ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ĐÀ NẴNG
----------
NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
MỤC LỤC
Nhóm 8
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG:
Ngân hàng trung ương ra đời chính thức đầu tiên ở châu Âu, vào thế kỷ 17. Khi ấy, tiền
mặt lưu hành vẫn chủ yếu dưới dạng vàng và bạc, tuy rằng, các tờ cam kết thanh toán
(promises to pay) đã được sử dụng rộng rãi như là những biểu hiện của giá trị ở cả Châu
Âu và Châu Á. Ngược lại 500 năm trước đấy, Tổ chức Hiệp sĩ dòng Đền (Knight Templar)
thời Trung Cổ sử dụng một cơ chế có thể nói là hình mẫu đầu tiên của Ngân hàng trung
ương. Các giấy tờ cam kết thanh toán của họ được chấp nhận rộng rãi, và nhiều người cho
rằng các hoạt động này đặt nền tảng cơ bản cho hệ thống ngân hàng hiện đại. Cùng thời gian
đó, Thành Cát Tư Hãn phát hành tiền giấy ở Trung Hoa, và áp đặt sử dụng loại tiền này bằng
bạo lực nhằm thu giữ vàng bạc.
Ngân hàng trung ương đầu tiên là Ngân hàng Thụy Điển (Bank of Sweden) ra đời năm
1668 với sự giúp đỡ của các doanh nhân Hà Lan. Ngân hàng Anh (Bank of England) ra đời
tiếp sau đó năm 1694 bởi doanh nhân người Scotland là William Paterson tại London theo
yêu cầu của chính phủ Anh với mục đích tài trợ cuộc nội chiến lúc đó. Ý tưởng về ngân hàng
trung ương cũng được Marx ủng hộ trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản bằng việc đề xuất
"tập trung tín dụng vào tay nhà nước thông qua một ngân hàng quốc gia với tư bản của nhà
nước"[1]. Trước nhu cầu quản lý nền tài chính quốc gia, các ngân hàng trung ương trên thế
giới lần lượt ra đời. Cục Dự trữ Liên bang của Mỹ được thành lập theo yêu cầu của Quốc
hội tại đạo luật mang tên hai nghị sĩ đệ trình là Glass và Owen (Glass-Owen Bill). Tổng
thống Woodrow Wilson ký đạo luật ngày 23 tháng 12 năm 1913.
Từ đầu thế kỷ XX, các ngân hàng trung ương đã hình thành tuy nhiên các ngân hàng này
vẫn thuộc sở hữu tư nhân, sau cuộc khủng hoảng 1929-1933 thì mới trở thành ngân hàng sở
hữu của nhà nước.
2
Nhóm 8
Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (Tiếng Anh là People’s Bank of China – Ngân hàng
Nhân dân Trung Hoa) bắt đầu các chức năng ngân hàng trung ương năm 1979 cùng với
chính sách cải cách kinh tế. Vai trò ngân hàng trung ương của nó được đẩy mạnh năm 1989
khi đất nước này chuyển đổi sâu sắc hơn sang nền kinh tế hướng xuất khẩu. Tới năm 2000,
Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã là một ngân hàng trung ương về mọi mặt, với cơ cấu
và hoạt động có tham khảo Ngân hàng Trương ương châu Âu vốn là mô hình ngân hàng
trung ương mới nhất, chi phối ngân hàng trung ương của các quốc gia thành viên mà vẫn để
quyền quản lý kinh tế quốc gia cho các ngân hàng đó.
II. CÁC MÔ HÌNH TỔ CHỨC NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG:
Là một định chế công cộng của Nhà nước, nhưng mối quan hệ của NHTW với chính
phủ không hoàn toàn giống với các định chế công cộng khác của Nhà nước. Mối quan hệ
này ở các nước khác nhau cũng không giống nhau. Tuỳ thuộc vào đặc điểm ra đời của
NHTW, thể chế chính trị, nhu cầu của nền kinh tế cũng như truyền thống văn hoá của từng
quốc gia mà NHTW có thể được tổ chức theo mô hình trực thuộc hay độc lập với chính phủ.
1. Mô hình NHTW thuộc chính phủ:
Mô hình NHTW trực thuộc chính phủ là mô hình trong đó NHTW nằm trong nội các
chính phủ và chịu sự chi phối trực tiếp của chính phủ về nhân sự, về tài chính và đặc biệt về
các quyết định liên quan đến việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ. Các nước áp
dụng mô hình này phần lớn là các nước Đông Á (Hàn quốc, Đài loan, Singapore, Indonesia,
Việt Nam ...) hoặc các nước thuộc khối XHCN trước đây.
3
Nhóm 8
Theo mô hình này, chính phủ có thể dễ dàng phối hợp chính sách tiền tệ của NHTW
đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm đảm bảo mức độ và liều lượng tác động
hiệu quả của tổng thể các chính sách đối với các mục tiêu vĩ mô trong thời kỳ. Mô hình này
được xem là phù hợp với yêu cầu cần tập trung quyền lực để khai thác tiềm năng xây dựng
kinh tế trong thời kỳ tiền phát triển.
Điểm hạn chế chủ yếu của mô hình là NHTW sẽ mất đi sự chủ động trong việc thực
hiện chính sách tiền tệ. Sự phụ thuộc vào chính phủ có thể làm cho NHTW xa rời mục tiêu
dài hạn của mình là ổn định giá trị tiền tệ, góp phần tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sự lớn
mạnh nhanh chóng của các nước thuộc nhóm NIEs như Singapore, Hàn quốc, Đài loan... nơi
NHTW là một bộ phận trong guồng máy chính phủ là một bằng chứng có sức thuyết phục về
sự phù hợp của mô hình tổ chức này đối với truyền thống văn hoá Á Đông.
2. Mô hình NHTW độc lập với chính phủ :
Mô hình NHTW độc lập với chính phủ là mô hình trong đó NHTW không chịu sự chỉ
đạo của chính phủ mà là quốc hội. Quan hệ giữa NHTW và chính phủ là quan hệ hợp tác.
Các NHTW theo mô hình này là Cục dự trữ liên bang Mỹ, NHTW Thuỵ sĩ, Anh,
Pháp, Đức, Nhật Bản và gần đây là NHTW châu Âu (ECB). Xu hướng tổ chức ngân hàng
trung ương theo mô hình này đang càng ngày càng tăng lên ở các nước phát triển.
Theo mô hình này, NHTW có toàn quyền quyết định việc xây dựng và thực hiện chính
sách tiền tệ mà không bị ảnh hưởng bởi các áp lực chi tiêu của ngân sách hoặc các áp lực
chính trị khác. Mặt khác, theo quan điểm dân chủ cổ truyền của châu Âu thì mọi chính sách
phải được phục vụ cho quyền lợi của công chúng và phải được quyết định bởi quốc hội - cơ
quan đại diện cho quyền lực của toàn dân - chứ không phải một nhóm các nhà chính trị chính phủ. Chính vì vậy, NHTW do có vai trò hết sức quan trọng tới đời sống kinh tế nên
không thể đặt dưới quyền chính phủ được mà phải do quốc hội kiểm soát.
Tuy nhiên, không phải tất cả các NHTW được tổ chức theo mô hình này đều đảm bảo được
sự độc lập hoàn toàn khỏi áp lực của chính phủ khi điều hành chính sách tiền tệ. Mức độ độc
lập của mỗi NHTW phụ thuộc vào sự chi phối của người đứng đầu nhà nước vào cơ chế lập
pháp và nhân sự của NHTW.
Điểm bất lợi chủ yếu của mô hình này là khó có sự kết hợp hài hoà giữa chính sách tiền tệ
- do NHTW thực hiện và chính sách tài khoá - do chính phủ chi phối để quản lý vĩ mô một
cách hiệu quả.
4
Nhóm 8
Không có một mô hình nào có thể được coi là thích hợp cho mọi quốc gia. Việc lựa chọn
mối quan hệ thích hợp giữa NHTW và chính phủ phải tuỳ thuộc vào chế độ chính trị, yêu
cầu phát triển kinh tế, đặc điểm lịch sử và sự phát triển của hệ thống ngân hàng của từng
nước. Tuy nhiên, trong một chừng mực nhất định nó cũng bị ảnh hưởng bởi trào lưu của thế
giới.
III.CHỨC NĂNG:
1. Ngân hàng trung ương là ngân hàng phát hành và điều tiết lưu thông tiền tệ
Khi ngân hàng trung ương ra đời và hoạt động thì toàn bộ việc phát hành giấy bạc
ngân hàng được tập trung vào ngân hàng trung ương theo chế độ nhà nước độc quyền
phát hành tiền. Ngân hàng trung ương trở thành trung tâm phát hành tiền của đất nước.
Giấy bạc ngân hàng do Ngân hàng trung ương phát hành là phương tiện thanh toán
hợp pháp, làm chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán. Do đó
việc phát hành tiền của ngân hàng trung ương có tác động trực tiếp đến tình hình lưu
thông tiền tệ của đất nước. Để cho giá trị đồng tiền được ổn định, đòi hỏi việc phát
hành tiền phải tuân theo những nguyên tắc nghiêm ngặt. Đó là:
- Phát hành tiền dựa vào dự trữ vàng Giấy bạc ngân hàng phát hành vào lưu thông
phải có vàng nằm trong kho của ngân hàng làm đảm bảo. Mức đảm bảo ở mỗi nước có
sự co giãn khác nhau. Nhìn chung có 3 hình thức duy trì đảm bảo sau đây:
+ Nhà nước quy định một hạn mức phát hành, khối lượng phát hành phải nằm
trong hạn mức pháp định. + Nhà nước quy định tối đa lượng giấy bạc trong lưu thông
và không quy định mức dự trữ vàng làm đảm bảo cho lượng giấy bạc đó.
+ Nhà nước quy định mức dự trữ vàng tối thiểu cho khối lượng giấy bạc phát
hành.
- Phát hành tiền có đảm bảo bằng giá trị hàng hóa thông qua cơ chế tín dụng Việc
phát hành giấy bạc được thực hiện qua cơ chế tín dụng ngắn hạn trên cơ sở đảm bảo bằng
giá trị hàng hóa thể hiện trên kỳ phiếu thương mại và các chứng từ nợ khác. Điều này
làm cho việc phát hành giấy bạc gắn với nhu cầu thực tế của lưu thông hàng hóa, đảm
bảo cho tổng lượng tiền tệ phù hợp với tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ trên thị trường.
Việc phát hành này của ngân hàng trung ương được thực hiện bằng phương pháp tái chiết
khấu các chứng từ có giá của các tổ chức tín dụng.
Việc phát hành tiền thông qua cơ chế tín dụng có ý nghĩa quan trọng. Thứ nhất, khối
lượng tiền phát hành vào lưu thông xuất phát từ nhu cầu tiền tệ phát sinh do tăng trưởng
kinh tế đòi hỏi. Giấy bạc ngân hàng được đảm bảo bằng khối lượng hàng hóa và dịch vụ.
Thứ hai, tạo khả năng để ngân hàng trung ương thực hiện kiểm soát khối lượng tiền tệ
cung ứng theo nhu cầu của mục tiêu ổn định tiền tệ.
Hiện nay, trong điều kiện lưu thông giấy bạc ngân hàng không được tự do chuyển đổi
ra vàng theo luật định, các nước trên thế giới đều chuyển sang chế độ phát hành giấy bạc
5
Nhóm 8
thông qua cơ chế tái cấp vốn cho các ngân hàng và hoạt động trên thị trường mở của
Ngân hàng trung ương. Bên cạnh đó, với việc độc quyền phát hành tiền, Ngân hàng trung
ương thực hiện việc kiểm soát khối lượng tiền cung ứng được tạo ra từ các ngân hàng
thương mại bằng quy chế dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu,…
Tóm lại, Ngân hàng trung ương không chỉ độc quyền phát hành tiền tệ mà còn quản
lý và điều tiết lượng tiền cung ứng, thực hiện chính sách tiền tệ, đảm bảo ổn định giá trị
đồng tiền nước mình.
2. Ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng
Trên cơ sở độc quyền phát hành tiền, ngân hàng trung ương thực hiện việc cung ứng
tiền tệ cho nền kinh tế thông qua việc cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian và kiểm
soát quá trình tạo tiền của các ngân hàng trung gian – khách hàng của ngân hàng trung
ương.
a. Ngân hàng trung ương mở tài khoản và nhận tiền gửi của các ngân hàng
trung gian
Thông thường, các ngân hàng trung gian không sử dụng hết nguồn vốn của mình để
cho vay mà duy trì một mức dự trữ nhất định để đảm bảo khả năng thanh toán. Dự trữ
gồm tiền mặt tại quỹ và tiền gửi tại ngân hàng trung ương và các ngân hàng khác. Bất cứ
một ngân hàng trung gian nào cũng đều phải mở tài khoản và gửi tiền vào ngân hàng
trung ương. Tiền gửi đó gồm 2 loại:
- Tiền gửi dự trữ bắt buộc Tiền gửi dự trữ bắt buộc áp dụng bắt buộc đối với các ngân
hàng trung gian có huy động vốn tiền gửi của công chúng. Mức dự trữ cao hay thấp tùy
theo quy định của ngân hàng trung ương trong từng thời kỳ cho phù hợp với chính sách
tiền tệ.
Mục đích của việc bắt buộc dự trữ này là để giới hạn mức tín dụng tối đa mà ngân
hàng trung gian có thể cung cấp, tránh trường hợp các ngân hàng trung gian huy động
được bao nhiêu cho vay bấy nhiêu dẫn đến mất khả năng thanh toán, ảnh hưởng đến
quyền lợi của người gửi tiền và nền kinh tế. Bên cạnh đó, việc tập trung dự trữ của ngân
hàng trung gian tại ngân hàng trung ương còn là một phương tiện để ngân hàng trung
ương có thêm quyền lực điều khiển hệ thống ngân hàng, thực thi chính sách tiền tệ.
Hiện nay, cùng với sự phát triển của thị trường tiền tệ, các hình thức bảo hiểm tiền
gửi ra đời đã giảm bớt khả năng xảy ra nhu cầu rút tiền bất thường. Vì vậy, tỷ lệ dự trữ
bắt buộc ngày càng giảm ở hầu hết các quốc gia. Hiện nay, tỷ lệ dự trữ bắt buộc thường
được đề cập đến với tư cách là công cụ của chính sách tiền tệ.
- Tiền gửi thanh toán
Ngoài tiền gửi dự trữ bắt buộc, các ngân hàng trung gian còn gửi thêm khoản tiền gửi
thanh toán tại ngân hàng trung ương. Mục đích nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán
thường xuyên giữa các ngân hàng với nhau và để điều chỉnh mức dự trữ bắt buộc khi
6
Nhóm 8
cần. Bên cạnh đó, các ngân hàng trung gian mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng trung
ương còn giúp ngân hàng trung ương có thể tận dụng nguồn vốn tạm thời dư thừa của
các ngân hàng trung gian để thực hiện các chức năng của mình.
b. Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian
Ngân hàng trung ương thực hiện cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian nhằm
đảm bảo cho nền kinh tế đủ phương tiện thanh toán cần thiết trong từng thời kỳ nhất
định. Mặt khác, thông qua đó để điều tiết lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế theo yêu
cầu của chính sách tiền tệ.
Trong quá trình hoạt động, các ngân hàng trung gian sử dụng vốn tập trung, huy động
được để cho vay đối với nền kinh tế. Khi xuất hiện nhu cầu vay tiền ngân hàng trung
ương làm phương tiện thanh toán, các ngân hàng này được ngân hàng trung ương cấp tín
dụng theo những điều kiện nhất định, phù hợp yêu cầu chính sách tiền tệ.
Hoạt động cho vay từ ngân hàng trung ương đối với các ngân hàng trung gian là một
nghiệp vụ phát hành. Xét ở góc độ đó, ngân hàng trung ương có vai trò chủ động trong
quá trình cho vay. Tuy nhiên, không phải lúc nào ngân hàng trung ương cũng có thể chủ
động được, mà có những trường hợp ngân hàng trung ương thụ động trong việc cho vay,
đó là khi cần phải cứu các ngân hàng trung gian thoát khỏi bở vực phá sản do mất khả
năng thanh toán. Do hoạt động chính của ngân hàng trung gian là đi vay để cho vay và
hoạt động này không phải bao giờ cũng thuận lợi. Những đợt rút tiền ồ ạt của dân chúng
vì nhiều lý do ( chẳng hạn: lãi suất trở nên thấp so với lạm phát, ngân hàng mất lòng tin
của dân chúng,…) dễ làm cho ngân hàng trung gian mất khả năng thanh toán. Trong
trường hợp này, ngân hàng trung gian không thể thu hồi tiền cho vay về kịp để chi trả,
không còn chỗ vay mượn nào khác, tìm đến ngân hàng trung ương vay tiền như là một
phương cách cuối cùng. Trong trường hợp này ngân hàng trung ương đóng vai trò là
người cho vay cuối cùng đối với các ngân hàng trung gian.
Tuy nhiên cần phải để ý: nếu ngân hàng trung ương dễ dãi trong việc cấp tín dụng cho
các ngân hàng trung gian thì sẽ tạo cho ngân hàng trung gian tâm lý ỷ lại, làm cho độ rủi
ro trong hoạt động ngân hàng tăng cao. Chẳng hạn, nếu một ngân hàng trung gian biết
được ngân hàng trung ương sẽ cấp tín dụng cho nó khi gặp khó khăn, ngân hàng trung
gian này sẽ chấp nhận nhiều rủi ro hơn trong kinh doanh vì cho rằng ngân hàng trung
ương sẽ cho vay trong trường hợp xấu nhất. Đặc biệt là những ngân hàng lớn (đây là
những ngân hàng mà sự phá sản của nó có thể gây nên một sự khủng hoảng tài chínhtiền tệ. Đây là một điều nguy hiểm cho nền kinh tế. Do vậy ngân hàng trung ương cần
rất thận trọng, không sử dụng thường xuyên vai trò người cho vay cuối cùng của mình.
Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian bằng nhiều phương
pháp khác nhau:
- Tái chiết khấu
7
Nhóm 8
Ngân hàng trung ương mua lại những phiếu nợ chưa đến hạn mà ngân hàng trung
gian đã chiết khấu cho khách hàng trước đây để hưởng lợi tức tái chiết khấu, nhưng thực
ra thông qua nghiệp vụ này mà ngân hàng trung ương có thể giúp cho các ngân hàng
thỏa mãn được nhu cầu thanh toán, đồng thời ngân hàng trung ương thực hiện việc cung
ứng tiền tệ cho nền kinh tế theo yêu cầu của chính sách tiền tệ. Trong nghiệp vụ tái chiết
khấu, lãi suất tái chiết khấu là công cụ quan trọng hàng đầu, có thể tác động đến việc mở
rộng hoặc thu hẹp khối lượng tín dụng trong nền kinh tế.
- Cho vay bổ sung nguồn vốn ngắn hạn cho các ngân hàng trung gian.
- Cho vay bù đắp vốn trong thanh toán liên ngân hàng.
c. Ngân hàng trung ương là trung tâm thanh toán của các ngân hàng
Hoạt động của Tung tâm thanh toán gắn liền với sự phát triển dịch vụ thanh toán của
các ngân hàng trung gian, tạo lập mạng lưới thanh toán liên hoàn trong phạm vi cả nước,
cùng với việc cải tiến, hiện đại hóa công nghệ thanh toán có ý nghĩa quyết định cho việc
tập trung các luồng chu chuyển tiền tệ vận động qua ngân hàng.
Nghiệp vụ thanh toán của ngân hàng trung ương được tiến hành bằng các phương
thức:
- Thanh toán từng lần
Mỗi khi có nhu cầu thanh toán, các ngân hàng trung gian gửi các chứng từ thanh toán
đến ngân hàng trung ương yêu cầu trích tiền từ tài khoản của mình để trả cho ngân hàng
thụ hưởng.
- Thanh toán bù trừ
Ngân hàng trung ương là trung tâm tổ chức thanh tóan bù trừ giữa các ngân hàng, kể
cả kho bạc nhà nước.
Việc thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng được tiến hành định kỳ hoặc cuối mỗi
ngày làm việc.
Việc thanh toán được dựa trên cơ sở trao đổi các chứng từ thanh toán nợ kèm theo
bảng kê khai thanh toán bù trừ của các ngân hàng hoặc thực hiện bù trừ thông qua hệ
thống vi tính, số dư cuối cùng được thanh toán bằng cách trích tài khoản của người phải
trả nợ tại ngân hàng trung ương.
d. Ngân hàng trung ương thực hiện việc quản lý nhà nước đối với hệ thống
ngân hàng
Ngân hàng trung ương là cơ quan quản lý và điều tiết hoạt động của hệ thống ngân
hàng, cụ thể:
8
Nhóm 8
- Ngân hàng trung ương thẩm định và cấp giấy chứng nhận hoạt động cho ngân hàng
trung gian
- Ngân hàng trung ương quy định nội dung, phạm vi hoạt động kinh doanh và các quy
chế nghiệp vụ đòi hỏi các ngân hàng trung gian phải tuân thủ, các hệ số an toàn trong
quá trình hoạt động của ngân hàng trung gian.
- Ngân hàng trung ương điều tiết các hoạt động kinh doanh của ngân hàng trung gian
bằng những biện pháp kinh tế và hành chính. Chẳng hạn như ngân hàng trung ương quy
định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng, ban hành chính sách lãi suất, tỷ lệ hoa
hồng, lệ phí áp dụng trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng trung gian,…
- Ngân hàng trung ương thanh tra và kiểm soát thường xuyên và toàn diện các hoạt
động của toàn bộ hệ thống ngân hàng, áp dụng các chế tài trong các trường hợp vi phạm
pháp luật nhằm đảm bảo cho cả hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định, an toàn và có
hiệu quả.
- Ngân hàng trung ương quyết định đình chỉ hoạt động hoặc giải thể đối với các ngân
hàng trung gian trong các trường hợp vi phạm nghiêm trọng pháp luật hoặc mất khả
năng thanh toán.
3. Ngân hàng trung ương là ngân hàng của nhà nước
Chức năng này của ngân hàng trung ương thể hiện ở một số điểm:
- Ngân hàng trung ương thuộc sở hữu nhà nước
- Ban hành các văn bản pháp quy theo thẩm quyền của mình về tiền tệ, tín dụng,
thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; kiểm tra thực hiện các văn bản pháp luật có liên
quan.
- Mở tài khỏan, nhận và trả tiền gửi của Kho bạc nhà nước
- Tổ chức thanh toán cho Kho bạc nhà nước trong quan hệ thanh toán với các ngân
hàng
- Làm đại lý cho Kho bạc nhà nước trong một số nghiệp vụ
- Bảo quản dự trữ quốc gia về ngoại hối, các chứng từ có giá
- Cung cấp tín dụng và tạm ứng cho Ngân sách nhà nước trong những trường hợp cần
thiết.
- Thay mặt nhà nước quản lý các hoạt động tiền tệ - tín dụng và thanh toán đối nội,
đối ngoại của đất nước.
- Ngân hàng trung ương thay mặt chính phủ ký kết các hiệp định tiền tệ, tín dụng và
thanh toán với nước ngoài và tham gia với cương vị là thành viên của một số tổ chức tài
chính - tiền tệ quốc tế.
9
Nhóm 8
IV. MỤC TIÊU CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG:
Các ngân hàng trung ương khác nhau sẽ có những mục tiêu với những thứ tự ưu tiên
khác nhau. Tuy nhiên, mục tiêu của các Ngân hàng trung ương thường thuộc vào năm nhóm:
(1) Ổn định giá cả
(2) Ổn định tỷ giá hối đoái,
(3) Tăng trưởng,
(4) Việc làm,
(5) Ổn định hệ thống tài chính.
Trong đó bốn nhóm đầu tiên liên quan đến sự ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng,
và nhóm cuối cùng liên quan đến giảm rủi ro hệ thống tài chính của khu vực tài chính.
V. CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ:
1. Các loại chính sách tiền tệ:
Các chính sách tiền tệ của một quốc gia có thể tóm gọn lại thành 2 loại chính sách định
lượng như sau:
-
Chính sách mở rộng tiền tệ:
Chính sách mở rộng tiền tệ là chính sách nhằm cung cấp thêm số tiền cho nền kinh tế
nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm.
Các công cụ của chính sách tiền tệ do Ngân hàng trung ương đề ra
-
Chính sách thu hẹp tiền tệ:
10
Nhóm 8
Chính sách thu hẹp tiền hay còn gọi là chính sách thắt chặt tiền tệ là chính nhằm làm
giảm khối lượng cung ứng tín dụng sẵn có cho đầu tư, nhằm hạn chế đầu tư, ngăn chặn sự
phát triển quá đà của nền kinh tế, ngăn chặn lạm phát có thể xảy ra trong tương lai.
Để thực hiện các chính sách tiền tệ trên, NHTƯ có thể sử dụng nhiều loại công cụ khác
nhau, tuỳ theo điều kiện thực tế cụ thể và nhận thức cụ thể của các nhà lãnh đạo NHTƯ quốc
gia đó về tính năng và tác dụng của nó đói với nền kinh tế.
2. Các công cụ của chính sách tiền tệ
a. Các công cụ gián tiếp bao gồm:
-
Nghiệp vụ thị trường mở
Đây là biện pháp mà NHTƯ tuỳ theo mục tiêu của chính sách tiền tệ của mình, có thể
mua hoặc bán các giấy tờ có giá mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc Nhà nước trên thị trường
mở để làm thay đổi lượng tiền cung ứng trong lưu thông.
+ Muốn tăng tiền trong lưu thông thì NHTƯ mua một lượng chứng khoán nhất định. Nếu là
chứng khoán do các NHTM bán cho NHTƯ thì sẽ làm cho dự trữ của NHTM thừa ra do
NHTM nhận được tiền của NHTƯ về việc mua chứng khoán. Nếu NHTƯ mua chứng khoán
từ công chúng bán thì công chúng sẽ chuyển tiền nhận được từ bán chứng khoán đó vào tài
khoản tiền gửi của họ tại NHTM.
+ Muốn giảm lượng tiền trong lưu thông thì NHTƯ ra một lượng chứng khoán nhất định.
Nếu các NHTM mua chứng khoán sẽ làm giảm bớt dự trữ của mình, còn nếu như công
chúng mua chứng khoán thì chuyển tiền từ tài khoản tiền gửi của mình ở NHTM cho NHTƯ
cho nên cũng làm giảm dự trữ của NHTM.
+ Ưu điểm của biện pháp thị trường mở: NHTƯ hoàn toàn kiểm soát được thị trường mở; có
thể can thiệp được một số lượng tiền cung ứng lớn hay nhỏ; NHTƯ thực hiện nhanh chóng,
hiệu quả, dễ dàng, chi phí thấp; NHTƯ có thể đảo ngược tình thế một cách dễ dàng, nghĩa
là: nếu họ cảm thấy mua vào nhiều quá làm số tiền cung ứng tăng quá nhiều thì họ có thể
bán ra để làm giảm số tiền cung ứng.
+ Nhược điểm của biện pháp tham gia thị trường mở của NHTƯ là chỉ có thể áp dụng trong
điều kiện mà hầu hết tiền trong lưu thông điều nằm ở tài khoản tại Ngân hàng. Như ở các
nước phát triển hiện nay 60 – 80% tiền trong lưu thông là ở tại các tài khoản Ngân hàng nên
việc thực hiện các biện pháp này rất hữu hiệu.
-
Chính sách chiết khấu
Chính sách chiết khấu là công cụ của NHTƯ trong việc thực thi chính sách tiền tệ
bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các NHTM. Khi NHTƯ cho các NHTM vay làm tăng
thêm tiền dự trữ của các Ngân hàng, từ đó làm tăng thêm lượng tiền cung ứng. NHTƯ kiểm
soát công cụ này bằng cách tác động đến lãi suất chiết khấu và hạn mức chiết khấu.
+ Lãi suất chiết khấu
11
Nhóm 8
Lãi suất chiết khấu là lãi suất các khoản vay mà NHTƯ cho NHTM vay. Đây là các khoản
vay ứng trước không có tài sản bảo đảm.
Như vậy, NHTƯ sẽ thay đổi lãi suất chiết khấu để làm cho các NHTM quyết định đi
vay hoặc trả lại các món vay chiết khấu từ NHTƯ. Khi NHTƯ hạ lãi suất chiết khấu thì sẽ
mở rộng khoảng cách giữa lãi suất thị trường và lãi suất chiết khấu nên khuyến khích các
NHTM vay nhiều hơn ở NHTƯ làm lượng tiền cung ứng tăng lên. Ngược lại, khi NHTƯ
tăng lãi suất chiết khấu thì sẽ thu hẹp khoảng cách giữa lãi suất thị trường và lãi suất chiết
khấu nên hạn chế các NHTM đi vay ở NHTƯ làm lượng tiền cung ứng giảm.
Hạn chế đối với nghiệp vụ vay chiết khấu là NHTƯ không kiểm soát được hoàn toàn
khối lượng vay chiết khấu mà NHTM sẽ vay NHTƯ. Bởi vì, NHTƯ chỉ có thể thay đổi lãi
suất chiết khấu nhưng không thể bắt buộc các NHTM phải vay chiết khấu ở NHTƯ.
+ Hạn mức chiết khấu
Hạn mức chiết khấu là số dư nợ tối đa mà NHTƯ sẽ cho các NHTM vay. Bởi vì, mục
tiêu quan trọng nhất của NHTƯ khi cho các NHTM vay là: NHTƯ là người cho vay cuối
cùng. Do vậy, NHTƯ không muốn cho các NHTM tích cực đi vay để thu lợi nhuận nhờ
khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất thị trường và lãi suất chiết khấu. Vì thế, NHTƯ chỉ cho
các NHTM vay trong một hạn mức nào đó, nếu đã sử dụng hết hạn mức cho vay thì NHTƯ
sẽ từ chối cho vay chiết khấu tiếp.
+ Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là số tiền mà NHTM bắt buộc phải dự trữ để phòng trừ trường
hợp khách hàng đến rút tiền thì Ngân hàng có khả năng thanh toán, tránh lâm vào tình trạng
mất khả năng thanh toán cho khách hàng dẫn đến hoảng loạn Ngân hàng.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm trên tiền gửi của NHTM nhận được để
NHTM biết được số tiền mà họ có thể cho vay và số tiền mà họ có thể gửi vào tài khoản dự
trữ hoặc tiền mặt mà gửi lạ tại két theo quy định.
Tiền dự trữ bắt buộc phải có = Tỉ lệ dự trữ bắt buộc x Tiền gửi nhận được
Với quy định như thế, trước hết NHTƯ có thể nắm được số lượng tín dụng mà Ngân
hàng đó đã cung cấp cho nền kinh tế. Hơn nữa, với quy định như trên thì hệ thống NHTM có
thể mở rộng tín dụng ra nhiều lần theo công thức:
Tiền gửi mới được tạo ra = Tiền dự trữ ban đầu x 1 / tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Trong đó: 1 / tỷ lệ dự trữ bắt buộc là hệ số nhân tiền, với hai giả thiết:
1, Các NHTM cho vay hết số tiền có thể cho vay, tức là dự trữ vượt mức bằng không.
2, Các khoản tiền gửi do các NHTM tạo ra đều được giữ lại trong hệ thống Ngân hàng.
Nếu với tỷ lệ dự trữ pháp định là 10% thì lượng tiền gửi sẽ tăng lên 10 lần và số tín dụng có
khả năng phát ra do hệ thống NHTM đó là 9 lần số tiền gửi nhận được đầu tiên.
12
Nhóm 8
Để khống chế hoặc mở rộng tín dụng cho nền kinh tế theo ý muốn, NHTƯ cần quy định tăng
hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Khi tỷ lệ dự trữ pháp định tăng lên thì khả năng tín dụng
giảm và ngược lại.
Tuy nhiên, việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể gây nên lộn xộn không thể kiểm soát
được của hệ thống NHTM như: NHTƯ muốn nhanh chóng giảm lượng tiền cung ứng nên đã
nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 5% lên 10% làm cho các NHTM nhận thấy rằng họ không có
đủ dự trữ để đáp ứng yêu cầu của NHTƯ đề ra và không có đủ dự trữ để đáp ứng các hoạt
động hàng ngày của họ. Vì thế lúc này NHTM sẽ tìm cách bán chứng khoán, thu hồi các
món vay, vay từ các Ngân hàng khác…
Nếu chỉ một Ngân hàng làm như vậy thì không sao nhưng nhiều Ngân hàng đều làm
như vậy thì hệ thống Ngân hàng sẽ xảy ra tình trạng tranh giành tính thanh khoản, gây nên
lộn xộn trong hệ thống Ngân hàng và có thể gây ra hoảng loạn Ngân hàng.
Vì vậy, công cụ này không được khuyến khích sử dụng thường xuyên, nếu có sử dụng thì
thay đổi với tỷ lệ nhỏ.
b. Các công cụ trực tiếp:
Đây là loại công cụ được NHTƯ sử dụng trực tiếp để tác động vào khối lượng cung,
cầu tiền tệ của nền kinh tế mà không cần thông qua loại công cụ nào khác, nó bao gồm:
– Ấn định lãi suất:
Trường hợp 1: NHTƯ ấn đinh trực tiếp mức lãi suất cho vay để các NHTM áp dụng
với các đối tượng cho vay. Nếu muốn tăng khối lượng cho vay thì NHTƯ giảm mức lãi suất
cho vay để kích thích các nhà đầu tư vay vốn, và nếu thấy cần hạn chế đầu tư thì NHTƯ ấn
định mức lãi suất cao.
– Ưu điểm của biện pháp này là NHTƯ có thể tác động trực tiếp vào các dự án kinh tế nào
có lợi nhuận cao nhất mới được vay vốn Ngân hàng và như vậy cũng có nghĩa là loại bỏ các
dự án kinh tế có lợi nhuận thấp mà theo chuyên gia Ngân hàng thì đầu tư vào các dự án đó
không có lợi.
Để có thể thực hiện được các biện pháp này có hiệu quả đòi hỏi Ngân hàng phải nắm
được trong tay các dự án đầu tư từ trước để ấn định được khối lượng tín dụng phù hợp.
+ Nhược điểm của biện pháp này là:
•
Nhược điểm thứ nhất của nó là nếu lãi suất Ngân hàng được ấn định không sát đúng
với nền kinh tế thì có thể xảy ra 2 hiện tượng sau:
Lãi suất Ngân hàng quá thấp sẽ làm cho cầu tiền tệ tăng nhanh hơn dự đoán và Ngân hàng sẽ
lúng túng khi đáp ứng.
Khi lãi suất Ngân hàng quá cao sẽ làm cho cầu tiền tệ giảm đi, đầu tư suy giảm mà nếu Ngân
hàng không điều chỉnh kịp sẽ làm bỏ lỡ cơ hội đầu tư.
13
Nhóm 8
•
Nhược điểm thứ hai là tính linh hoạt của thị trường tiền tệ sẽ bị suy giảm, các NHTM
sẽ gặp khó khăn khi vốn huy động nhiều nhưng không cho vay được.
Trường hợp 2: NHTƯ cũng có thể áp dụng lãi suất tiền gửi quy định cho các NHTM và
các định chế tài chính phải thực hiện. Biện pháp này cũng có ưu nhược điểm sau:
+ Ưu điểm: là ngay lập tực hệ thống Ngân hàng trong một thời hạn ngắn có thể huy động
được một lượng tiền gửi lớn nếu lãi suất tiền gửi cao hơn lợi nhuận kinh doanh, hoặc hạn
chế việc gửi tiền bằng cách quy định lãi suất thấp, buộc người có tiền phải sử dụng các hình
thức sinh lợi khác như mua bất động sản, trái phiếu, cổ phiếu…
+ Nhược điểm: Các NHTM cũng không còn linh hoạt trong kinh doanh của mình mà phải
tuân theo các quy định của NHTƯ. Hơn nữa nếu lãi suất ấn định không phù hợp với thực tế
thì có thể xảy ra hậu quả là, hoặc người có tiền tìm cách chuyển tiền đến Ngân hàng để
hưởng lợi tức. Vì vậy, đầu tư sẽ suy giảm khi gửi tiền ổn định và ít rủi ro, hoặc người có tiền
sẽ không gửi tiền ở Ngân hàng nữa mà đầu tư vào động sản, dự trữ vàng nếu vàng có
khuynh hướng tăng giá…
Chúng ta có thể thấy rằng ấn định lãi suất cho cả 2 trường hợp như trên là rất khó
chính xác và khó có thể bám sát được diễn biến hàng ngày, hàng giờ của thị trường tiền tệ.
Để khắc phục tình trạng này, nếu NHTƯ muốn bảo vệ quyền lợi của các Ngân hàng, NHTƯ
ấn định mức lãi suất cao nhất của lãi suất tiền cho vay, còn sự biến động dưới mực cao nhất
đó do NHTM tự thích ứng với thị trường. Nếu nhằm bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của
NHTM, thì NHTƯ thường quy định mức lãi suất tối thiểu cho tiền gửi và mức tối đa cho
tiền vay. NHTƯ muốn kiểm soát được lãi suất, bởi vì lãi suất có tác động mạnh đến tiết kiệm
và đầu tư, qua đó tác động vào tăng trưởng kinh tế và giá cả.
Lãi suất là nhân tố trung tâm của nền kinh tế, nó biểu hiện sự tác động của cung – cầu
tiền tệ và quyết định khối lượng đầu tư của nền kinh tế, tức là quyết định đến sản lượng,
công ăn việc làm, giá cả và lạm phát.
Sự nhạy cảm của lãi suất đối với đầu tư là rất lớn, vì vậy mà ít có Nhà nước nào quy
định trực tiếp lãi suất Ngân hàng.
– Ấn định hạn mức tín dụng:
Đây là biện pháp mà NHTƯ ấn định một khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền
kinh tế trong một thời gian nhất định rồi sau đó tìm con đường để đưa nó vào nền kinh tế.
Hạn mức tín dụng được xác định trên cơ sở chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và chỉ tiêu
lạm phát dự kiến hàng năm, ngoài ra còn dựa vào một số tín hiệu thị trường khác như: tỷ lệ
thất nghiệp, tỷ giá, thâm hụt ngân sách nhà nước, tốc độ lưu thông tiền tệ… Trên cơ sở đó
hạn mức tín dụng dược phân bổ cho các NHTM, cho từng thời kì phù hợp với mục tiêu
chính sách tiền tệ.
Để kiểm soát mức tăng trưởng quá nóng của tín dụng trong nền kinh tế, NHTƯ quy
định hạn mức tín dụng tối đa cho từng NHTM.Trong phần lớn các trường hợp, những hạn
mức riêng này được xác địn căn cứ vào tỷ trọng cho vay của nó trong quá khứ so với tổng
14
Nhóm 8
mức cho vay của hệ thống Ngân hàng. NHTM chỉ được cấp tối đa cho nền kinh tế bằng hạn
mức tín dụng được quy định.
Các công cụ của chính sách tiền tệ do Ngân hàng trung ương đề ra được áp dụng một
cách linh hoạt dựa vào tình trạng của thị trường để tránh xảy ra những sai xót ảnh hưởng đến
cả nền kinh tế quốc dân.
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Mục 1:
Mục 2:
Mục 3:
/> />Mục 4:
/>Mục 5:
/>
15