MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tình hình hiện nay, vai trò của tổ chức công đoàn ngày càng được khẳng
định và lớn mạnh. Công đoàn luôn là chỗ dựa, là niềm tin cho quần chúng, góp phần
quan trọng đại diện cho quần chúng, góp phần quan trọng đại diện cho tiếng nói của
người lao động, đem lại nhiều quyền lợi cho người lao động. Đại hội X Công đoàn
Việt Nam (Họp từ ngày 2 – 5.11.2008) đã đưa ra mục tiêu, phương hướng là “Tiếp tục
đổi mới nội dung và phương thức hoạt động công đoàn theo hướng vì đoàn viên và
người lao động, vì sự phát triển bền vững của đất nước; hướng mạnh về cơ sở, thực
hiện tốt chức năng chăm lo đời sống, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của đoàn viên và người lao động; tham gia có hiệu quả vào công tác quản lý Nhà
nước, quản lý kinh tế - xã hội; nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, vận động,
giáo dục và tổ chức thi đua yêu nước trong đoàn viên và người lao động; đẩy mạnh
phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
công đoàn, xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh, góp phần xây dựng giai cấp công
nhân ngày càng lớn mạnh, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ’’.
Trải qua các thời kỳ đấu tranh cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam đã cùng nhân dân cả
nước viết nên những trang sử vẻ vang của dân tộc. Trong công lao đóng góp của giai
cấp công nhân, của tổ chức Công đoàn Việt Nam có sự đóng góp của đội ngũ công
nhân, Công đoàn Ngành Thương mại và Du lịch, khách sạn.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu và sắp xếp, phân công lại lao động đang diễn ra
mạnh mẽ, phù hợp tiến trình đổi mới nền kinh tế đất nước với sự tham gia của nhiều
thành phần kinh tế và lực lượng lao động. Trong đó, hoạt động ngành khách sạn du
lịch chiếm tỷ trọng tương đối lớn và trong tương lai khu vực này sẽ thu hút ngày càng
nhiều lao động tham gia. Khách sạn Melia Hà nội là một trong những liên doanh đầu
tiên về lĩnh vực kinh doanh khách sạn tại Hà Nội. Đây là khách sạn 5 sao chịu sự quản
lý trực tiếp của tập đoàn SOL MELIA cua Tây Ban Nha. Để có thể cạnh tranh với
hàng loạt các khách sạn lớn thì vấn đề đặt ra hàng đầu đó là việc quản lý và sử dụng
2
nhân lực. Chính vì vậy để hiểu rõ hơn vấn đề này em xin chọn đề tài : Nâng cao năng
lực của tổ chức đoàn cơ sở tại khách sạn Melia Hà Nội.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nêu rõ và đánh giá đúng thực trạng về năng lực của tổ chức đoàn cơ sở tại
khách sạn Melia Hà Nội .
- Đề xuất các giải pháp năng lực của tổ chức đoàn cơ sở tại khách sạn Melia Hà
Nội.
3. Đối tượng nghiên cứu
+ Đối tượng mà đề tài tập trung nghiên cứu là:
- Chỉ thị, Nghị quyết của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, của Công đoàn
về phát triển đoàn viên, xây dựng Công đoàn cơ sở.
- Thực tiễn phong trào công nhân, Công đoàn .
- Nội dung, phương pháp hoạt động của tổ chức đoàn cơ sở tại khách sạn Melia
Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin tư tưởng
Hồ Chí Minh và các phương pháp cụ thể sau đây:
- Điều tra xã hội học;
- Khảo sát, thu thập thông tin, số liệu;
- Tổng hợp, phân tích, xử lý các thông tin, số liệu;
- Phương pháp phân tích, so sánh;
- Phương pháp chuyên gia;
- Phương pháp thống kê.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 03
chương:
Chương 1 : Cơ sở lý luận chung về hoạt động tổ chức đoàn cơ sở trong doanh
nghiệp
3
Chương 2 : Thực trạng năng lực của tổ chức đoàn cơ sở tại khách sạn Melia Hà
Nội
Chương 3 : Một số giải pháp nâng cao năng lực của tổ chức đoàn cơ sở tại
khách sạn Melia Hà Nội.
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC ĐOÀN CƠ SỞ
TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm công đoàn
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao
động cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ
quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; tham gia
quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà
nước, tổ chức kinh tế; giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động
khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Điều 10 Hiến pháp 1992).
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của
người lao động Việt Nam (gọi chung là người lao động) tự nguyện lập ra dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam; là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội
Việt Nam; là trường học chủ nghĩa xã hội của người lao động (Điều 1 Luật Công đoàn
1990).
Nghiệp đoàn là tổ chức cơ sở của Công đoàn tập hợp những người lao động tự
do hợp pháp cùng ngành nghề. Nghiệp đoàn do các công đoàn cấp trên là Liên đoàn
lao động cấp huyện hoặc công đoàn ngành địa phương trực tiếp quyết định thành lập,
giải thể và chỉ đạo hoạt động.
Nghiệp đoàn tập hợp những người lao động tự do hợp pháp cùng ngành, nghề,
được thành lập theo địa bàn hoặc theo đơn vị lao động có 10 đoàn viên trở lên và được
công đoàn cấp trên quyết định công nhận.
Như vậy, công đoàn (hay nghiệp đoàn) là tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp,
là một tổ chức quần chúng rộng lớn nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Công đoàn xuất hiện khi giới công nhân biết ý thức về sức mạnh tập thể và biết chăm
lo bảo vệ quyền lợi cho chính mình. Tổ chức công đoàn ban đầu chỉ là một tổ chức
được lập ra nhằm đấu tranh và hạn chế sự bóc lột của giới chủ chứ chưa phải là một tổ
chức có nhiều quyền năng như ngày nay. Sự phát triển của công đoàn gắn liền với sự
5
lớn mạnh của giai cấp công nhân, với sự phát triển của công nghiệp, kỹ nghệ và sự liên
kết của giới những người chủ. Chính trong sự phát triển đó, sinh hoạt công đoàn cũng
được thúc đẩy và dần chiếm được vị trí quan trọng trong hệ thống các tổ chức xã hội,
cũng như trong đời sống của người lao động. Từ chỗ chỉ được thừa nhận trong phạm vi
hẹp, ngày nay công đoàn đã được thừa nhận trong phạm vi toàn xã hội.
Hoạt động của công đoàn vừa có mục đích kinh tế vừa có mục đích xã hội. Mục
đích kinh tế của công đoàn thể hiện ở chỗ hoạt động của tổ chức công đoàn gắn với
việc bảo đảm đời sống và điều kiện lao động cho giới lao động, như đòi tăng lương,
giảm giờ làm, bảo đảm các phúc lợi xã hội... Mục đích xã hội của công đoàn thể hiện ở
chỗ bên cạnh các mục tiêu kinh tế, tổ chức này còn nhằm bảo vệ các quyền gắn liền
với việc bảo vệ nhân phẩm của người lao động và nâng cao địa vị của người lao động
trong mối tương quan lao động và xã hội của giới chủ.
1.1.2. Khái niệm năng lực
Năng lực (competence) có nguồn gốc tiếng La tinh là “competentia” có nghĩa
là gặp gỡ. Trong tiếng Anh, từ NL được sử dụng với nhiều nghĩa cụ thể gắn với các
lĩnh vực khác nhau, trong những tình huống và ngữ cảnh riêng. Có lẽ vì thế mà người
Anh và một số nước sử dụng tiếng Anh có nhiều thuật ngữ khác nhau để diễn đạt
những nội dung liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề NL. Đó là các
từ Competence, Ability, Capability, Efficiency, Capacity, Potentiality, Aptitude… Tuy
nhiên, thuật ngữ được sử dụng phổ biến nhất vẫn là Competence (hoặc Competency).
Cũng giống như tiếng Anh, trong tiếng Việt, từ NL rất gần nghĩa với một số từ
khác như tiềm năng, khả năng, kĩ năng, tài năng, thậm chí còn có nét nghĩa gần
với năng khiếu... Theo Từ điển Tiếng Việt , tiềm năng là “khả năng, NL tiềm tàng”
nghĩa là khả năng ở trạng thái tiềm tàng, ẩn giấu bên trong, chưa bộc lộ ra, chưa phải
là hiện thực. Khả năng là (1)“cái có thể xuất hiện, có thể xảy ra trong điều kiện nhất
định”; (2) cái vốn có về vật chất hoặc tinh thần để có thể làm được việc gì”. Kĩ năng là
“khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào
thực tiễn”. Tài năng là “NL xuất sắc, khả năng làm giỏi và có sáng tạo một việc
gì”. Năng khiếu là “tổng thể nói chung những phẩm chất sẵn có giúp con người có thể
hoàn thành tốt một loại hoạt động khi chưa được học tập và rèn luyện trong hoạt động
đó”. Cũng theo Từ điển Tiếng Việt thì NL là (1) “khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự
6
nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó; (2) Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo
cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao” .
Còn theo sách “Gốc và nghĩa từ Việt thông dụng”, NL là một từ Hán-Việt,
trong đó “năng là làm nổi việc; lực là sức mạnh; NL là sức mạnh làm nổi việc nào đó”.
Từ những diễn giải trên của Từ điển Tiếng Việt, có thể thấy giữa NL và các từ
đã nêu có điểm chung giống nhau : cùng chỉ khả năng của con người có thể thực hiện
một (một số) việc nào đó. Tuy nhiên, ngay trong nghĩa Từ điển, nội hàm của NL đã có
cái khác. NL bao gồm cả khả năng sẵn có và được đào tạo để thực hiện công việc một
cách hiệu quả ở chất lượng cao. Khác với tiềm năng, NL chủ yếu hiện ra trong hiện
thực chứ không ở dạng tiềm tàng. Khác với khả năng nói chung, NL là “một mức độ
nhất định của khả năng con người, biểu thị ở việc hoàn thành có kết quả một hoạt động
nào đó” .
Dù cách trình bày quan niệm về NL khác nhau do đứng từ các góc độ tiếp cận
vấn đề không giống nhau nhưng có thể thấy những điểm chung trong các định nghĩa
trên, đó là : NL là khả năng thực hiện (performance), làm việc dựa trên hiểu biết chắc
chắn, kĩ năng thuần thục và thái độ phù hợp. NL là những kiến thức (knowledge), kĩ
năng (skills) và các giá trị (values) được phản ánh trong thói quen suy nghĩ và hành
động của mỗi cá nhân, đơn vị.
1.2. Vị trí, vai trò, chức năng của Công đoàn cơ sở tại khách sạn
1.2.1. Vị trí
Công đoàn Việt Nam là thành viên của hệ thống chính trị, là trung tâm tập hợp,
đoàn kết, giáo dục, rèn luyện, xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân, lao động; là chỗ
dựa vững chắc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mối quan hệ giữa Đảng với Công đoàn
thể hiện vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Công đoàn;
Công đoàn thể hiện trách nhiệm của mình trong việc thực hiện thắng lợi đường lối,
chính sách của Đảng và tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vị trí Công đoàn còn thể hiện ở chỗ Công đoàn Việt Nam là sợi dây nối liền
Đảng với giai cấp công nhân và quần chúng lao động; "Công đoàn là bộ truyền lực từ
Đảng Cộng sản đến quần chúng", Công đoàn Việt Nam là người tuyên truyền, phổ
biến đường lối, chủ trương, chính sách ... của Đảng và Nhà nước đến với quần chúng.
7
Công đoàn nắm tâm tư, nguyện vọng của quần chúng phản ánh với Đảng, góp phần để
Đảng có những quyết sách đúng đắn phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội nước nhà. Công
đoàn có trách nhiệm tổ chức cho quần chúng tham gia xây dựng Đảng, bồi dưỡng công
nhân, lao động ưu tú giới thiệu cho Đảng để Đảng xem xét kết nạp; tăng thêm thành
phần công nhân, lao động trong Đảng Cộng Sản Việt Nam. Công đoàn đào tạo, bồi dưỡng cung cấp cán bộ cho Đảng. Công đoàn vận động, tổ chức cho quần chúng công
nhân, viên chức, lao động đi tiên phong trong thực hiện đường lối chủ trương của
Đảng.
Công đoàn Việt Nam là người cộng tác đắc lực với Nhà nước, góp phần xây
dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh và tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội.
Mối quan hệ của Nhà nước với Công đoàn thể hiện sự thống nhất, cộng tác, giúp đỡ
lẫn nhau. Nhà nước luôn tạo mọi điều kiện vật chất, tinh thần và pháp lý cho Công
đoàn hoạt động. Công đoàn luôn động viên, giáo dục, tập hợp công nhân, viên chức,
lao động thi đua lao động sản xuất, hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế, văn hóa, xã hội,
qua đó xây dựng Nhà nước Việt Nam “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ
và văn minh". Công đoàn Việt Nam đào tạo, bồi dưỡng, cung cấp cán bộ cho Nhà
nước, "không có một nền móng như tổ chức Công đoàn thì không thể thực hiện được
các chức năng Nhà nước". Mối quan hệ giữa Công đoàn với Nhà nước còn thể hiện sự
bình đẳng, tôn trọng và phối hợp chặt chẽ với nhau trong mọi hoạt động vì lợi ích của
dân tộc, Quốc gia dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Vị trí của Công đoàn trong doanh nghiệp , khách sạn :
Công đoàn là tổ chức chính trị xã hội của công nhân và lao động trong doanh
nghiệp, có vị trí là người đại diện hợp pháp duy nhất cho người lao động trong quan hệ
lao động với giới chủ (người sử dụng lao động). Trong mối quan hệ đó, Công đoàn và
chủ khách sạn đảm bảo sự bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, vừa hợp tác, vừa đấu tranh
nhằm giải quyết hài hoà quyền và lợi ích của mỗi bên trong quan hệ lao động. Nội
dung và mục đích của mối quan hệ giữa Công đoàn và người sử dụng lao động là
nhằm làm cho doanh nghiệp phát triển, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của
công nhân, lao động. Công đoàn có trách nhiệm phối hợp với người sử dụng lao động
vận động đoàn viên, công nhân, lao động sản xuất với năng suất, chất lượng và hiệu
quả cao nhất ... đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững của doanh nghiệp; tạo cơ sở
8
ổn định việc làm, cải thiện điều kiện làm việc và nâng cao thu nhập cho người lao
động.
Theo cơ cấu tổ chức cũng như Điều lệ của Đảng, thì trong tất cả các cơ quan
Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, các đoàn thể, các đơn vị hành chính từ Trung
ương đến cơ sở và các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế có đủ điều kiện đều
thành lập tổ chức cơ sở Đảng. Nhưng đến nay, ở các doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế nhìn chung các đơn vị đã thành lập tổ chức cơ sở Đảng còn ít, lực lượng công
nhân, lao động là đảng viên chưa nhiều. Trong tương lai, số lượng đảng viên ở khu vực
này sẽ phát triển nhiều hơn, phù hợp với chủ trương xây dựng và phát triển Đảng trong
các doanh nghiệp, phù hợp với nhiệm vụ xây dựng giai cấp công nhân ngày càng vững
mạnh.
Theo tinh thần nghị quyết Đại hội lX của Đảng, quan hệ giữa Đảng và Công
đoàn trong các doanh nghiệp càng cần được nghiên cứu, bổ sung và điều chỉnh. Cấp
uỷ Đảng trong các doanh nghiệp thực hiện chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo chính trị, tư
tưởng, tổ chức đối với Công đoàn, làm cho Công đoàn thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ
giám sát, kiểm tra, đại diện bảo vệ quyền, lợi ích, hợp pháp, chính đáng của công
nhân, viên chức, lao động, để hoạt động Công đoàn góp phần thu hút vốn đầu tư, đổi
mới công nghệ, phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo ra nhiều công ăn việc làm và tăng
thu nhập cho người lao động. Trong mối quan hệ giữa Đảng với Công đoàn thể hiện rõ
Công đoàn tham gia xây dựng Đảng, bảo vệ Đảng, nâng cao năng lực, sức chiến đấu
và sự lãnh đạo của Đảng đối với Công đoàn ở khắp mọi nơi, trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, xã hội.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa Công đoàn với Đảng trong doanh nghiệp góp
phần làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, có sức chiến đấu cao, xứng
đáng là Đảng của giai cấp công nhân, lao dộng đại biểu trung thành với lợi ích của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đồng thời góp phần làm cho tổ chức Công
đoàn ngày càng lớn mạnh.
Trong mối quan hệ với giới chủ, Công đoàn vừa phải xây dựng quan hệ đoàn
kết hợp tác vừa phải đấu tranh bảo vệ cho được quyền lợi của công nhân, lao động
nhưng phải theo hướng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, góp phần
giải quyết vấn đề việc làm, đời sống người lao động. Đây thực sự là mối quan hệ khó
9
khăn, tế nhị và phức tạp trong điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước
ta. Để thực hiện tốt mối quan hệ với người sử dụng lao động thì:
+ Hoạt động Công đoàn luôn phải tuân theo Hiến pháp, Pháp luật, Luật Công
đoàn, Luật lao động ... lấy đó làm hành lang chuẩn để giải quyết các mối quan hệ lao
động giữa công nhân, lao động với giới chủ.
+ Khi có vấn đề về tranh chấp lao động xảy ra tại các khách sạn phải giải quyết,
Công đoàn cần tranh thủ sự hỗ trợ của các cơ quan pháp luật, các đối tác xã hội ở Việt
Nam.
+ Công đoàn giáo dục cho công nhân, lao động hiểu rõ và thực hiện tốt những
quy định của pháp luật về lao động, về quan hệ với giới chủ Công đoàn phải chú trọng
xây dựng được mối quan hệ hợp tác và bình đẳng với giới chủ, ủng hộ chủ trương
chung của giới chủ để họ xử lý tốt các mối quan hệ với công nhân, lao động.
+ Mối quan hệ của Công đoàn với giới chủ trong khách sạn là mối quan hệ giữa
một bên là tập thể người lao động, mà đại diện là Công đoàn với một bên là người
quản lý kinh tế, người chủ kinh doanh. Mối quan hệ này có tính chất quan hệ chủ - thợ,
Công đoàn cần vừa đấu tranh, vừa hợp tác vì lợi ích hợp pháp của công nhân, lao động
và lợi ích chung của xã hội.
1.2.2. Vai trò
Khi đánh giá vai trò của Công đoàn cơ sở trong khách sạn, phải dựa trên cơ sở
vai trò của Công đoàn Việt Nam, được thể hiện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội.
Trên lĩnh vực kinh tế, sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt
động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò Công đoàn ngày càng
mở rộng. Công đoàn có mặt trong tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế. Mọi hoạt động của Công đoàn phải gắn liền với đời sống kinh tế, xã hội. Công đoàn
vận động công nhân, viên chức, lao động thi đua sản xuất, công tác, góp phần thúc đẩy
phát triển nhanh kinh tế, nâng cao đời sống người lao động, làm giàu cho đơn vị và đất
nước.
Trên lĩnh vực chính trị, vai trò của Công đoàn là góp phần to lớn vào việc ổn
định chính trị, hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị đang đặt ra. Trên cơ sở đó, Công
10
đoàn phải chăm lo xây dựng giai cấp công nhân, lao động ngày càng vững mạnh bởi
đây là giai cấp tiên phong, lực lượng nòng cốt trong liên minh công, nông, trí, nền tảng
của khối đại đoàn kết toàn dân. Công đoàn tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền các cấp trong sạch, vững mạnh, xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của
hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, mà Công đoàn là một thành viên rất quan trọng,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trên lĩnh vực văn hoá - xã hội, hoạt động của Công đoàn góp phần chăm lo xây
dựng, bảo đảm sự thống nhất, đoàn kết của giai cấp công nhân; làm cho giai cấp công
nhân thực sự là giai cấp lãnh đạo cách mạng, quyết định quá trình phát triển và tiến bộ
của xã hội. Nền kinh tế thị trường bên cạnh những ưu điểm của mình, còn làm nẩy
sinh nhiều yếu tố tiêu cực và các tệ nạn khác trong xã hội. Hơn lúc nào hết, Công đoàn
càng có vai trò quan trọng trong giáo dục công nhân viên chức, lao động nâng cao
nhận thức chính trị, lập trường giai cấp, nhận thức xã hội một cách đúng đắn. Công
đoàn tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
trương, đường lối của Đảng, tuyên truyền, giáo dục truyền thống văn hoá, văn minh
của dân tộc ta nói riêng và nhân loại nói chung, góp phần xây dựng người công nhân,
lao động mới.
Hiện nay, các khách sạn và đội ngũ nhân viên, lao động trong khu vực này có
xu hướng giảm dần; công nhân, lao động trong các thành phần kinh tế khu vực du lịch
ngày càng tăng. Tuy nhiên, sự gia tăng về số lượng chưa phản ánh được đầy đủ sự lớn
mạnh của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn. Qua thực tế hiện nay cho thấy,
một bộ phận không nhỏ công nhân, lao động trình độ giác ngộ về giai cấp còn hạn chế,
ý thức và hiểu biết về pháp luật chưa cao, dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật, vi
phạm nội quy, kỷ luật lao động còn nhiều. Thực trạng này ảnh hưởng trực tiếp đến việc
làm, thu nhập của người lao động, thậm chí trở thành nguyên nhân của các vụ xung
đột làm nẩy sinh mâu thuẫn và các vụ tranh chấp lao động, dẫn đến lãn công, đình
công, làm ảnh hưởng tới sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế
xã hội nói chung.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần làm nẩy sinh các tầng lớp giai cấp xã
hội khác nhau, với những biến động phức tạp, làm ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm,
tâm lý của người lao động vốn đã quen làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước
trước đây. Là "Trường học về chủ nghĩa xã hội", hoạt động của Công đoàn góp phần
11
giáo dục xây dựng giai cấp công nhân, lao động trở thành một lực lượng đoàn kết,
thống nhất, không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, nêu cao ý thức cảnh
giác cách mạng của công nhân, viên chức, lao động, kiên quyết đấu tranh chống âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực phản động, thù địch nhằm phá hoại những thành
quả của sự nghiêp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo; Công đoàn giáo dục và
rèn luyện nâng cao ý thức tổ chức, kỷ luật, nâng cao trình độ học vấn, tay nghề và
năng lực làm chủ khoa học công nghệ, đề cao và phát huy những giá trị cao đẹp của
truyền thống văn hoá dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại để xây dựng giai
cấp công nhân, lao động thực sự xứng đáng là giai cấp tiên phong, lãnh đạo cách
mạng. Với vai trò đó, một mặt Công đoàn phải tôn trọng, đề cao quyền tự chủ sản xuất
kinh doanh của người sử dụng lao động, góp phần thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ trong tổ chức quản lý kinh tế xã hội của Đảng, Nhà nước; mặt khác phát huy dân
chủ, Công đoàn tích cực tham gia xây dựng và thực hiện cơ chế quản lý kinh tế mới,
góp phần làm cho kinh tế giữ vững vai trò chủ đạo, phát triển, đồng thời khuyến khích
các thành phần kinh tế khác.
Trong cơ chế thị trường, do cạnh tranh về kinh tế, người sử dụng lao động dù
vô tình hay cố tình, còn vi phạm lợi ích chính đáng của người lao động. Công đoàn với
tư cách là người đại diện cho người lao động có trách nhiệm tham gia xây dựng quan
hệ lao động tiến bộ, ổn định, bảo vệ lợi ích họp pháp của người lao động. Khi quyền,
lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động được bảo vệ, người lao động sẽ tự
nguyện, nhiệt tình, hăng hái hoạt động Công đoàn, làm cho vai trò của Công đoàn
ngày càng có ảnh hưởng tích cực hơn đối với khách sạn nói riêng và trong đời sống xã
hội nói chung.
1.2.3. Chức năng
Từ chức năng chung của tổ chức Công đoàn được pháp luật quy định, Công
đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp cần thực hiện các chức năng một cách sáng tạo với
nội dung, phương thức phù hợp để Công đoàn cơ sở thực sự là chỗ dựa đáng tin cậy
của người lao động:
- Thực hiện chức năng đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng
của công nhân, viên chức, lao động trong Công đoàn cơ sở.
12
Chức năng đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người
lao động là chức năng trung tâm của Công đoàn Việt Nam. Tuy nhiên, ở nước ta Công
đoàn thực hiện chức năng bảo vệ quyền, lợi ích công nhân, lao động khác hẳn chức
năng bảo vệ của Công đoàn dưới chế độ tư bản cả về nội dung, hình thức lẫn phương
pháp, nó không mang tính đối kháng giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trong điều kiện
hiện nay ở nước ta, khi các doanh nghiệp tư nhân, liên doanh, các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài ở nước ta đã hình thành ngày một nhiều. Mối quan hệ lao động ở
các loại hình doanh nghiệp này là mối quan hệ "chủ - thợ" nên đã xuất hiện tình trạng
bóc lột, vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động có xu hướng
gia tăng ... Hơn bao giờ hết, Công đoàn càng đặc biệt phải coi trọng chức năng bảo vệ
lợi ích người lao động, nhất là Công đoàn trong khách sạn.
Nội dung Công đoàn thực hiện chức năng đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của người lao động được tập trung vào một số vấn đề sau:
+ Công đoàn đại diện người lao động thương lượng ký thoả ước lao động tập
thể với người sử dụng lao động.
+ Công đoàn hướng dẫn giúp đỡ người lao động giao kết hợp đồng lao động
theo đúng quy định của pháp luật với đầy đủ quyền lợi được pháp luật quy định .
+ Công đoàn giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách đối với người lao
động như tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động, thời gian làm
việc, nghỉ ngơi và các phúc lợi xã hội khác ...
+ Bên cạnh việc bảo vệ quyền lợi về kinh tế, Công đoàn cần quan tâm bảo vệ cả
quyền lợi chính trị, lợi ích tinh thần, lơi ích lâu dài của người lao động, doanh nghiệp
và xã hội, như Công đoàn tổ chức các hoạt động văn hoá, thể thao, thăm hỏi động
viên, giúp đỡ công nhân, lao động lúc khó khăn, hoạn nạn.
- Thực hiện chức năng tham gia quản lý của Công đoàn cơ sở tại các khách sạn.
Đối với Công đoàn cơ sở tại khách sạn, để phát huy hiệu quả chức năng Công
đoàn tham gia quản lý nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi người lao động, Công đoàn cơ
sở cần tập trung vào những công việc sau :
+ Công đoàn cơ sở vận động, tổ chức cho công nhân, lao động thi đua lao động
sản xuất, chấp hành tốt nội quy, kỷ luật lao động; tham gia xây dựng hệ thống các nội
13
quy, quy chế trong đơn vị nhằm tạo ra một hành lang pháp lý cơ bản để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, lao động.
+ Công đoàn đại diện cho công nhân - lao động, thương lượng và ký thoả ước
lao động tập thể sao cho đảm bảo quyền lợi của người lao động ở mức độ cao nhất
trong khuôn khổ quy định của pháp luật hiện hành.
+ Công đoàn tham gia giải quyết các khiếu nại, tố cáo của người lao động đúng
trình tự của pháp luật, giải quyết các tranh chấp lao động ...
+ Thường xuyên quan tâm giám sát việc thực hiện hợp đồng lao động, thoả ước
lao động tập thể cũng như các chính sách liên quan đến người lao động.
+ Công đoàn đại diện người lao động tham gia đề xuất, kiến nghị giải pháp tổ
chức sản xuất kinh doanh, cải thiện điều kiện làm việc.
- Thực hiện chức năng công đoàn tuyên truyền, giáo dục công nhân lao động.
+ Công đoàn tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, luật pháp,
chính sách của Nhà nước, nhất là các chính sách có liên quan đến quyền, lợi ích, nghĩa
vụ của công nhân, lao động như Bộ Luật Lao động, Luật công đoàn, Luật doanh
nghiệp, các văn bản dưới luật, các quy trình, quy phạm trong sản xuất, nội quy của
doanh nghiệp, làm cho công nhân - lao động nắm vững đường lối, chính sách của
Đảng, các chiến lược phát triển kinh tế xã hội, nắm vững các chính sách, luật pháp
cũng như chủ trương phát triển của Ngành, của doanh nghiệp để tự giác chấp hành
pháp luật và tự bảo vệ mình trước pháp luật.
+ Tuyên truyền làm cho công nhân, lao động nhận thức được trách nhiệm và lợi
ích của cá nhân mỗi người gắn liền với hiệu quả sản xuất - kinh doanh của doanh
nghiệp; muốn có lợi ích, công nhân, lao động phải thực hiện tốt nghĩa vụ, làm tròn
trách nhiệm của mình, tích cực học tập nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn,
nghiệp vụ, ý thức tổ chức kỷ luật, tự giác trong lao động.
+ Đẩy mạnh các hoạt động xã hội từ thiện, qua đó giáo dục cho người lao động
tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, biết hướng tới những giá trị văn hoá cao đẹp
của dân tộc và nhân loại, biết đặt lợi ích riêng của mỗi người trong lợi ích chung của
doanh nghiệp, của Ngành, của đất nước.
Công đoàn cơ sở là một bộ phận quan trọng nằm trong hệ thống tổ chức của
Công đoàn Việt Nam. Thông qua hoạt động của Công đoàn cơ sở, mọi chủ trương,
14
biện pháp của Công đoàn Việt Nam đi vào thực tiễn, gắn liền với đời sống của công
nhân, lao động. Việc nghiên cứu, tìm hiểu và đánh giá vai trò của Công đoàn cơ sở
trong các khách sạn là góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về hoạt động của Công
đoàn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.3. Quy định về hoạt động tổ chức công đoàn cơ sở trong khách sạn
a.Trách nhiệm của Công đoàn trong doanh nghiệp.
- Quyền Công đoàn độc lập quyết định
Quyền độc lập quyết định của Công đoàn là quyền quyết định thành lập và tổ
chức hoạt động Công đoàn. Nhà nước thừa nhận tính độc lập đó và xác nhận quyền
độc lập cho Công đoàn trong các văn bản pháp luật.
Người lao động có quyền thành lập và gia nhập Công đoàn, quyền hoạt động
Công đoàn trong khuôn khổ Điều lệ Công đoàn và tuân theo pháp luật.
Theo quy định của pháp luật, người lao động trong doanh nghiệp được phép
đình công, việc đình công do Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở quyết định. Khi Ban
Chấp hành Công đoàn cơ sở hoặc tập thể lao động không tán thành với Quyết định của
Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh về giải quyết tranh chấp lao động tập thể nhưng
không yêu cầu Toà án giải quyết mà muốn sử dụng quyền đình công, thì Ban Chấp
hành Công đoàn cơ sở tổ chức lấy ý kiến tập thể lao động bằng cách bỏ phiếu kín hoặc
lấy chữ ký, khi có quá 1/2 số thành viên của tập thể lao động đồng ý, thì Ban Chấp
hành Công đoàn cơ sở tổ chức đình công theo quy định pháp luật. ( Điều 172, 173, 174
Bộ Luật lao động).
- Quyền đại diện của Công đoàn
Trong doanh nghiệp, Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở có quyền cử đại diện của
mình thay mặt cho tập thể lao động thương lượng, đối thoại với người sử dụng lao
động để bảo vệ lợi ích của người lao động. Ban Chấp hành Công đoàn chủ động cùng
với người sử dụng lao động trong doanh nghiệp thương lượng ký kết thỏa ước lao
động tập thể. Đây là một quyền năng rất lớn của Công đoàn trong doanh nghiệp nhằm
tạo ra những điều kiện lao động tốt hơn cho người lao động. (Điều 11 Luật Công đoàn,
Điều 45 Bộ luật Lao động).
15
Theo Bộ luật Lao động quy định thì trong quá trình người sử dụng lao động xử
lý kỷ luật lao động phải “có sự tham gia của đại diện Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở,
trừ trường hợp xử lý vi phạm kỷ luật theo hình thức khiển trách bằng miệng".
- Quyền kiến nghị, tham gia của Công đoàn
Trong quan hệ lao động, pháp luật quy định Công đoàn đại diện cho người lao
động tham gia, kiến nghị với người sử dụng lao động về những vấn đề liên quan đến
quyền lợi của người lao động mà người sử dụng lao động vi phạm hay thực hiện chư a
đầy đủ. Về phía người sử dụng lao động phải có trách nhiệm trả lời cho Công đoàn
biết kết quả giải quyết những kiến nghị của Công đoàn. Người sử dụng lao động có
trách nhiệm phải thảo luận với Ban Chấp hành Công đoàn trong doanh nghiệp trước
khi quyết định những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của
người lao động như quy định thời gian làm việc, nghỉ ngơi, ban hành nội quy lao động.
Theo khoản 2, Điều 82, Bộ luật Lao động thì: Trước khi ban hành nội quy lao
động, người sử dụng lao động phải tham khảo ý kiến của Ban Chấp hành Công đoàn
cơ sở tại doanh nghiệp. Bất kỳ một bản nội quy nào của doanh nghiệp cũng liên quan
đến người lao động, vì thế các nội quy của doanh nghiệp cần phải được xây dựng có
cơ sở khoa học và phải tuân thủ các quy định của pháp luật nhằm hạn chế đến mức
thấp nhất những điểm bất lợi cho người lao động.
- Quyền kiểm tra, bảo vệ của Công đoàn
Trong quan hệ lao động ở doanh nghiệp, Công đoàn có trách nhiệm đôn đốc,
kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về bảo hộ lao động. “Khi phát hiện nơi làm
việc có dấu hiệu nguy hiểm đến tính mạng người lao động, Công đoàn có quyền yêu
cầu người người sử dụng lao động thực hiện ngay các biện pháp bảo đảm an toàn lao
động, kể cả trường hợp phải ngừng hoạt động, nếu thấy cần thiết” (Điều 6, khoản 3,
Luật Công đoàn).
Khi người sử dụng lao động vi phạm pháp luật lao động, xâm phạm quyền và
lợi ích hợp pháp của người lao động, Công đoàn có quyền yêu cầu họ phải sửa chữa
sai lầm hoặc đề nghị các cơ quan Nhà nước can thiệp. Khi kiểm tra việc thực hiện
pháp luật lao động, Công đoàn yêu cầu người sử dụng lao động trả lời những vấn đề
đặt ra và cho Công đoàn biết kết quả giải quyết những kiến nghị do Công đoàn nêu ra
trong thời hạn pháp luật quy định (Điều 9, Luật Công đoàn).
16
Quyền pháp nhân của Công đoàn
- Công đoàn có tài sản riêng và bằng tài sản riêng của mình, Công đoàn có trách
nhiệm thực hiện các quyền và nghĩa vụ về tài sản của mình. Điều 17, Luật Công đoàn
1990 quy định “Tài sản của công đoàn là tài sản xã hội chủ nghĩa, được pháp luật bảo
vệ và khuyến khích phát triển, Công đoàn phải quản lý sử dụng đúng pháp luật. Các
bất động sản, động sản, các quỹ công đoàn, các phương tiện hoạt động và các tài sản
khác do Công đoàn tạo nên, do nước ngoài viện trợ cho Công đoàn là tài sản thuộc
quyền sở hữu của Công đoàn ".
- Công đoàn có quyền nhân danh tổ chức mình tham gia tố tụng để bảo vệ người lao động trước toà án: Luật Công đoàn đã xác định "Khi cơ quan có thẩm quyền
hoặc Toà án xét xử tranh chấp lao động phải có đại diện Công đoàn tham dự và phát
biểu ý kiến " và "Người lao động, dù chưa là đoàn viên công đoàn cũng có quyền yêu
cầu Ban Chấp hành Công đoàn đại diện và bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình trước Toà
án, thủ trưởng cơ quan, đơn vị, tổ chức hữu quan " ( khoản 4, Điều 1l).
b. Quyền của Công đoàn được đảm bảo điều kiện cho hoạt động Công đoàn
trong doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có trách nhiệm cung cấp không thu tiền những phương tiện cần
thiết cho hoạt động Công đoàn, như nơi làm việc, phương tiện giao thông, liên lạc,
thời gian phù hợp với điều kiện của mỗi doanh nghiệp. “Ban Chấp hành Công đoàn cơ
sở bàn bạc, thương lượng với người đứng đầu doanh nghiệp về từng trường hợp cụ thể
để đảm bảo cho hoạt động Công đoàn được tốt” (Điều 14, Luật Công đoàn).
Trong quan hệ lao động, pháp luật quy định để bảo vệ cán bộ Công đoàn, “khi
người sử dụng lao động quyết định buộc thôi việc, cho thôi việc hoặc chấm dứt hợp
đồng lao động trước thời hạn và thuyên chuyển công tác đối với uỷ viên Ban Chấp
hành Công đoàn thì phải được Ban Chấp hành Công đoàn cùng cấp thoả thuận; đối với
Chủ tịch Ban chấp hành Công đoàn thì phải được Công đoàn cấp trên trực tiếp thoả
thuận " (khoản 4, Điều 15, Luật Công đoàn). Quy định trên có ý nghĩa để ngăn chặn
người đứng đầu doanh nghiệp có tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, có hành vi trù dập, trả
thù khi cán bộ Công đoàn hoạt động tích cực, hoàn thành đúng chức năng, nhiệm vụ
đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích công nhân - lao động của mình khi làm cho người sử
dụng lao động không bằng lòng.
17
Trong doanh nghiệp, người sử dụng lao động cần cộng tác với tổ chức Công
đoàn để giáo dục, chăm lo đời sống tinh thần, vật chất cho người lao động làm cho
người lao động yên tâm làm việc, cống hiến nhiều hơn cho doanh nghiệp. Theo khoản
6, Điều 8, Luật Doanh nghiệp, doanh nghiệp phải " Tôn trọng quyến tổ chức Công
đoàn theo pháp luật về Công đoàn", nếu trong doanh nghiệp chưa có tổ chức Công
đoàn thì "Người sử dụng lao động có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức
Công đoàn sớm được thành lập " và "Người sử dụng lao động phải cộng tác chặt chẽ
và tạo điều kiện thuận lợi để Công đoàn hoạt động theo các quy định của Bộ Luật lao
động và Luật Công đoàn " (Điều 153, 154 Bộ luật Lao động).
Công đoàn hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng cộng sản Việt Nam,
có cơ cấu tổ chức riêng để tồn tại và phát triển; hệ thống tổ chức đó được xác định
trong Điều lệ Công đoàn. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, người sử dụng lao
động sử dụng sức lao động của người lao động phục vụ cho mục đích sinh lời. Trong
khi đó, người lao động là công dân, họ có quyền lợi và nghĩa vụ được pháp luật bảo
đảm. Pháp luật Lao động quy định "Người lao động có quyền thành lập, gia nhập, hoạt
động Công đoàn theo Luật công đoàn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình"
và trong doanh nghiệp "Người sử dụng lao động không được phân biệt đối xử vì lý do
người lao động thành lập, gia nhập, hoạt động Công đoàn hoặc dùng các biện pháp
kinh tế và các thủ đoạn khác để can thiệp vào tổ chức và hoạt động của công đoàn"
(Điều 7, 154 Bộ luật Lao động ).
Các yếu tố đó đã tạo tiền đề và hình thành mối quan hệ hữu cơ giữa tổ chức
Công đoàn với người sử dụng lao động trong doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa Công
đoàn với doanh nghiệp được xác lập ngay từ khi doanh nghiệp được thành lập và
người lao động gia nhập Công đoàn. Pháp luật về Công đoàn xác định Công đoàn
trong doanh nghiệp có quyền tham gia với người sử dụng lao động về quản lý lao
động, quản lý sản xuất kinh doanh; thực hiện quyền dân chủ và chăm lo đời sống cho
người lao động. Có thể khaí quát các quyền của Công đoàn trong doanh nghiệp như
sau:
Quyền đại diện cho tập thể lao động thương lượng và ký kết Thỏa ước lao động
tập thể với người sử dụng lao động, lưu giữ bản Thỏa ước lao động tập thể đã ký kết.
Bổ sung Thỏa ước lao động tập thể hoặc thương lượng khi hết hạn. Yêu cầu giải quyết
18
tranh chấp lao động theo pháp luật, khi Thỏa ước lao động tập thể không được thực
hiện hoặc bị vi phạm.
Đại diện tập thể người lao động tham gia xử lý kỷ luật lao động đối với người
lao động và quá trình giải quyết tranh chấp lao động.
Tham gia hội đồng hòa giải lao động cơ sở để giải quyết tranh chấp lao động cá
nhân và tập thể.
Quyền quyết định đình công sau khi quá nửa tập thể lao động tán thành, bằng
cách bỏ phiếu kín hoặc lấy chữ ký.
- Quyền thỏa thuận nhất trí.
Quyền này được quy định cụ thể trong Bộ luật Lao động như sau:
Được thỏa thuận trước khi người sử dụng lao động khấu trừ lương của người
lao động.
Được thỏa thuận về thời gian làm việc của cán bộ công đoàn bán chuyên trách,
và về sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người là ủy viên
Ban chấp hành Công đoàn cơ sở.
Người sử dụng lao động phải trao đổi và thoả thuận với Ban chấp hành Công
đoàn cơ sở khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Thỏa thuận, nhất trí trong hoạt động của hội đồng hòa giải lao động cơ sở.
Quyền được tham khảo ý kiến: Người sử dụng lao động tham khảo ý kiến Công
đoàn cơ sở trước khi công bố quyết định lịch nghỉ hàng năm; Ban hành nội quy lao
động; tạm đình chỉ công việc của người lao động, khi vụ việc có tình tiết phức tạp
trong quan hệ lao động.
1.4. Các tiêu chí đánh giá vai trò hoạt động tổ chức công đoàn cơ sở
Đánh giá vai trò của Công đoàn trong các doanh nghiệp cần dựa vào các tiêu
chí cơ bản sau :
- Một là, trong vai trò là người đại diện cho tập thể người lao động thì Công
đoàn phải là đại diện cho tập thể người lao động, đóng vai trò chủ thể một bên của
quan hệ lao động. Công đoàn phải lấy việc đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của người lao động làm nội dung cơ bản trong mọi hoạt động của mình.
19
- Hai là, trong quan hệ lao động giữa công nhân, lao động với giới chủ doanh
nghiệp, Công đoàn cần góp phần xây dựng củng cố quan hệ lao động ổn định, tiến bộ
trên cơ sở lợi ích chung của doanh nghiệp và của toàn xã hội; lợi ích giữa công nhân,
lao động với giới chủ doanh nghiệp. Trong xây dựng, củng cố quan hệ lao động, Công
đoàn phải lấy quy định của pháp luật làm tiêu chuẩn, làm chỗ dựa cơ bản.
Căn cứ vào 2 tiêu chí trên, Công đoàn các doanh nghiệp cần phải làm tốt các
nhiệm vụ sau:
- Đại diện và bảo vệ quyền lợi vật chất, tinh thần cho công nhân, lao động,
không để giới chủ doanh nghiệp, nhất là giới chủ nước ngoài, vi phạm quyền dân chủ,
quyền công dân của công nhân, lao động.
- Đại diện cho công nhân, lao động trong thương lượng ký kết thoả ước lao
động tập thế, tham gia xây dựng định mức lao động, hướng dẫn cho công nhân, lao
động giao kết hợp đồng lao động với người sử dụng lao động, vận động tổ chức cho
công nhân, lao động thực hiện đầy đủ mọi quy định của luật pháp về lao động, tham
gia xây dựng, củng cố quan hệ lao động giữa người sử dụng lao động và người lao
động nhằm hạn chế, ngăn chặn đình công trái pháp luật.
- Tham gia giải quyết các tranh chấp lao động và các mối quan hệ khác trong
các doanh nghiệp ngoài.
- Hoạt động của Công đoàn trong các doanh nghiệp còn góp phần nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh, vận động, tổ chức cho công nhân, lao động thực hiện tốt
nghĩa vụ với Công đoàn. Thông qua đó góp phần thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế,
củng cố an ninh quốc phòng, phát triển an sinh xã hội, tạo ra môi trường đầu tư tốt, ổn
định lâu dài thông qua việc vận động công nhân lao động tham gia hoàn thiện các mối
quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp và toàn xã hội.
- Phát triển lực lượng đoàn viên, xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh trong
các thành phần kinh tế , là nhiệm vụ quan trọng của hoạt động Công đoàn Việt Nam.
Để làm được nhiệm vụ này, Công đoàn phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động
công nhân, lao động, mà còn phải vận động, thuyết phục cả người sử dụng lao động.
Mặt khác, Công đoàn phải không ngừng đổi mới nội dung, phương pháp hoạt động,
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động Công đoàn để Công đoàn thực sự hấp dẫn đối
với người lao động và với cả người sử dụng lao động. Trên cơ sở đó, người sử dụng
20
lao động tạo điều kiện và ủng hộ việc thành lập công đoàn, công nhân, lao động tự
giác tham gia vào hoạt động Công đoàn .
Muốn vậy, trong thời gian tới Công đoàn trong các doanh nghiệp cần phải thực
hiện tốt các nội dung sau :
Một là, Công đoàn phải vận động kết nạp được từ 80 - 90% số công nhân, lao
động trong doanh nghiệp vào tổ chức Công đoàn. Chú ý tuyên truyền vận động công
nhân, lao động nâng cao trình độ tay nghề, ý thức tổ chức kỷ luật, nhận thức chính trị
vững vàng và tự nguyện gia nhập và hoạt động Công đoàn.
Hai là, thiết lập và giải quyết tốt các mối quan hệ lao động với giới chủ, không
để xảy ra các vụ tranh chấp lao động dẫn đến đình công, bãi công; mọi vư ớng mắc
trong quan hệ lao động phải được giải quyết theo trình tự của pháp luật trên cơ sở hợp
tác, tôn trọng và cùng có lợi.
Ba là, tổ chức sinh hoạt Công đoàn đều đặn, nội dung sinh hoạt thiết thực, hiệu
quả. Cần tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cả công nhân, lao động lẫn giới chủ trong
mọi hoạt động của Công đoàn cơ sở.
Bốn là, phải bám sát chủ trương, kế hoạch công tác của Công đoàn cấp trên,
quán triệt nghị quyết của cấp uỷ Đảng cùng cấp. Cần phối hợp với người sử dụng lao
động và các đoàn thể cùng cấp để hoạt động có hiệu quả.
21
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CỦA TỔ CHỨC ĐOÀN CƠ SỞ TẠI KHÁCH SẠN
MELIA HÀ NỘI
2.1. Khái quát chung về khách sạn Melia Hà Nội
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Khách sạn Meliá Hà Nội được đặt tại 44B Lý Thường Kiệt, Hà Nội. Đây là khu
phố sầm uất của thành phố và cũng là khu thương mại ngoại giao của Hà Nội. ở đây
gần các văn phòng Chính phủ, đại sứ quán, các di tích văn hoá, các danh lam thắng
cảnh, các khu vui chơi giải trí và mua sắm. Điều đặc biệt hơn là giao thông ở đây cũng
rất thuận tiện cho khách du lịch. Du khách có thể đi bộ trên đường phố dưới những
hàng cây ven đường, tạo cho du khách một cảm giác dễ chịu, ngoài ra khách du lịch có
thể lên sân thượng hay còn gọi là sân máy bay, du khách có thể ngắm toàn cảnh thành
phố với những toà nhà cao tầng, những công viên, sông hồ và đường phố. Vào ban
đêm ở các dãy phố có nhiều người qua lại đông đúc tạo một cảm giác thật nên thơ và
sống động. Chính điều đó đã thu hút khách đến với khách sạn Meliá Hà Nội.
Để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu giữa cung và cầu, khách sạn ngày càng phát
triển thêm nhiều các dịch vụ khác nhau và dần dần khách sạn Meliá Hà Nội đã có một
vị trí vững chắc trong nước cũng như trên thế giới.
Tiền thân là nhà máy chế tạo điện cơ (CTAMAD) liên doanh với công ty S.A.S
Trading Thái Lan. Hiện nay là S.A.S – CTAMAD do tập đoàn Sol Meliá quản lý. Ông
Gabriel escarrer – Chủ tịch công ty là người đã thành lập công ty tại Tây Ban Nha vào
năm 1956. Ngày nay Sol Meliá có mặt ở 33 nước với hơn 400 khách sạn. Khách sạn
Meliá Hà Nội khánh thành vào ngày 6/1/1999 và cũng là ngày khách sạn đón những vị
khách du lịch đầu tiên.
Tuy nhiên mới đưa vào hoạt độn khách sạn chỉ 1/2 số phòng mà khách sạn có.
Tên giao dịch quốc tế của khách sạn là: Meliá Hà Nội Hotel Khách sạn Meliá Hà Nội
được tạo dựng bởi 3 đối tác:
- Thứ nhất: Công ty điện cơ Việt Nam
22
- Thứ hai: Chủ đầu tư Thái Lan
- Thứ ba: Cơ quan quản lý Tây Ban Nha.
Và được hoạt động dựa theo pháp luật của Việt Nam mà nhà nước Việt Nam
cho phép đối với các doanh nghiệp nước ngoài.
2.1.2. Các dịch vụ tại khách sạn
- Dịch vụ ăn uống .
Khách sạn Meliá Hà Nội có nhà hàng Elpatio nằm ở tiền sảnh. Đây là khu vực
chính phục vụ ăn uống cả ngày. Các món ăn ở đây bao gồm những thực đơn sáng tạo
và các món Buffet cho bữa trưa được thay đổi hàng ngày. Đặc biệt hơn cứ hàng tuần
vào tối Thứ bảy và Chủ nhật, khách sạn có Buffet dành cho khách cùng ban nhạc với
âm thanh độc đáo, những bản nhạc giao hưởng hay những bài hát nổi tiếng trên thế
giới do các ca sỹ thể hiện. Nhà hàng được bài trí trong một hình thể tự do chia thành 3
phần. Một bầu không khí như ở ngoài trời được tạo ra trong nhà hàng bởi các cây
chuối lớn được trang trí ở trung tam nhà hàng. Nhà hàng có sức chứa 165 người ngồi
ăn. Thời gian phục vụ khách từ 6 giờ đến nửa đêm.
Nhà hàng Lotus (Hoa sen) – Nhà hàng Thái/Trung Quốc, nằm ở tầng 1 và
khách có thể đến bằng thang cuốn hay thang bộ từ sảnh hoặc đi theo thang máy. Khách
có thể lên các phòng riêng ở tầng trên bằng thang bộ từ chính cửa của nhà hàng hoặc
theo thang máy (tầng 2). Nhà hàng Lotus là một nhà hàng Thái/Trung Quốc cao cấp
với những món ăn Thái Lan, Quảng Đông, Tứ Xuyên,…Khách có thể ăn ở trong nhà
hàng hay tổ chức một buổi tiệc ở 1 trong 7 phòng riêng ở tầng trên. Lối vào được làm
nổi bật bằng sự trưng bày các tác phẩm nghệ thuật và có cắm hoa sen tươi. Các cửa
kính lớn của nhà hàng trông ra khu vực sảnh đẹp tuyệt vời. Nhà hàng Lotus đã tạo
được một chỗ đứng của mình trong thị trường là một nhà hàng Thái/Trung Quốc tồn
tại cùng thời gian nhưng hấp dẫn với thức ăn chất lượng tốt và tiêu chuẩn phục vụ cao.
- Dịch vụ phục vụ tiệc – hội thảo
Khách sạn Meliá Hà Nội đã phát huy được sức mạnh của mình là khách sạn có
phòng đại tiệc được coi là lớn nhất. Do đó đã thu hút được khách đến đặt tiệc, hội
nghị, hội thảo, các cuộc khuyến mãi, triển lãm, vũ hội và các loại tiệc khác. Một dàn
trang thiết bị âm thanh ánh sáng nghệ thuật với đội ngũ kỹ sư lành nghề và đội ngũ
23
nhân viên phục vụ đã được đào tạo đầy đủ sẽ cung cấp cho khách ở thị trường trong và
ngoài nước những buổi tiệc ấn tượng. Một phòng VIP có toilet riêng dẫn thẳng vào
phòng đại tiệc khách sạn đã được công nhận là một nơi dẫn đầu thị trường về những
buổi hội thảo và tiệc đầy sáng tạo. Đã được những khách hàng trung thành và tiếp tục
sử dụng lại dịch vụ của khách sạn.
- Dịch vụ đưa đón khách.
Khách sạn đã trang bị cho mình đủ các loại xe để đáp ứng tối đa nhu cầu của
khách hàng như: đến sân bay đón, đưa đón khách đi tham quan du lịch,…
- Dịch vụ giải trí
Bể bơi của khách sạn được đặt ở tầng 3 có diện tích 430m2 . Bể bơi mở cửa
hàng ngày từ 7 giờ đến 19 giờ có dịch vụ ăn uống từ 9 giờ đến 18 giờ thông qua dịch
vụ phục vụ tại phòng Bể bơi ngoài trời có Jacuzzi (nước phun vào người tạo cảm giác
như massage). Trung tâm thể thao nằm ở tầng, khách có thể đến bằng thang máy.
Trung tâm này có phòng tập thể dục, thể dục nhịp điệu, các phòng massage
riêng biệt có bể bơi Jacuzzi và phòng tắm hơi ở cả 2 khu vực dành cho nam và nữ.
Trung tâm mở cửa hàng ngày từ 6 giờ đến 12 giờ và các dịch vụ massage có từ 10 giờ
đến 21 giờ. Khách sạn cũng bán thẻ thành viên tập thể dục dành cho người ngoài theo
tháng hoặc năm.
- Dịch vụ giặt là
Hàng ngày khách có nhu cầu giặt là, khách có thể gọi điện đến buồng lên nhận
đồ. Đồ mang đi giặt là trước 10 giờ sáng sẽ được trả lại cho khách trong ngày đó. Sau
17 giờ , đồ mang đi giặt là sau 10giờ sẽ được gửi trả khách vào buổi tối hôm sau. Dịch
vụ giặt là gấp (3 tiếng) sẽ phải tính thêm 30% so với dịch vụ giặt là bình thường.
- Trung tâm thương mại
Trung tâm thương mại nằm ở tầng trệt cạnh quầy lễ tân và hàng ngày mở cửa
từ 7 giờ đến 20 giờ.
Nếu khách có yêu cầu sau giờ làm việc thì nhân viên giao dịch với khách hàng
sẽ phục vụ. Trung tâm thương mại cung cấp các dịch vụ thư ký, gửi fax và thư điện tử,
24
Internet, photocopy, đóng sổ,… Có một khu dành cho khách sử dụng máy tính cài đặt
chương tình Microsoft 2000.
Trung tâm thương mại có một phòng họp 8 người và tại văn phòng điều hành
khách sạn có một phòng họp khác có thể để cho khách thuê cho 12 người họp.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức
Vào năm 1999 khách sạn liên doanh chính thức đi vào hoạt động khách sạn
Melia Hà nội chịu sự quản lý trực tiếp của tập đoàn Sol Melia- một tập đoàn danh
tiếng trên thế giới. Dưới sự quản lý của tập đoàn này, cơ cấu tổ chức của khách sạn
Melia Hà nội được hình thành theo khuôn mẫu và chuẩn mực vốn có do tập đoàn
quyết định. Cơ cấu đó được thể hiện chi tiết và rõ nét thông qua mô hình tổ chức bộ
máy cũng như từng bộ phận cụ thể :
25