Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Bồi thương thiệt hại ngoài hợp đồng do người mất năng lực hành vi gây ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.87 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................................2
NỘI DUNG.........................................................................................................................2
BẢN ÁN 01:........................................................................................................................2
1. Tóm tắt bản án..........................................................................................................2
2. Vấn đề pháp lý được giải quyết trong bản án........................................................4
3. Quan điểm của cả nhóm về nội dung giải quyết của Tòa án................................5
BẢN ÁN 02:........................................................................................................................8
1. Tóm tắt bản án..........................................................................................................8
2. Vấn đề pháp lý được giải quyết trong bản án........................................................9
3. Quan điểm của nhóm về nội dung giải quyết của Tòa án...................................10
3.1. Cấp sơ thẩm......................................................................................................10
3.2. Tòa cấp phúc thẩm...........................................................................................12
KẾT LUẬN.......................................................................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................14

1


MỞ ĐẦU
Bồi thương thiệt hại ngoài hợp đồng do người mất năng lực hành vi gây ra là một
trong những chế định quan trong của luật pháp, giúp nâng cao được tính công bằng với
những người yếu thế, đảm bảo quyền lợi cho người mất năng lực hành vi dân sự. Hơn thế
nữa còn giúp cho việc giải quyết các vấn đề liên quan đế người mất năng lực hành vi dân
sự được dễ dàng, nhanh chóng và phù hợp với yêu cầu của thực tế.
Dưới đây là phần phân tích 2 bản án mà nhóm đưa ra nhằm làm rõ các vấn đề pháp
lý và đưa ra các quan điểm xoay quanh trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra.
NỘI DUNG
BẢN ÁN 01:
1. Tóm tắt bản án


Vợ chồng anh Hoàng Đình H, chị Hoàng Thị H1 là cha mẹ ruột của cháu Hoàng Thị Cẩm
L1, sinh năm 2002. Anh Nguyễn L là hàng xóm của anh H, chị H1. Vốn có tiền sử bệnh
tâm thần đã được tòa án tuyên mất năng lực hành vi dân sự theo quyết định số: 15 ngày
25 tháng 01 năm 2017 của tòa án nhân dân thị xã Dĩ An. Vào khoảng 17 giờ ngày
11/4/2017, anh L dùng chổi đuổi đánh con chó của gia đình anh H,
Vì thấy anh L đuổi đánh chó nhà mình nên cháu L1 lớn tiếng quát và gọi chó về.
Anh L giật mình nên đã dùng cây chổi quét sân đang cầm trên tay đánh vào người cháu
L1 gây trầy xước, anh L còn dùng chân đạp vào bụng của cháu L1. Hậu quả cháu L1 bị
trầy xước ở tay, đau bụng, đau đầu. Ngoài ra, cháu Hoàng Thị Cẩm L1 bị ảnh hưởng về
tinh thần, đêm ngủ thường bị giật mình, việc học hành có phần bị giảm sút; vết thương ở
tay và chân tuy đã lành nhưng để lại sẹo. Xét thấy, vết thương của cháu L1 chủ yếu ở
ngoài da, sau khi được thăm khám tại Bệnh viện Q thì cháu vẫn đi học bình thường, có
thể tự sinh hoạt cá nhân.

2


Anh H, chị H1 xác định thương tích của cháu L1 là do hành vi trái pháp luật của
anh L gây ra, vì vậy anh L phải bồi thường cho cháu L1 các khoản sau:
- Tiền khám bệnh, tiền thuốc tạm tính đến ngày 21/6/2017: 343.000 đồng;
- Tiền xe đi lại để cứu chữa, điều trị và tái khám là: 1.500.000 đồng;
- Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc từ ngày 12/4/2017 đến ngày
12/5/2017 là: 10.000.000 đồng;
- Tiền tổn thất tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm là: 8.470.000 đồng. Tổng cộng:
20.313.000 đồng.
Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của anh H, chị H1 đã rút lại một phần yêu
cầu khởi kiện về bồi thường tiền khám bệnh, tiền thuốc, tiền xe đi lại để cứu chữa cho
cháu Hoàng Thị Cẩm L1 và khoản thu nhập bị mất của người chăm sóc do giữa nguyên
đơn và bị đơn đã thỏa thuận bồi thường xong.
Chị M thừa nhận hành vi dùng chổi đánh vào người cháu L1 của chồng mình là

không đúng, anh L đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi của mình và chị cũng đã
bồi thường về tiền khám bệnh, tiền thuốc, tiền xe đi lại để cứu chữa… cho cháu Hoàng
Thị Cẩm L1. Nay chị chỉ đồng ý bồi dưỡng thêm cho cháu L1 1.000.000 đồng tổn thất về
tinh thần.
Nhận định của Tòa án:
Theo trình bày của nguyên đơn, ngoài việc tổn thương nông vùng bụng, chân và
tay thì cháu Hoàng Thị Cẩm L1 bị ảnh hưởng về tinh thần, đêm ngủ thường bị giật mình,
việc học hành có phần bị giảm sút; vết thương ở tay và chân tuy đã lành nhưng để lại sẹo.
Xét thấy, vết thương của cháu L1 chủ yếu ở ngoài da, sau khi được thăm khám tại Bệnh
viện Q thì cháu vẫn đi học bình thường, có thể tự sinh hoạt cá nhân. Hơn nữa, anh H và
chị H1 cũng có một phần lỗi trong việc quản lý, chăm sóc vật nuôi là một phần nguyên
nhân dẫn đến hành vi trái pháp luật của anh L. Do đó, việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn
bồi thường 07 tháng lương cơ sở để bù đắp tổn thất về tinh thần cho cháu L1 là chưa phù
3


hợp, chỉ có cơ sở buộc bị đơn có trách nhiệm bồi thường cho cháu L1 01 tháng lương cơ
sở để bù đắp tổn thất về tinh thần cho cháu L1.
Quyết định của tòa án:
- Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của anh Hoàng Đình H và chị Hoàng Thị H1 về việc
buộc anh Nguyễn L bồi thường tiền khám bệnh, tiền thuốc, tiền xe đi lại để cứu
chữa cho cháu Hoàng Thị Cẩm L1 và khoản thu nhập bị mất của người chăm sóc
với tổng số tiền là 11.843.000 đồng.
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của anh Hoàng Đình H và chị Hoàng Thị
H1 (là người đại diện theo pháp luật của cháu Hoàng Thị Cẩm L1).
- Buộc anh Nguyễn L phải bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần cho cháu Hoàng
Thị Cẩm L1 với số tiền là 1.210.000 (một triệu hai trăm mười nghìn) đồng.
2. Vấn đề pháp lý được giải quyết trong bản án
Vấn đề pháp lý được hiểu là các tình tiết, sự kiện xuất hiện thỏa mãn các yêu cầu
mà pháp luật quy định và được pháp luật điều chỉnh.

Trong bản án trên xuất hiện hai loại vấn đề pháp lý chính đó là: vấn đề pháp lý về
hình thức và vấn đề pháp lý về nội dung. Để phù hợp với nội dung đề bài đưa ra cho nên
chúng tôi chủ yếu giải quyết về vấn đề pháp lý về nội dung ở phần dưới đây
Trong bản án 01 với nhận định của tòa án đây là vụ án tranh chấp về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng như vậy có thể thấy vấn đề pháp lý là vấn đề về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng cụ thể theo quyết định của Tòa án áp dụng Khoản 3 Điều 599 Bộ luật
Dân sự 2015 là bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi gây ra.
Chủ thể trong trường hợp này là anh L vốn có tiền sử bệnh tâm thần đã được tòa án
tuyên mất năng lực hành vi dân sự theo quyết định số: 15 ngày 25 tháng 01 năm 2017 của
tòa án nhân dân thị xã Dĩ An.
Hành vi là việc anh L dùng chổi đánh cháu L1 gây ra hâu quả là cháu L bị trầy
xước ở tay, đau bụng, đau đầu. Ngoài ra, cháu Hoàng Thị Cẩm L1 bị ảnh hưởng về tinh
4


thần, đêm ngủ thường bị giật mình, việc học hành có phần bị giảm sút; vết thương ở tay
và chân tuy đã lành nhưng để lại sẹo. Trong trường hợp này theo quy định tại Khoản 3
Điều 586 Bộ luật Dân sự 2015 thì anh L không phải là người bồi thường cho thiệt hại mà
chính hành vi của mình đã gây ra mà thay vào đó thì chị M, vợ anh L, phải bồi thường
thay cho anh L.
Về xác định mức bồi thường thiệt hại trong trường hợp này là thiệt hại do sức khỏe
bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 Bộ luật Dân sự 2015. Theo đó mức bồi thường
thiệt hại ở đây không chỉ bao gồm mức bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm mà
còn bao gồm mức bồi thường bù đặp về tổn thất tinh thần mà cháu L1 phải gánh chịu. Cụ
thể về mức bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:
- Tiền khám bệnh, tiền thuốc tạm tính đến ngày 21/6/2017: 343.000 đồng;
- Tiền xe đi lại để cứu chữa, điều trị và tái khám là: 1.500.000 đồng;
- Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc từ ngày 12/4/2017 đến ngày
12/5/2017 là: 10.000.000 đồng;
Tổng cộng là 11.843.000 đồng

Về mức bồi thường bù đắp về tổn thất tinh thần mà cháu L1 phải dánh chịu theo
quyết định của tòa án thì anh L phải bồi thường một tháng lương cơ sở theo quy định của
pháp luật cụ thể trong trường hợp này là 1.210.000 đồng.
3. Quan điểm của cả nhóm về nội dung giải quyết của Tòa án
Cách giải quyết của Tòa án là hoàn toàn phù hợp cả về “tình” lẫn về “lí”. Bởi lẽ
Căn cứ theo Điều 599. Bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi, người
mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, pháp nhân
khác trực tiếp quản lý
“2. Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời
gian bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý thì bệnh viện, pháp nhân khác phải bồi
thường thiệt hại xảy ra.
5


3.Trường học, bệnh viện, pháp nhân khác quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều
này không phải bồi thường nếu chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý; trong
trường hợp này, cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười lăm tuổi, người mất năng
lực hành vi dân sự phải bồi thường.”
Như vậy trong trường hợp này do gia đình chị M không để ý và trông nom anh L
không cẩn thận nên mới dẫn đến hậu quả khiến cho cháu L1 bị thương. Tuy nhiên cũng
không thể không trách cháu L1 có thái độ không tốt với ngời lớn mặc dù cho anh L có
không được bình thường nhưng cháu L cũng không nên quát hay nói to tiếng khiến cho
anh L giật mình lên cơn.
Hơn nữa căn cứ theo quy định Điều 586. Năng lực chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của cá nhân thì:
“3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ
đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ
không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường
bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong

việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.”
Do đó trong trường hợp này vợ anh L cũng có lỗi một phần trong việc giám hộ nên
phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ga đình vợ chồng anh H và cháu L1. Tuy
nhiên yêu cầu đòi bồi thường các khoản chi phí của vợ chồng anh H có phần hơi phi lí, vì
dù sao thì anh L cũng là người mất năng lực hành vi dân sự, gia đình lại khó khăn. Quyết
định của Tòa án chấp nhận một phần yêu cầu của gia đình anh H buộcchị Hoàng Thị M là
người giám hộ của anh Nguyễn L phải bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần cho cháu
Hoàng Thị Cẩm L1 với số tiền là 1.210.000 và đình chỉ yêu cầu khởi kiện của anh Hoàng
Đình H và chị Hoàng Thị H1 về việc buộc anh Nguyễn L bồi thường tiền khám bệnh, tiền
thuốc, tiền xe đi lại để cứu chữa cho cháu Hoàng Thị Cẩm L1 và khoản thu nhập bị mất
của người chăm sóc với tổng số tiền là 11.843.000 đồng là hoàn toàn hợp lí .
6


Tuy nhiên, xét về nhận định của Tòa án cho rằng về hành vi của anh L là dùng chổi
đánh cháu L1 là sự thật không phải chứng minh do có sự thống nhất của nguyên đơn và
bị đơn là chưa thỏa đáng vì theo như những lời khai của đương sự thì anh L còn dùng
chân đạp cháu L1 gây ra thương tích cho cháu L1, cho nên, sẽ đầy đủ hơn nếu Tòa án
nhìn nhận tổng thể hành vi của anh L là hành vi đánh đập cháu L1.
Hơn thế nữa, quyết định của Tòa án Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của
anh Hoàng Đình H và chị Hoàng Thị H1 (là người đại diện theo pháp luật của cháu
Hoàng Thị Cẩm L1). Buộc anh Nguyễn L phải bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần
cho cháu Hoàng Thị Cẩm L1 với số tiền là 1.210.000 (một triệu hai trăm mười nghìn)
đồng là không phù hợp vì đối với tổn thất tinh thần của một đứa trẻ 15 tuổi bị hành hung,
đánh đập là rất lớn có thể gây ra những hệ lụy sau này cho nên với sô tiền là 1.210.000
đồng là không thỏa đáng so với tổn thất tinh thần mà anh L gây ra.

7



BẢN ÁN 02:
1. Tóm tắt bản án
Chiều ngày 05/12/2015, ông Trần Ngọc S lang tháng vào nhà bà H đập phá tài sản,
Bà H cầm dao ra la lối, chửi bới và vung dao đe dọa chém ông S. Trong tình trạng không
tỉnh táo và bình thường nên không điều khiển được hành vi của mình ông S đã cầm đoạn
cây quơ ngang vào người bà H một cái, trúng cổ tay trái gây thương tích. Trong quá trình
Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết, đã đưa ông S đi giám định tâm thần và xác định ông S bị
mất năng lực hành vi dân sự.
Bà H yêu cầu đòi bồi thường tổng cộng 19.646.500đ Bao gồm khác khoản sau:
- Tiền thuốc 631.500đ;
- Tiền thiệt hại những ngày không lao động được 2.800.000đ (140.000đ/ngày x 20
ngày);
- Tiền giám định pháp y 1.215.000đ;
- Tiền bồi dưỡng sau khi bị thương 2.000.000đ;
- Tiền tổn thất về tinh thần 10 tháng lương cơ bản 13.000.000đ (1.300.000đ/tháng x
10 tháng),
Quyết định của bản án sơ thẩm:
Buộc gia đình ông Trần Ngọc S phải bồi thường cho bà Phạm Thị Minh H
4.046.500đ (Bốn triệu không trăm bốn mươi sáu ngàn năm trăm đồng).
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo
quy định pháp luật.
Nhận định của tòa án cấp phúc thẩm:
Tổng số tiền bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà H là 4.186.500đ (3.346.500đ
+ 840.000đ). Tuy nhiên, việc xảy ra xô xát giữa ông S và bà H dẫn đến việc bà H bị
thương ở cẳng bàn tay T cũng có một phần lỗi của bà H. Mặc dù bà H không thừa nhận
8


nhưng căn cứ vào lời khai của những người làm chứng là ông Phạm Đức T tại Biên bản
ghi lời khai ngày 27/7/2017 (bút lục 93), ngày 29/6/2017 (bút lục 81); ông Lê Văn T tại

Biên bản ghi lời khai ngày 22/6/2017 (bút lục 72) và Quyết định không khởi tố vụ án
hình sự số 18/CSĐT ngày 7/8/2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N thể
hiện: Khi xảy ra xô xát bà H có cầm dao ra la lối, chửi bới và vung dao đe dọa chém ông
S. Trong tình trạng không tỉnh táo và bình thường nên không điều khiển được hành vi của
mình ông S đã cầm đoạn cây tre quơ ngang dẫn đến bà H bị thương ở cẳng tay T. Vì vậy,
bà H cũng có lỗi đối với thương tích của bà, nên phải chịu 3/10 đối với số tiền bồi thường
thiệt hại, thành tiền 1.256.000đ (làm tròn), (4.186.500đ : 10 x 3). Gia đình Ông S cụ thể
là bà Nguyễn Thị L phải bồi thường thiệt hại cho bà H tương ứng với mức độ lỗi với số
tiền 2.930.500đ (4.186.500đ - 1.256.000đ).
Quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Minh H về việc buộc ông
Trần Ngọc S phải bồi thường cho bà H số tiền 2.930.500đ (Hai triệu, chín trăm ba mươi
ngàn, năm trăm đồng).
2. Vấn đề pháp lý được giải quyết trong bản án
Theo bản án 02 kết luận đây là vụ án tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng. Cụ thể trong trường hợp này vấn đề pháp lý được đưa ra là bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra.
Chủ thể gây thiệt hại trong trường hợp này là người mất năng lực hành vi dân sự
(ông S) đã gây ra hậu quả thiệt hại bằng cách dùng ngọn tre đánh vào tay bà H làm tổn
hại về sức khỏe của bà H hành vi được xác định theo quy định tại Điều 604 Bộ luật Dân
sự 2005 “Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại”. Cụ thể là, tổng thể các hành
vi gây ra thiệt hại cho bà H bao gồm ông S lang tháng vào nhà bà H đập phá tài sản, Bà H
cầm dao ra la lối, chửi bới và vung dao đe dọa chém ông S, trong tình trạng không tỉnh
táo và bình thường nên không điều khiển được hành vi của mình ông S đã cầm đoạn cây
quơ ngang vào người bà H một cái, trúng cổ tay trái gây thương tích.
9


Mức bồi thường thiệt hại ở đây áp dụng quy định tại Điều 609 Bộ luật Dân sự 2005
“Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm” được xác định bao gồm mức bồi thường thiệt hại

do sức khỏe bị xâm phạm và mức bồi thường bù đắp tinh thần cho bà H trong đó:
Mức bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:
- Tiền thuốc 631.500đ;
- Tiền giám định thương tật là: 1.215.000đ;
- Tiền bồi dưỡng sau khi bị thương: 200.000đ
- Thu nhập thực tế bị mất: 840.000đ
Mức bồi thường bù đắp tinh thần cho bà H bao gồm Tiền tổn thất về tinh thần 01
tháng lương cơ bản là 1.300.000đ. Như vậy, tổng cộng số tiền bồi thường thiệt hại về sức
khỏa cho bà H là 4.186.500đ.
Tuy nhiên, theo nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm thì nguyên nhân dẫn đến hậu
quả là bà H bị thương ở cẳng tay T cũng có một phần lỗi của chính bà H do sự kiện được
các nhân chứng kể lại và được cơ quan có thẩm quyền xác nhận: Khi xảy ra xô xát bà H
có cầm dao ra la lối, chửi bới và vung dao đe dọa chém ông S. Trong tình trạng không
tỉnh táo và bình thường nên không điều khiển được hành vi của mình ông S đã cầm đoạn
cây tre quơ ngang dẫn đến bà H bị thương ở cẳng tay T. Vì vậy, bà H cũng có lỗi đối với
thương tích của bà, nên phải chịu 3/10 đối với số tiền bồi thường thiệt hại, thành tiền
1.256.000đ (làm tròn), (4.186.500đ : 10 x 3). Gia đình Ông S cụ thể là bà Nguyễn Thị L
phải bồi thường thiệt hại cho bà H tương ứng với mức độ lỗi với số tiền 2.930.500đ
(4.186.500đ - 1.256.000đ).
3. Quan điểm của nhóm về nội dung giải quyết của Tòa án
3.1.

Cấp sơ thẩm

Về tố tụng:
Tại Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2018/QĐXXST-DS ngày 08/3/2018 của
Tòa án nhân dân huyện N có xác định các ông Ngô Hoàng Â, Lê Văn T, Phạm Đức T là
10



người làm chứng nhưng không được thể hiện trong bản án sơ thẩm là không đúng mẫu số
52 trong biểu mẫu tố tụng dân sự (ban hành kèm theo Nghị Quyết số 01/2017/NQ-HĐTP
ngày 13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) là thiếu sót.
Hơn nữa, khi đưa ông S đi giám định tâm thần kết luận của cơ quan có thẩm quyền
về việc ông S bị mất năng lực hành vi dân sự cũng không tuyên buộc ông S phải áp dụng
biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
Về nội dung:
Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông S bồi thường cho bà H 05 ngày thu nhập thực tế bị
mất, mỗi ngày 140.000đ, thành tiền là 700.000đ là chưa phù hợp, bởi lẽ: Theo đơn thuốc
ngày 07/12/2015 của Bác sĩ Phạm Tấn Sơ kê cho bà H thì có 02 loại thuốc uống trong
thời gian 10 ngày, 01 loại thuốc uống trong thời hạn 20 ngày, do đó cần chấp nhận thu
nhập thực tế của bà H bị mất là 10 ngày là phù hợp. Tuy nhiên, tại phiên tòa, bà H trình
bày bà làm nghề sửa quần áo và bán tạp hóa. Sau khi bị ông S đánh, bà vẫn mở quán bán
hàng tạp hóa bình thường, trừ khi bà đến Bệnh viện khám, chụp X Quang, nhưng do tay
trái bị thương nên bà không nhận sửa quần áo cho khách, bà chỉ bán hàng tạp hóa khi
khách đến mua trực tiếp, còn khách mua bia yêu cầu chở đến nhà thì bà không bán được,
do đó chỉ chấp nhận cho bà H 02 ngày thu nhập thực tế bị mất, mỗi ngày 140.000đ, thành
tiền là 280.000đ và 08 ngày thu nhập thực tế bị giảm sút 50%, thành tiền 560.000đ
(140.000đ x 8 ngày x 50%), tổng cộng 840.000đ (280.000đ +560.000đ).
Như vậy, tổng số tiền bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà H là 4.186.500đ
(3.346.500đ + 840.000đ). Tuy nhiên, việc xảy ra xô xát giữa ông S và bà H dẫn đến việc
bà H bị thương ở cẳng bàn tay T cũng có một phần lỗi của bà H. Mặc dù bà H không thừa
nhận nhưng căn cứ vào lời khai của những người làm chứng là ông Phạm Đức T tại Biên
bản ghi lời khai ngày 27/7/2017 (bút lục 93), ngày 29/6/2017 (bút lục 81); ông Lê Văn T
tại Biên bản ghi lời khai ngày 22/6/2017 (bút lục 72) và Quyết định không khởi tố vụ án
hình sự số 18/CSĐT ngày 7/8/2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N thể
hiện: Khi xảy ra xô xát bà H có cầm dao ra la lối, chửi bới và vung dao đe dọa chém ông
S. Trong tình trạng không tỉnh táo và bình thường nên không điều khiển được hành vi của
11



mình ông S đã cầm đoạn cây tre quơ ngang dẫn đến bà H bị thương ở cẳng tay T. Vì vậy,
bà H cũng có lỗi đối với thương tích của bà, nên phải chịu 3/10 đối với số tiền bồi thường
thiệt hại, thành tiền 1.256.000đ (làm tròn), (4.186.500đ : 10 x 3). Gia đình Ông S cụ thể
là bà Nguyễn Thị L phải bồi thường thiệt hại cho bà H tương ứng với mức độ lỗi với số
tiền 2.930.500đ (4.186.500đ - 1.256.000đ).
3.2.

Tòa cấp phúc thẩm

Những hạn chế, thiếu xót của tòa cấp sơ thẩm đã được tòa cấp phúc thẩm xác định
hoàn toàn chính xác. Tòa án cấp phúc thẩm đã sửa bản án dân sự sơ thẩm số 07/2018/DSST ngày 17 tháng 4 năm 2018 của Toà án nhân dân huyện N, tỉnh Quảng Ngãi. Chấp
nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Minh H về việc buộc ông Trần Ngọc
S phải bồi thường cho bà H số tiền 2.930.500đ (Hai triệu, chín trăm ba mươi ngàn, năm
trămđồng). Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Minh H về
việc buộc ông Trần Ngọc S phải bồi thường cho bà H số tiền 16.716.000đ (Mười sáu
triệu, bảy trăm mười sáu ngàn đồng).
Tuy nhiên, nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng lỗi của bà H gây ra trong
vụ việc này là 3/10 là chưa thuyết phúc vì theo như kết luận điều tra thì bà H đã có hành
vi cầm dao ra la lối, chửi bới và vung dao đe dọa chém ông S làm cho ông S trong lúc
không điều khiển được hành vi của minh đã cầm đoạn cây tre quơ ngang dẫn đến bà H bị
thương ở cẳng tay T. Có thể thấy rằng điều kiện để xảy ra thiệt hại cho bà H ở đây bao
gồm điều kiện cần là ông S bị mất năng lực hành vi và điều kiện đủ là bà H dùng dao đe
dọa, la lối.

12


KẾT LUẬN
Cả hai bản án trên đều là các trường hợp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do

người mất năng lực hành vi gây ra, được giải quyết gần như tương tự như nhau, tuy nhiên
trong mỗi vụ việc đều có những nét riêng của vụ việc đó và đã được tòa án các cấp giải
quyết đúng trình tự thủ tục và đúng pháp luật. Tuy nhiên, những bất cập trong quá trình
giải quyết hầu hết xuất phát từ những quy định pháp luật còn chưa rõ ràng, rành mạch dễ
khiến hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Chính vì thể việc đầu tiền để cải thiện hiệu quả
trong việc giải quyết các vụ việc thì luật pháp phải được hoàn thiện và phù hợp hơn với
thực tế.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự 2005
2. Bộ luật Dân sự 2015
3. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự II, Nxb. Công an nhân dân,
2017

14



×