng đồng tham gia bảo tồn di tích, cơ cấu tổ chức bộ máy và các hoạt động
trong lĩnh vực quản lý di tích lịch sử văn hóa, vai trò của cộng đồng trong quản
lý; những tác động quá trình CNH, ĐTH đến quản lý di tích lịch sử văn hóa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: di tích lịch sử văn hoá chùa Cổ Am, xã Diễn Minh,
huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
- Phạm vi thời gian: từ khi Luật di sản văn hóa được ban hành năm 2001
cho đến nay.
7
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Văn hóa học, Quản lý văn hóa, Sử
học, Bảo tồn di tích lịch sử văn hóa...
- Phương pháp khảo sát, điền dã thực địa:
- Áp dụng phương pháp nghiên cứu của xã hội học văn hóa: phương pháp
nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng
- Phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, phân loại và so sánh.
5. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
của khóa luận được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về quản lý , bảo tồn và phát triển di tích
lịch sử văn hóa
Chương 2: Thực trạng quản lý và bảo tồn di tích lịch sử văn hoá chùa Cổ
Am, xã Diễn Minh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý và bảo tồn di tích
lịch sử văn hoá chùa Cổ Am, xã Diễn Minh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ, BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN
DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA
1.1.
Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm di tích
Di tích là dấu vết của quá khứ còn lưu lại trong lòng đất hoặc trên mặt đất có
ý nghĩa về mặt văn hóa và lịch sử. Ở Việt Nam, 1 di tích khi đủ các điều kiện sẽ
được công nhận theo thứ tự: di tích cấp tỉnh, di tích cấp quốc gia và di tích quốc
gia đặc biệt. Tính đến năm 2014, Việt Nam có hơn 40.000 di tích, thắng cảnh
trong đó có hơn 3.000 di tích được xếp hạng di tích quốc gia và hơn 7.000 di
tích được xếp hạng cấp tỉnh. Mật độ và số lượng di tích nhiều nhất ở 11 tỉnh
vùng đồng bằng sông Hồng với tỷ lệ chiếm khoảng 70% di tích của Việt Nam.
Trong số di tích quốc gia có 62 di tích quốc gia đặc biệt và trong số đó có 8 di
sản thế giới.
Di tích là những bằng chứng vật chất có ý nghĩa quan trọng, minh chứng về
lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Di tích giúp cho con người
biết được cội nguồn của dân tộc mình, hiểu về truyền thống lịch sử, đặc trưng
văn hoá của đất nước và do đó có tác động ngược trở lại tới việc hình thành
nhân cách con người Việt Nam hiện đại.
Di tích chứa đựng giá trị kinh tế to lớn (trị giá nhiều ngàn tỷ đồng) nếu bị mất
đi không đơn thuần là mất tài sản vật chất, mà là mất đi giá trị tinh thần lớn lao
không gì bù đắp nổi. Đồng thời, di tích còn mang ý nghĩa là nguồn lực cho phát
triển kinh tế, một nguồn lực rất lớn, sẵn có nếu được khai thác, sử dụng tốt sẽ
góp phần không nhỏ cho việc phát triển kinh tế đất nước và nó càng có ý nghĩa
to lớn khi đất nước đang rất cần phát huy tối đa nguồn nội lực để phát triển.
Mỗi quốc gia đều có những quan điểm về di tích lịch sử văn hoá. Để các
khái niệm này được thống nhất với nhau thì cần có những quy định chung:
9
- Di tích lịch sử văn hoá là nơi ẩn dấu của một bộ phận văn hoá khảo cổ về
dân tộc.
- Những nơi diến ra sự kiện chính trị quan trọng có ý nghĩa thúc đẩy lịch sử
đất nước lịch sử địa phương phát triển.
- Những điểm ghi dấu chiến công chống xâm lược áp bức.
- Những nơi ghi dấu giá trị lưu niệm về các nhân vật lịch sử, anh hùng dân
tộc, danh nhân văn hoá khoa học.
- Những công trình kiến trúc có giá trị toàn quốc hoặc khu vực.
- Những danh lam thắnh cảnh do thiên nhiên bài trí sẵn hoặc do bàn tay con
người tạo dựng lên , được xếp là một loạt các di tích lịch sử văn hoá.
1.1.2. Khái niệm di tích lịch sử văn hóa
Di tích lịch sử là nơi ghi dấu sự kiện chính trị quan trọng, tiểu biểu có ý
nghĩa quyết định chiều hướng phát triển của đất nước của địa phương. Đây là
nơi ghi dấu những kỉ niệm , ghi dấu chiến công chống xâm lược , ghi dấu tội ác
của phong kiến và đế quốc.
Di tích văn hoá là những địa điểm ẩn dấu một bộ phận giá trị văn hoá
trong lịch sử, là những di tích gắn với các công trình kiến trúc có giá trị. Những
di tích này không chỉ chứa đựng giá trị kiến trúc mà chứa đựng cả những giá trị
văn hoá xã hội văn hoá tinh thần.
Như vậy di tích lịch sử - văn hoá là công trình xây dựng, địa điểm và các
di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử,
văn hoá, khoa học. Di tích lịch sử - văn hoá phải có một trong các tiêu chí sau
đây:
Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong quá trình
dựng nước và giữ nước. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như đền Hùng, Cổ
Loa, cố đô Hoa Lư, chùa Thiên Mụ, Cột cờ...
10
Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh
hùng dân tộc, danh nhân của đất nước. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như
khu di tích lịch sử Kim Liên, đền Kiếp Bạc, Đền Mẫu Đợi , Lam Kinh, đền
Đồng
Nhân...
Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của các thời kỳ
cách mạng, kháng chiến. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như khu di tích
chiến thắng Điện Biên Phủ, Địa đạo Củ Chi, khu di tích lịch sử cách mạng Pắc
Bó...
1.1.3. Khái niệm bảo tồn
Theo từ điển tiếng Việt: “bảo tồn” là “giữ lại không để cho mất đi”. Bảo
tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật hiện tượng theo dạng thức vốn có
của nó, bảo tồn là không để mai một không để thay đổi, biến hóa hay biến thái.
Theo quan niệm của GS.TS. Trần Ngọc Thêm trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt
Nam trang 91 thì: Bảo tồn chính là hoạt động giữ gìn một cách an toàn khỏi sự
tổn hại, sự xuống cấp hoặc phá hoại, hay nói cách khác bảo tồn có nghĩa là bảo
quản kết cấu một địa điểm ở hiện trạng và hãm xuống cấp của kết cấu đó .
Đề cập đến vấn đề này, GS.TS. Ngô Đức Thịnh quan niệm bảo tồn là
những nổ lực nhằm gìn giữ các giá trị, bản sắc văn hóa tốt đẹp vốn có (truyền
thống) của mỗi dân tộc, quốc gia.
Khi con người hiểu được những tác động trong cuộc sống sẽ làm ảnh
hưởng đến quá trình tồn tại của các giá trị văn hóa thì họ đã nghĩ đến việc bảo
tồn. Do đó, trong tiến trình lịch sử, hoạt động bảo tồn di sản văn hóa xuất hiện
ngay từ khi con người ý thức được giá trị của di sản văn hóa trong đời sống,
đồng thời hiểu được mối nguy hại do tác động của thiên nhiên và chính con
người gây ra, họ đã không ngừng tìm kiếm các biện pháp bảo tồn. Công tác bảo
tồn di sản văn hóa có nhiều cấp độ khác nhau, bao gồm các hoạt động như: bảo
tồn nguyên trạng, trùng tu, gia cố, tái định vị, phục hồi, quy hoạch bảo tồn.
11
Tuy nhiên, cần phải hiểu bảo tồn di sản văn hóa là việc bảo vệ, giữ gìn
những giá trị liên quan từ quá khứ đến hiện tại làm cho di sản văn hóa giàu có
hơn và tất yếu, cái được bảo tồn phải phù hợp với thời đại để nó có thể tiếp tục
song hành cùng xu hướng đi lên của cuộc sống. Bảo tồn chính là những nổ lực
nhằm đảm bảo sự an toàn, phát triển qua việc giới thiệu, trưng bày, khôi phục,
tôn tạo, quảng bá và phát triển nhằm phục vụ các hoạt động tiến bộ của con
người trong xã hội.
1.1.4. Khái niệm quản lý di tích lịch sử văn hóa
Quản lý (thuật ngữ tiếng Anh là Management [ˈmænɪdʒmənt],
tiếng lat. manum agere - điều khiển bằng tay) đặc trưng cho quá trình điều khiển
và dẫn hướng tất cả các bộ phận của một tổ chức, thường là tổ chức kinh tế,
thông qua việc thành lập và thay đổi các nguồn tài nguyên (nhân lực, tài
chính, vật tư, trí thực và giá trị vô hình).
Đầu thế kỷ 20 nhà văn quản lý Mary Parker Follett định nghĩa quản lý là
"nghệ thuật khiến công việc được làm bởi người khác".
Các nguồn lực thực hiện dự án đều có giới hạn và các tiến trình phải thỏa
mãn tất cả các điều kiện ràng buộc, nên các tiến trình cần được hoạch định cẩn
thận để không dư thừa, điều khiển để thực hiện đúng, giám sát để phát hiện bất
thường, đo lường để biết mức độ hoàn thành được gọi chung là quản lý.
Quản lý, theo nghĩa chung nhất, là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối
tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Quản lý là một hoạt động có tính
chất phố biến, mọi nơi, mọi lúc, trong mọi lĩnh vực, mọi cấp độ và liên quan đến
mọi người. Đó là một hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính chất cộng đồng dựa
trên sự phân công và hợp tác làm một công việc để đạt được mục tiêu chung.
Theo nghĩa rộng, quản lý là hoạt động có mục đích của con người. Ọuản
lý là hoạt động do một hay nhiều người điều phối hành động của những người
khác nhằm đat được một mục tiêu nào đó một cách có hiệu quả.
12
Như vậy, khái niệm quản lý có thể được hiểu: “Quản lý là một quá trình
tác động gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt
dược mục tiêu chung. Bản chất của quản lý là một loại lao động để điều khiển
lao động xã hội ngày càng phát triển, các loại hình lao động phong phú, phức
tạp thì hoạt động quản lý càng có vai trò quan trọng”.
Quản lý di tích lịch sử văn hóa là việc đưa ra và thực hiện các giải pháp
được đặt ra như rà soát, điều chỉnh giảm tần suất, thời gian tổ chức, nhất là
những di tích có quy mô lớn, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở từng địa
phương, hạn chế sử dụng ngân sách nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các nguồn
lực trong việc tổ chức lễ hội; đồng thời, quản lý chặt chẽ các loại hình dịch vụ,
xử lý nghiêm hành vi lưu hành những ấn phẩm văn hóa trái phép, tuyên truyền
mê tín, dị đoan và tổ chức các hoạt động trái pháp luật trong di tích lịch sử văn
hóa; khắc phục tình trạng phô trương hình thức, lãng phí, tốn kém và thương
mại hóa...
Di tích sinh ra từ chính cuộc sống lao động, sản xuất, sinh hoạt của con
người. Quản lý di tích mà vẫn tạo sự hấp dẫn, vẫn giữ được các nguyên tắc thẩm
mỹ phù hợp với cộng đồng là tất yếu nhưng mặt khác, những di tích lịch sử văn
hóa hoặc yếu tố lễ hội không còn phù hợp với đời sống và các giá trị đời sống
hiện đại thì phải loại bỏ cũng là tất yếu. Những quy định của Trung ương, thành
phố vừa là gợi mở, định hướng vừa là yêu cầu phù hợp đối với công tác quản lý
và tổ chức lễ hội hiện nay. Mùa lễ hội đang đến gần, việc cần làm của mỗi cấp
ủy, chính quyền, tổ chức là thực hiện thật tốt công tác quản lý di tích lịch sử văn
hóa, để mỗi người dân được thưởng thức một mùa lễ hội vui tươi, lành mạnh, an
toàn. Đó cũng chính là cách để gìn giữ mãi mãi nét đẹp văn hóa truyền thống
cho mai sau.
1.2.
Vai trò của di tích lịch sử
Di tích lịch sử văn hoá là một sản phẩm có giá trị gồm các đình chùa đền
miếu là những di sản văn hoá vật thể, chứa tiềm ẩm trong đó là các hình thức
13
sinh hoạt văn hoá mang bản sắc tôn giáo, tín ngưỡng riêng của từng vùng, từng
miền.
Các di tích lịch sử văn hoá đều mang trong mình thông điệp của quá
khứ . Nơi đây trở thành không gian văn hoá cho nhân dân trong những dịp sinh
hoạt lễ hội truyền thống, lễ hội tôn giáo nơi họ được quyền thể hiện các nghi
thức, lễ thức bày tỏ tâm linh, tâm nguyện của mình. Khách đến với các di tích
lịch sử văn hoá không đơn thuần là chỉ để tham quan, thể hiện tâm linh mà còn
là để tìm hiểu, nghiên cứu khoa học. Vì vậy các di tích lịch sử văn hoá có vai trò
quan trọng trong hoạt động du lịch , là điều kiện giúp cho du lịch đất nước ngày
một phát triển.
Việt Nam là một quốc gia thống nhất có 54 dân tộc. Mỗi dân tộc đều có
kho tàng di sản văn hóa phong phú, đa dạng, đặc sắc của dân tộc mình. Hệ thống
giá trị của di sản văn hóa mỗi dân tộc cũng chính là tài sản vô giá để các dân tộc
trong nước giao lưu hiểu biết lẫn nhau qua đó hiểu biết sâu sắc hơn giá trị văn
hóa của nhau, càng tôn trọng nhau, cùng vun đắp tình đoàn kết, hữu nghị, hòa
bình và phát triển, chung xây tổ quốc Việt Nam phát triển bền vững, sánh vai với
các nước trong khu vực và thế giới.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, trước sự phát triển như vũ bão của
khoa học, công nghệ, các dân tộc tất yếu phải tham gia vào quá trình toàn cầu
hóa. Tham gia vào toàn cầu hóa, các dân tộc có cơ hội giới thiệu cái hay, cái tốt,
cái đẹp của văn hóa dân tộc mình, từ đó làm giàu có kho tàng văn hóa nhân loại,
đồng thời các dân tộc có cơ hội tiếp thu tinh hoa văn hóa của các dân tộc trên thế
giới tự làm giàu có tài sản văn hóa của dân tộc mình. Chúng ta hội nhập quốc tế,
tham gia toàn cầu hóa bằng nguồn vốn văn hóa của dân tộc do cha ông để lại và
những gì hiện có hôm nay.
Trống đồng Ngọc Lũ (thời văn hóa Đông Sơn), chiếc áo dài Việt Nam…
có giá trị biểu trưng cho văn hóa dân tộc. Vịnh Hạ Long, khu di tích tháp Chăm
Mỹ Sơn, phố cổ Hội An, cố đô Huế, Hoàng thành Thăng Long… được
14
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Nhã nhạc cung đình Huế, không
gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, quan họ Bắc Ninh, Hội Gióng… được
ghi vào danh sách di sản phi vật thể đại diện của nhân loại. Những giá trị của các
di sản văn hóa trên giúp chúng ta tự hào về văn hóa dân tộc, chủ động và tự tin
trong giao lưu văn hóa, hội nhập quốc tế.
Do vậy, các giá trị của di tích lịch sử văn hoá chính là tài sản vô giá, niềm
tự hào dân tộc, để giao lưu, hợp tác văn hóa với các nước, để khẳng định những
đặc trưng văn hóa của dân tộc trong bối cảnh đa dạng hóa các nền văn hóa.
Giao lưu văn hóa giữa các dân tộc không chỉ là động lực tinh thần mà còn
đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia.
Rất nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể ở nước ta có giá trị đại diện nhân
loại và các giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học khác đã trở thành tụ điểm du lịch
hấp dẫn, điểm đến của du khách nhiều nước trên thế giới, đem lại nguồn lợi
đáng kể cho dân chúng nơi có di sản văn hóa và đóng góp ngân sách quốc gia,
phát triển ngành nghề và dịch vụ phục vụ du lịch
1.3.
Nội dung quản lý di tích lịch sử văn hóa
Quản lý di tích lịch sử văn hóa là sự định hướng, tạo điều kiện của tổ
chức điều hành việc bảo vệ, gìn giữ các DTLS - VH, làm cho giá trị của di tích
phát huy theo chiều hướng tích cực. Nội dung Quản lý nhà nước về di sản được
đề cập trong Luật DSVH do Quốc hội nước CHXH chủ nghĩa Việt Nam ban
hành năm 2001, sửa đổi, bổ sung một số điều 2009.
Nội dung của Quản lý nhà nước về di sản văn hóa bao gồm;
1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược quy hoạch, chính sách cho sự
nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa;
2. Ban hành và thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn
hóa;
15
3. Tổ chức chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị DTLS - VH
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa;
4. Tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ chuyên môn về di sản văn hóa
5. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị
di sản văn hóa;
6. Tổ chức chỉ đạo, khen thưởng trong việc bảo vệ và phát huy giá trị
7. Tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa;
8. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khâu khiếu nại
tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn hóa.
1.4.
Quan điểm của Đảng và nhà nước về quản lý di tích lịch sử văn
hóa
Di tích lịch sử văn hóa là tài sản vô cùng quý báu mà cha ông ta đã để lại
cho hậu thế. Vì vậy gìn giữ DTLS - VH chính là tiếp tục kế thừa những truyền
thống tốt đẹp của cha ông đó là việc rất cần thiết. Đảng và nhà nước đã ban hành
và hoàn thiện các văn bản qui phạm pháp luật.
Cách mạng tháng 8/11945 giành được độc lập, ngày 23/11/1945 Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ký xác lệnh số 65-SL về quản lý di sản văn hóa. Sắc lệnh gồm 6
điều, ấn định nhiệm vụ cho Đông phương Bác cổ học viện có nhiệm vụ bảo tồn
tất cả cổ tích trong toàn cõi Việt Nam, và nghiêm cấm việc phá hủy đền, chùa,
đình, miếu, điện, thành quách , lăng mộ.
Ngày 28/6/1956, Trung ương Đảng ra thông tư số 38/TT- TW về việc bảo
vệ di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh. Trong đó đề cập đến việc nâng cao ý
thức trách nhiệm bảo vệ di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh trong các cấp, các
ngành, các tổ chức xã hội và toàn dân; đình chỉ ngay các hoạt động kinh tế đang
phương hại trực tiếp đến các di tích; tiến hành phân loại và xây dụng kế hoạch tu
16
bổ các di tích Ngày 3/7/1957, Thủ tướng Chính phủ ra thông tư số 954/TTg về
việc bảo vệ di tích và danh lam thắng cảnh.
Ngày 29/10/1957, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ký nghị định số 519/TTg
về việc bảo vệ sử dụng DTLS-VH và danh lam thắng cảnh. Đây là văn bản pháp
lý cập nhật đầy đủ đến việc quản lý nhà nước đối vơi DTLS - VH trong suốt hai
thập kỷ chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta.
Nghị định gồm 7 mục với 32 điều trong đó đề cập tới công tác quản lý
DTLS-VH ở các góc độ như liệt hạng di sản văn hóa, quy định những tiêu chuẩn
của các công trình được hạng là DTLS-VH; việc trùng tu tôn tạo di tích; chế độ
khen thưởng và kỷ luật đối với tổ chức cá nhân có thành tích trong việc bảo vệ
và phát huy tác dụng DTLS-VH.
Nghị định 519/TTg do thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 19/10/1957 đã
phát huy tác dụng trong đời sống xã hội, có giá trị lớn trong việc bảo tồn, giữ gìn
và phát huy DSVH Việt Nam phục vụ tích cực cho sự nghiệp cách mạng do
Đảng lãnh đạo. Ngày 31/3/1984, Hôi đồng nhà nước đã ban hành và công bố
Pháp lệnh số 14LCT/HĐNN về việc bảo vệ và sử dụng DTLS-VH và các danh
lam 18 thắng cảnh. Pháp lệnh có 5 chương và 27 điều, xác định rõ biện pháp
quản lý nhà nước đối với các di sản văn hóa gồm 3 việc: “Kiểm kê, đăng ký,
công nhận và xác định các loại hình di tích và danh thắng.
Quy định chế độ bảo vệ và sử dụng DTLS - VH và các danh lam thắng
cảnh, tổ chức thực hiện các chế độ đó. Thanh tra việc thi hành những quy định
của pháp luật về bảo vệ, sử dụng DTLS-VH và các danh lam thắng cảnh . Pháp
lệnh số 14-LTC/HĐNN ra đời đã tập trung thống nhất quản lý, sử dụng DTLSVH và danh lam thắng cảnh trên phạm vi cả nước, đưa công tác kiểm kê, lập hồ
sơ xếp hạng vào nề nếp. Quy định về cổ vật, việc tu bổ, tôn tạo và hoạt động bảo
vệ di tích cũng đã rõ ràng và chặt chẽ. Pháp lệnh ra đời có ý nghĩa to lớn, là
bước tiến về mặt pháp lý với mục đích làm cho công tác quản lý di sản văn hóa
của dân tộc hoàn thiện hơn. Trong quá trình phát triển của đất nước, nhất là thời
17
kỳ đổi mới, hội nhập, giao lưu rộng rãi với các nước trên thế giới. Để bảo vệ di
sản văn hóa được toàn diện, đầy đủ, phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu
cầu của thời kỳ mới. Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII về việc “Xây dụng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.
Ngày 22/7/2001, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam đã ký lệnh số
09/LCTL công bố Luật Di sản văn hóa được kỳ họp quốc hội thữ IX thông qua
ngày 29/6/2001, Luật có hiệu lực từ ngày 1/1/2002. Với việc ra đời luật Di sản
văn hóa đã tạo hành lang pháp lý cho công tác quản lý DTLS - VH trong cả
nước. Luật Di sản văn hóa gồm 7 chương 74 điều, trong đó quy định rõ nội dung
quản lý nhà nước về DSVH, phân định trách nhiệm của các cấp đối với việc
quản lý DSVH gồm: “Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về di sản văn hóa;
Bộ văn hóa Thông tin chịu trách nhiệm trước chính phủ thực hiện quản lý nhà
nước về di sản văn hóa; các Bộ; cơ quan ngang Bộ; cơ quan trực thuộc Chính
phủ có trách nhiệm quản lý nhà nước về DSVH theo phân công của Chính phủ;
UBND các cấp 19 trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình thực hiện
việc quản lý DSVH ở địa phương theo phân cấp của Chính phủ” .
Sau một thời gian áp dụng, Luật Di sản văn hóa 2001 không phù hợp với
thực tiễn đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Vì vậy Luật Di sản văn hóa 2001
được sửa đổi bổ sung một số điều luật năm 2009 là văn bản hợp nhất giữa luật
Di sản văn hóa năm 2001 và sửa đổi bổ sung một số điều Luật Di sản văn hóa
năm 2009. Luật điều chỉnh những vấn đề hoàn toàn mới, hoàn thiện nâng cao
những vấn đề đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật trước đây
phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế. Những văn bản pháp luật về bảo vệ và
phát huy giá trị Di sản văn hóa qua từng thời kỳ lịch sử, cái sau có giá trị cao
hơn cái trước, cho thấy tính nhất quán tạo động lực giúp cho sự nghiệp bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa, tôn vinh những di sản văn hóa tiêu biểu nhất, tạo
điều kiện thuận lợi để thu hút nguồn lực của nhiều thành phần kinh tế phục vụ
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
18
Luật Di sản văn hóa để thực thi Chính phủ, Bộ VH-TT&DL ban hành một
số văn bản hướng dẫn thi hành: Ngày 11/11/2002, Chính phủ nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Nghị định số 92/2002/NĐ-CP quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật di sản văn hóa. Ngày 24/7/2001, Bộ trưởng Bộ
VH-TT&DL ra quyết định số 1709/ QĐ- BVHTT phê duyệt quy hoạch tổng thể
bảo tồn và phát huy giá trị DTLSVH và danh lam thắng cảnh đến năm 2010.
Ngày 6/2/2003, Bộ trưởng Bộ VH-TT&DL ban hành quy chế bảo quản, tu
bổ và phục hồi DTLS-VH và danh lam thắng cảnh. Nhà nước ban hành các văn
bản pháp lý trong lĩnh vực quản lý di sản văn hóa là cơ sở để các địa phương
trong đó có Ban quản lý di tích phường 20 Phương Liên, quận Đống Đa thực
hiện công tác quản lý DTLS-VH góp phần gìn giữ những giá trị truyền thông
văn hóa tốt đẹp mà ông cha ta để lại.
Luật Di sản văn hoá được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, khoá X kỳ họp thứ 9 thông qua đã khẳng định “Di sản văn hoá Việt Nam
là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của Di
sản văn hoá nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước
của nhân dân ta”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII đã xác định 10 nhiệm vụ về xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó nhiệm vụ thứ tư là bảo tồn
và phát huy các di sản văn hóa. Nghị quyết đã chỉ rõ nội dung của nhiệm vụ này
như sau: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi
của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa.
Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống
(bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi
vật thể.
Nhận thức của toàn xã hội về vai trò, ý nghĩa, giá trị của di sản văn hóa
nói chung, di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh nói riêng ngày càng
được nâng cao. Bảo vệ di tích, phát huy giá trị của di tích phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đấu tranh chống vi phạm đã trở thành
19
nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân. Hàng ngàn di tích được xếp hạng
và tu bổ trong mấy chục năm qua đã thể hiện những nỗ lực to lớn của toàn xã
hội chăm lo và bảo vệ di tích. Về cơ bản hệ thống di tích của đất nước đã được
bảo vệ, chăm sóc và tu bổ bảo đảm khả năng tồn tại lâu dài. Tuy nhiên, do trải
qua hàng chục năm chiến tranh, chúng ta chưa có nhiều điều kiện chăm lo, bảo
vệ di tích nên đến nay, mặc dù đã rất cố gắng nhưng vẫn còn nhiều di tích bị vị
phạm chưa được giải tỏa. Phần lớn các vi phạm này đã diễn ra từ nhiều chục
năm nay nên việc giải quyết cần có quyết tâm và sự phối hợp của nhiều ngành,
nhiều cấp.
1.5.
Ý nghĩa quản lý di tích lịch sử văn hóa
1.5.1. Quản lý di tích lịch sử văn hóa gắn kết cộng đồng dân tộc
trong một quốc gia Việt Nam thống nhất, đa dạng văn
hóa
Trước hết phải khẳng định rằng, di tích lịch sử văn hóa là một bộ phận
quan trọng nhất, chứa đựng những yếu tố cốt lõi của văn hóa dân tộc. Bản thân
các di sản văn hóa do cha ông ta sáng tạo ra, truyền lại cho thế hệ hôm nay tạo
ra một hệ thống các giá trị có vai trò to lớn trong quá trình dựng nước và giữ
nước của dân tộc. Hệ thống giá trị đó chẳng những là tài sản vô giá mà còn là
những thông điệp có ý nghĩa của cha ông ta đúc kết ở mỗi thời điểm lịch sử, rút
ra những bài học lịch sử, thể hiện nghệ thuật ứng xử của cha ông ta trong cải tạo
tự nhiên, đấu tranh xã hội, chống giặc ngoại xâm, mở rộng quan hệ, hợp tác với
các nước để xây dựng một quốc gia Việt Nam thống nhất trong đa dạng văn hóa.
Một trong những giá trị tiêu biểu nhất của di tích lịch sử văn hóa là đề cao
tinh thần yêu nước, đoàn kết mọi người dân, mọi dân tộc, tạo ra sức mạnh tinh
thần vượt mọi khó khăn, gian khổ, hiểm nguy bảo vệ cho được độc lập dân tộc,
thống nhất tổ quốc. Di sản văn hóa tạo ra những biểu tượng văn hóa gắn kết các
cộng đồng dân tộc trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Mỗi
người Việt Nam ai cũng tự hào mình là con cháu cha rồng (Lạc Long Quân), mẹ
tiên (Âu Cơ), tự hào về các dân tộc trong nước đều là anh em, từ một bọc sinh ra
20
(đồng bào). Mỗi người Việt Nam tự hào về vua Hùng, người đứng đầu nhà nước
Văn Lang đầu tiên của dân tộc, khẳng định vua Hùng là quốc tổ, có ngày giỗ tổ
(mùng mười tháng ba), có hệ thống đền miếu tôn thờ, được tổ chức lễ hội tưng
bừng hàng năm.
Một đặc điểm dễ nhận ra là hệ thống các di tích lịch sử văn hóa ở nước ta,
từ Bắc đến Nam, phần lớn thờ phụng những người có công chống giặc ngoại
xâm, dẹp loạn cát cứ, xây dựng tinh thần đoàn kết, hòa hiếu giữa các dân tộc.
Nhân dân không chấp nhận tôn vinh những người đi ngược lại quyền lợi của các
dân tộc, của quốc gia, phá vỡ tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. Rất nhiều di
sản văn hóa vật thể và phi vật thể ở các dân tộc anh em trên đất nước ta đã thể
hiện rõ nét tinh thần hòa hiếu giữa các dân tộc. Các yếu tố di sản văn hóa của
các dân tộc trong quá trình giao lưu được các dân tộc học hỏi, tiếp thu cái hay,
cái tốt, làm giàu có vốn văn hóa của dân tộc mình. Như vậy, giá trị của các di
sản văn hóa dân tộc vừa là tài sản, vừa là tiềm lực tạo ra sức mạnh tinh thần gắn
kết cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Lịch sử dân tộc ta đã chứng minh sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong chống giặc ngoại xâm chính là từ sức
mạnh của văn hóa, trong đó có vai trò của những giá trị di sản văn hóa vun đắp
qua bao thế kỷ.
Lịch sử cũng đã chứng minh, sự gắn kết cộng đồng của các dân tộc Việt
Nam là cơ sở xây dựng môi trường hòa bình, ổn định để quốc gia phát triển và
mỗi dân tộc có điều kiện tốt nhất để phát triển dân tộc mình.
1.5.2. Quản lý di tích lịch sử văn hóa là giữ gìn những chuẩn
mực cốt lõi phản ánh đậm nét bản sắc dân tộc
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về văn hóa đưa ra khái niệm: “Bản
sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và
giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn
kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - tổ quốc; lòng nhân
21
ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao
động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống… Bản sắc văn hóa dân
tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo”.
Các sản phẩm vật chất, tinh thần của di tích lịch sử văn hoá hàm chứa giá
trị lịch sử, văn hóa, khoa học được bảo tồn dưới dạng nguyên gốc, nguyên trạng,
kết tinh tài năng, trí tuệ, tính tư tưởng, thẩm mỹ của thời điểm lịch sử sáng tạo ra
các sản phẩm đó, đồng thời các sản phẩm đó được lưu truyền qua các thế hệ
được cộng đồng các dân tộc sàng lọc, vun đắp, giữ gìn những giá trị có tính tiêu
biểu, chứa đựng những tinh hoa văn hóa của các dân tộc, vì thế nó là những giá
trị bền vững, lâu dài, hình thành truyền thống và những tính cách, nét riêng biệt
của các nhóm người, các dân tộc. Những giá trị ấy được xác định là những
chuẩn mực cốt lõi phản ánh đậm nét bản sắc dân tộc được cộng đồng các dân tộc
thừa nhận, bảo lưu và truyền lại cho các thế hệ sau, coi như là một mã di truyền
xã hội.
Hệ thống giá trị của di tích lịch sử văn hoá thể hiện những chuẩn mực về
nội dung và hình thức của bản sắc dân tộc.
Khi phân tích các kiểu giá trị, các tầng bậc giá trị qua các sự vật, hiện
tượng nguyên gốc, nguyên trạng, chúng ta nhận thức đầy đủ hơn, xác định rõ
hơn cái nào là bản sắc dân tộc. Và chúng ta chỉ có thể xác nhận đầy đủ, rõ nét
nhất những gì là bản sắc văn hóa dân tộc, cả về nội dung và hình thức, thông qua
tài sản vô giá là di sản văn hóa do quá khứ để lại. Qua phân tích các sản phẩm
của di sản văn hóa, dưới góc độ khoa học, chúng ta biết được đâu là yếu tố bản
địa, đâu là yếu tố ngoại lai, sự biến đổi của yếu tố bản địa, ngoại lai được phản
ánh trong di sản, từ đó chỉ ra những chuẩn mực cốt lõi phù hợp với nhu cầu, điều
kiện lịch sử xã hội của dân tộc đó.
Ví dụ, qua các di sản văn hóa của nền văn hóa Đông Sơn, nhất là các bộ
sưu tập trống đồng và các tục hèm, tín ngưỡng, lễ hội dân gian, chúng ta phân
tích, đánh giá các giá trị của di sản để hiểu biết đầy đủ hơn bản sắc dân tộc Việt
22
ở thời đại vua Hùng và qua đó đối sánh với những hiện hữu di sản trong nền văn
hóa đương đại, tìm ra các yếu tố gốc, sự biến đổi văn hóa qua các thời kỳ lịch sử
để nhìn nhận đánh giá bản sắc dân tộc Việt hôm nay.
Như vậy, hệ thống các giá trị của di sản văn hóa có vai trò tạo nền tảng
hình thành bản sắc dân tộc qua các thời kỳ lịch sử phát triển của dân tộc.
1.5.3. Quản lý di tích lịch sử văn hóa là nguồn vốn vô giá sáng
tạo những giá trị mới trong xã hội đương đại
Để phục vụ cho yêu cầu tăng tốc phát triển đất nước trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, dân tộc ta cần phải phát huy tối đa
các nguồn lực xã hội, trong đó có nguồn vốn văn hóa của cha ông. Bất cứ một
giá trị nào của di sản văn hóa dân tộc trước hết phải thực hiện nhiệm vụ lịch sử ở
thời điểm nó ra đời để đáp ứng nhu cầu của cộng đồng, của xã hội. Các giá trị
của di sản văn hóa dân tộc tất yếu được kế thừa, phát huy trong xã hội đương đại
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới do lịch sử đặt ra. Có điều, mỗi giai đoạn lịch sử
đặt ra yêu cầu mới, chứa đựng những giá trị mới về nội dung tư tưởng và hình
thức nghệ thuật biểu hiện, phù hợp với lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ của thời đại.
Do đó, huy động tối đa nguồn vốn giá trị của di sản văn hóa dân tộc không chỉ
để phát huy mà còn để sáng tạo nên những giá trị mới đáp ứng các yêu cầu,
nhiệm vụ phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Những giá trị mới ấy nhằm mục tiêu xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về văn hóa xác
định nhiệm vụ cụ thể: “Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách
mạng với những đức tính sau:
Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo,
năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
23
Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ
thẩm mỹ và thể lực”.
Những đức tính trên thực chất đã kế thừa những giá trị truyền thống của
dân tộc hình thành qua hàng ngàn năm lịch sử và được nâng lên trong giai đoạn
cách mạng hiện nay, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh.
Nhìn vào một di tích người ta có thể nhận ra trình độ phát triển trong quá
khứ của một dân tộc, cộng đồng dân cư, tìm thấy những giá trị lịch sử, văn hóa
tinh thần trăm năm, ngàn năm chưa phai nhạt. Nhận thức rõ giá trị cốt lõi của di
tích, từ lâu, Đảng, Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách, đầu tư nguồn
lực để bảo tồn di tích trên khắp đất nước.
Một số lễ hội tại các di tích tổ chức với quy mô ngày càng lớn, hình thức
tổ chức với nhiều nội dung, nhiều hoạt động, các địa phương đã dựa vào nội lực
là chính, nhiều lễ hội đã chinh phục được du khách, tôn vinh di sản, nâng cao uy
tín của thương hiệu du lịch hấp dẫn của địa phương.
Kinh nghiệm tổ chức một số Lễ hội Văn hóa, thể thao, du lịch đã dần dần
mang tính chuyên nghiệp hóa góp phần tạo ra doanh thu và hiệu quả đầu tư, góp
phần đẩy mạnh và nâng cao đời sống văn hóa cho nhân dân ở các địa phương.
Đặc biệt loại hình lễ hội văn hóa, thể thao, du lịch đã tạo ra sự đột phá tuyên
truyền quảng bá những tiềm năng thế mạnh, thành tựu kinh tế xã hội của địa
phương, góp phần quảng bá hình ảnh và đất nước con người Việt Nam, tôn vinh
các giá trị văn hóa, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế trong văn hóa du lịch, tạo dấu ấn với du khách trong nước và quốc tế (Festival
Huế, Lễ hội bắn pháo hoa Đà Nẵng, Festival trái cây Nam Bộ...).
Thông qua hoạt động quản lý di tích lịch sử văn hóa đã huy động được
nguồn lực lớn từ nhân dân, phần lớn kinh phí tổ chức lễ hội (đặc biệt là lễ hội
dân gian) đều do nhân dân và du khách thập phương tự nguyện đóng góp. Trong
nhiều lễ hội tại di tích lịch sử, nhân dân đã đóng góp nguồn kinh phí lớn có thể
24
tính được bằng tiền tỷ để trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa, bảo tồn các
phong tục, tập quán truyền thống.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ BẢO TỒN DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HOÁ
CHÙA CỔ AM, XÃ DIỄN MINH, HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN
2.1.
Giới thiệu chung về di tích lịch sử văn hoá chùa Cổ Am, xã Diễn
Minh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
2.1.1. Giới thiệu xã Diễn Minh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Diễn Minh là một xã thuộc huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, Việt Nam.
Xã có diện tích 4,4 km², dân số năm 1999 là 2.749 người, mật độ dân số đạt
625 người/km².
Phía nam giáp huyện Nghi Lộc, phía bắc giáp huyện Quỳnh Lưu, phía tây
giáp huyện Yên Thành (tỉnh Nghệ An), phía đông giáp biển Đông. Huyện Diễn
Châu nằm cách thủ đô Hà Nội 270 km, cách thành phố Vinh 40 km. Huyện Diễn
Châu có đường quốc lộ 1A, sông Bùng và Đường sắt Bắc Nam đi qua.
Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Thanh Hóa – Hà Tĩnh đi
qua đang được xây dựng.
Thời Hùng Vương, Diễn Châu nằm trong Bộ Hoài Hoan. Sau đó, thuộc quận
Cửu Chân rồi quận Cửu Đức, quận Nhật Nam;
- Thời nhà Đường:
Niên hiệu Vũ Đức chia quận Nhật Nam đặt làm Nam Đức châu, Lạo châu,
Minh Châu và Hoan Châu,
25