Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

tiểu luận PHỐ CẢNG THU xà ở QUẢNG NGÃI (THẾ kỷ XVIII XIX)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (661.84 KB, 44 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu làm tiểu luận đến nay, em đã nhận được sự
quan tâm, chỉ bảo, giúp đỡ của thầy cô và bạn bè xung quanh, để hoàn thành tiểu
luận này. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa
Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Huế và các bạn trong lớp.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn cô Ths. Lê Thị Hoài Thanh đã tận tâm chỉ
bảo hướng dẫn em qua từng buổi học, từng buổi nói chuyện, thảo luận về đề tài
nghiên cứu. Nhờ có những lời hướng dẫn, dạy bảo đó, bài tiểu luận này của em đã
hoàn thành. Một lần nữa, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Cô.
Do thời gian và năng lực của em còn hạn chế. Do vậy, không tránh khỏi những
thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Cô và các bạn học để bài
tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 11 năm 2019
Sinh viên thực hiện:
Lê Trung Vương


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
A. Mở Đầu....................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề....................................................................................1
3. Mục đích nghiên cứu...............................................................................................2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................................3
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu............................................................4
6. Đóng góp của đề tài..................................................................................................4
7. Bố cục của đề tài.......................................................................................................4
B. NỘI DUNG................................................................................................................. 6
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ QUẢNG NGÃI (THẾ KỶ XVIII – XIX)...................6


1.1. Tình hình chính trị................................................................................................6
1.2. Tình hình kinh tế...................................................................................................9
1.2.1. Nông nghiệp.......................................................................................................9
1.2.2. Thủ công nghiệp...............................................................................................11
1.2.3. Thương nghiệp và dịch vụ...............................................................................13
1.3. Tình hình văn hóa...............................................................................................17
CHƯƠNG 2. PHỐ CẢNG THU XÀ Ở QUẢNG NGÃI (THẾ KỶ XVIII – XIX).....19
2.1. Vị trí, tên gọi........................................................................................................19
2.2. Sự hình thành phố cảng Thu Xà.........................................................................20
2.2.1. Vai trò của người Hoa......................................................................................20
2.2.2. Vai trò của người của thương nhân bản địa...................................................22
2.3. Sự phát triển thương mại ở phố cảng Thu Xà...................................................23
2.3.1. Về dân số..........................................................................................................23
2.3.2. Về vị thế của Thu Xà........................................................................................24


2.3.3. Về phương thức buôn bán, cạnh tranh...........................................................25
2.3.4. Về hàng hóa xuất nhập....................................................................................25
2.3.5. Về văn hóa........................................................................................................26
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ PHỐ CẢNG THU XÀ Ở QUẢNG NGÃI
(THẾ KỶ XVIII – XIX).................................................................................................28
3.1. Đặc trưng của phố cảng Thu Xà ở Quảng Ngãi (thế kỷ XVIII – XIX)..................28
3.1.1. Trong quan hệ với nhà nước............................................................................28
3.1.2. Về hàng hóa......................................................................................................28
3.1.3. Về phạm vi hoạt động thương mại..................................................................29
3.1.4. Về thương nhân...............................................................................................30
3.2. Vị trí và vai trò của phố cảng Thu Xà trong nền thương mại ở thế kỷ XVIII –
XIX
..........................................................................................................................32
3.2.1. Phố cảng Thu Xà động lực quan trọng phát triển kinh tế vùng đất Quảng

Ngãi
..........................................................................................................................32
3.2.2. Phố cảng Thu Xà giao thiệp với các cảng thị khác ở trong nước, hình thành
luồng thương mại giữa Quảng Ngãi với các tình trong khu vực và thế giới.................33
3.2.3. Sự suy tàn của Phố cảng Thu Xà và là bài học về việc xây dựng thị tứ nông
thôn ngày nay.................................................................................................................. 35
C. KẾT LUẬN..............................................................................................................37
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................39
PHỤ LỤC


A. Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài
Duyên hải Miền Trung có vị trí khá đặc biệt, nằm ở cửa ngõ quan trọng trên
tuyến đường hàng hải quốc tế. Nơi đây có nhiều cửa sông, cửa biển đã tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động giao thương bằng đường thủy. Thế kỷ XVII, trước
những tác động khách quan của luồng thương mại phương Đông và phương Tây,
cùng chính sách mở cửa, khuyến khích thông thương của các chúa Nguyễn là
những tiền đề quan trọng cho sự phát triển kinh tế hàng hóa và đô thị.
Cuối thời trung đại trong lịch sử Việt Nam, ở miền Trung có hai vấn đề đáng lưu
ý là sự dịch chuyển trung tâm quyền lực chính trị từ phía Bắc vào và sự phát triển
mạnh mẽ của kinh tế hàng hóa (chủ yếu trong 2 thế kỷ XVII-XVIII). Một trong
những hệ quả cũng là động lực của kinh tế hàng hóa là sự hưng khởi của các phố
cảng miền Trung như Thanh Hà, Bao Vinh (Huế), Hội An (Quảng Nam), Đà Nang,
Nước Mặn - Gò Bồi (Bình Định), Thu Xà (Quảng Ngãi),... Những phố cảng này có
vai trò, vị trí quan trọng đối với nền kinh tế hàng hóa miền Trung nói riêng và cả
nước nói chung. Sự ra đời và phát triển của các cảng thị đã minh chứng cho sự giao
lưu kinh tế, văn hóa giữa Việt Nam và các quốc gia trong khu vực.
Phố cảng Thu Xà có vai trò, vị trí quan trọng đối với nền kinh tế Quảng Ngãi
thời quân chủ. Phố cảng Thu Xà được xem là tiền cảng trọng yếu trong việc trung

chuyển hàng hóa giữa Quảng Ngãi với nhiều vùng miền trong cả nước. Tuy nhiên,
Thu Xà ngày nay đã trải qua những thăng trầm, biến đổi, phố cảng này chỉ còn lại
những vết tích của quá khứ. Nghiên cứu phố cảng Thu Xà góp phần tìm hiểu sự
vận động và phát triển kinh tế, sự giao thoa văn hóa của vùng đất Quảng Ngãi
trong các thế kỷ trước, góp phần trong việc nghiên cứu loại hình phố cảng cổ ở
Quảng Ngãi. Góp phần vào việc nhìn nhận một cách tổng thể về các phổ cảng cổ
miền Trung cuối thời trung cận đại mà trong đó có không ít đã không còn trên thực
địa.

1


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong những thập niên gần đây, các phố cảng cổ ở Việt Nam trở thành đối tượng
thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Hàng loạt các
phố cảng trên dọc dãi đất miền Trung được các nhà khoa học phục dựng một cách
sinh động, chân thực, có ý nghĩa thực tiễn cao. Hẵn nhiên, khi nghiên cứu các phố
cảng này với những dấu ấn, đặc trưng riêng sẽ giúp người đọc có sự nhìn nhận đầy
đủ chính xác hơn về bức tranh kinh tế, văn hóa của vùng ở miền Trung và mối
quan hệ giữa chúng. Các phố cảng trên và những vấn đề liên quan đến nó trước nay
đã có nhiều công trình nghiên cứu như.
1. Đỗ Bang, 1996, Phổ cảng vùng Thuận Quảng thế kỷ XVII - XVIII,
Nxb

Thuận

Hóa

- Hội Khoa học lịch sử Việt Nam xuất bản
2. Cao Xuân Dục, Lưu Đức Xứng, Trần Xán, 1964, Đại Nam nhất thống


chí,

Quyển

6: tỉnh Quảng Ngãi, Nguyễn Tạo dịch, Nha Văn hoá - Bộ Quốc gia Giao dục
xb, Sài Gòn.

3. Thinh Quang, 2006, "Thu Xà phố nhỏ tưởng chừng như đi vào huyền
thoại", www.nuiansongtra.net.vn

4. Nguyễn Bá Trác, 1933, "Quảng Ngãi tỉnh chí", Nam Phong tạp
chí, file PDF.
5. Lưu Trang, 2005, Phố củng Đà Nằng từ 1802 đến I860, Nxb Đà
Nẵng, Đà Nẵng.
6. Đoàn Minh Tuấn, 2009, "Vạạ Thu Xà phố cổ quê ngoại thân yêu",
Tạp

chí

cấm

Thành, số 59.
7. Văn bán Hán - Nôm cổ gồm đinh bộ, văn khế bán đất ở chùa Ông


các

gia
2


phả


dòng họ ở Thu Xà do ông Từ Quang Tuấn (Trưởng ban quản lý chùa
ông)

cung

cấp.

Trần

Đại Vinh, Giảng viên trường Đại học Sư phạm Huế dịch.

8. Thành Thế Vỹ, 1969, Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỳ' XVIJ,
XVIỉ



va

đầu

thể

kỷ XIX, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội.

Tuy nhiên phố cảng Thu Xà (Quảng Ngãi) trước nay vẫn chưa được quan tâm
nghiên cứu một cách cụ thể, toàn diện.

3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài hướng đến các mục đích chủ yếu sau:
 Tái dựng lại phố cảng Thu Xà với sự ra đời, phát triển, suy tàn cũng như vai
trò của các thương nhân, đặc biệt là Hoa thương trong các hoạt động kinh tế - văn
hóa - xã hội.
 Đánh giá vai trò, tác động của phố cảng Thu Xà đối với miền Trung nói chung
và Quảng Ngãi nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu phố cảng Thu Xà (Quảng Ngãi) từ khi ra đời trong
thế kỷ XVIII đến khi suy tàn vào giữa thế kỷ XX với những đối tượng cụ thể sau:
 Về phố cảng Thu Xà với sự ra đời, phát triển và suy tàn.
 Đề cập đến các loại thương nhân, đặc biệt là thương nhân người Hoa, về hàng
hóa, nghề thủ công tại phố cảng.
 Các hoạt động văn hóa và dấu tích phố cổ.

3


4.2. Phạm vi nghiên cứu
 Về thời gian: Từ Thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX.
Tôi chọn mốc thời gian trên vì thế kỷ XVIII, với sự tụ cư đông đúc của người
Hoa, cũng như yêu cầu phát triển buôn bán lâu dài, cộng đồng cư dân Hoa - Việt
tại Thu Xà đã có những xúc tiến cho việc ra đời phố như việc mua bán đất để thiết
lập các cơ sở đầu tiên cho việc định cư lâu dài tại phố. Đến thời điểm giữa thế kỷ
XX, với nhiều nguyên nhân khác nhau, phố cảng Thu Xà suy tàn.
 Về không gian: Không gian chính của phố cảng Thu Xà là ở xã Nghĩa Hòa,
huyện Tư Nghĩa, Quảng Ngãi, trong đó tập trung vào thôn Thu Xà, nơi có nhiều
dấu tích phố cảng và một số thôn ấp kế cận của Thu Xà.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở nguồn tư liệu, tài liệu thu thập, tôi sử dụng nhiều phương pháp khác
nhau trong việc xử lý tư liệu. Trong đó dùng phương pháp lịch sử và phương pháp
logic như:
 Phương pháp nghiên cứu liên ngành như: xã hội học, lịch sử học, văn hóa
học…
 Phương pháp thống kê, phân loại.
 Phương pháp phân tích tổng hợp.
 Phương pháp quan sát đánh giá.
Để biên soạn, phân tích, so sánh, đối chiếu các sự kiện theo trình tự không gian
và thời gian.
6. Đóng góp của đề tài
Về mặt khoa học, đề tài cung cấp cho người đọc một cách khách quan về sự vận
động, phát triển và suy tàn của phố cảng Thu Xà theo tiến trình thời gian và không
4


gian. Đồng thời, đề tài còn góp phần khỏa lấp những chỗ trống trong việc nghiên
cứu phố cảng ở miền Trung. Bên cạnh đó, Luận văn góp phần bổ sung vào quá
trình nghiên cứu lịch sử, kinh tế, văn hóa của địa phương, (cụ thể là xã Nghĩa Hòa,
Tư Nghĩa, Quảng Ngãi). Với những định hướng rút ra từ thực tiễn nghiên cứu, đề
tài còn là nguồn tham khảo trong việc hoạch định chiến lược xây dựng kinh tế, văn
hóa của địa phương.
7. Bố cục của đề tài
Ở phạm vi là bài tiểu luận nên tôi xây dựng bố cục ngoài phần mở đầu, kết luận,
phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung chính của tiểu luận gồm 3 chương:
Chương 1. Khái quát về Quảng Ngãi (thế kỷ XVIII – XIX)
Chương 2. Phố cảng Thu Xà ở Quảng Ngãi (thế kỷ XVIII – XIX)
Chương 3. Một số nhận xét về phố cảng Thu Xà ở Quảng Ngãi (thế kỷ XVIII –
XIX)


5


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ QUẢNG NGÃI (THẾ KỶ XVIII – XIX)
1.1. Tình hình chính trị
Giai đoạn cuối thế kỷ XVIII, sự phát triển kinh tế - xã hội ở Đàng Trong đã
dần dần tích tụ những mâu thuẫn nội tại với việc hình thành lớp người giàu, có
quyền lực, chiếm hữu nhiều đất đai, bên kia là đại đa số nông dân nghèo khó,
ruộng đất khai khẩn được bằng mô hôi, nước mắt và cả xương máu, dần dần rơi
vào tay điền chủ, quan lại.
Mối quan hệ chung lưng đấu cật giữa những người có của đi kinh dinh, với số
đông người lao động đã phai nhạt dần theo năm tháng. Đồng thời, nhiều mâu thuẫn
giữa người giàu với kẻ nghèo, người chiếm hữu và người bị chiếm hữu ngày càng
trở nên gay gắt. Thêm vào đó, do đặc điểm của xã hội Đàng Trong, bộ máy cai trị
về đại thể mang hình thức quân quản nên những người giàu có, nhiều ruộng đất,
cũng đồng thời là tầng lớp tướng lĩnh hoặc quan lại xuất thân từ tướng lĩnh. Quá
trình chiếm hữu ruộng đất của tầng lớp trên được hỗ trợ bằng các chính sách, chủ
trương của nhà nước phong kiến mà trong đó, ngày càng nặng nề hơn, là sự nghiệt
ngã của chính sách sưu dịch, thuế khóa. Bên cạnh đó, sự quản lý chặt chẽ của các
chúa Nguyễn đối với việc khai thác các nguồn tài nguyên nhằm phục vụ xuất khẩu,
mua sắm vũ khí và các mặt hàng xa xỉ khác đã làm cho tầng lớp thương nhân
không thể hình thành, cho dù đã có một lực lượng khá đông đảo những người mua
bán nhỏ lẻ, thu mua nông thổ sản, lâm sản, hải sản đã nhóm thành các "nậu" ở khắp
vùng Quảng Nam lúc bấy giờ. Bao trùm lên tất cả, chi phối tất cả các quan hệ phức
tạp trên đây là mâu thuẫn giữa tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài và
các chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Nếu như ở giai đoạn đầu mối quan hệ này đã gián
tiếp thúc đẩy quá trình Nam tiến cũng như sự thịnh vượng của đất Thuận Quảng thì
càng về sau, khi các chúa Nguyễn đã công khai ý đồ cát cứ, thì ảnh hưởng tiêu cực
của nó đối với sự phát triển đất nước ngày càng trầm trọng. Những cuộc chiến

6


tranh triền miên giữa hai bờ sông Gianh, việc huy động một lực lượng lớn nhân tài,
vật lực để đào hào, đắp lũy, mua sắm vũ khí, huy động tráng đinh bỏ ruộng vườn
tham gia quân đội đã làm cho nền kinh tế Đàng Trong rơi vào khủng hoảng. Người
dân vốn đã khổ cực vì sưu cao thuế nặng, lại thêm nạn dịch binh, thiên tai, mất
mùa... làm cho bội phần khốn đốn.
Cuộc khởi nghĩa của anh em nhà Tây Sơn (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn
Lữ) từ vùng rừng núi Tây Sơn Thượng Đạo, nổ ra vào năm 1771, và nhanh chóng
trở thành một phong trào nông dân rộng lớn. Từ Quy Nhơn, Quảng Ngãi phong
trào này lan ra khắp đất Quảng Nam, rồi cả nước, cuốn đổ cả tập đoàn phong kiến
của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong và tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh ở Đàng
Ngoài, đánh bại cả quân Thanh xâm lược ở phía Bắc và quân Xiêm gây rối ở phía
Nam.
Ngay sau khi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra, ở miền tây Quảng Nghĩa, các ông
Đa Phát Rang (chủ động Cao Muôn), Đa Phát Canh (chủ động Thạch Bích), Đinh
Thung (chủ động Cà Đam) đã hô hào đồng bào các dân tộc ít người nổi dậy hưởng
ứng cuộc khởi nghĩa, thiết lập 3 căn cứ kháng chiến ở vùng cao. Từ đây, phong trào
lan nhanh xuống vùng thấp với việc hình thành các căn cứ. Ngoài ra, quân Tây Sơn
còn có các chốt điểm hoạt động quan trọng ở Bến Thóc (huyện Mộ Đức), Lò Thổi
(Tuyền Tung), Thiết Trường (huyện Mộ Đức), Trà Câu (huyện Đức Phổ) và đặc
biệt là vùng rừng núi Cà Ty (nay thuộc xã Tịnh Trà, huyện Sơn Tịnh),…Từ khắp
nơi trong phủ Quảng Nghĩa, nhiều bậc hiền tài đã hướng về nghĩa quân Tây Sơn,
quy tụ dưới ngọn cờ của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Nhiều
người trong số đó đã trở thành các yếu nhân của phong trào nông dân Tây Sơn, lập
chiến công xuất sắc trong việc xóa sổ các tập đoàn phong kiến Đàng Trong lẫn
Đàng Ngoài, đánh bại quân xâm lược Mãn Thanh mùa xuân năm 1789.
Năm 1776, dưới thời Tây Sơn, phủ Quảng Nghĩa được đổi tên là phủ Hòa
Nghĩa, kéo dài từ phía nam sông Bến Ván (Bản Tân) đến đèo Bình Đê và đặt dưới

quyền quản lý trực tiếp của vua Thái Đức - Nguyễn Nhạc. Triều Tây Sơn chỉ tồn
tại ngắn ngủi, nhưng đã thực thi nhiều chính sách tiến bộ, phù hợp với xu thế phát
7


triển của đất nước, trong đó có phủ Hòa Nghĩa (Quảng Ngãi). Những tài liệu liên
quan đến các chính sách của nhà Tây Sơn đối với vùng đất Quảng Ngãi không
nhiều, do họa binh đao và đặc biệt là chủ trương "tận diệt, tận hủy" của nhà
Nguyễn sau khi đánh thắng Tây Sơn, nhưng nhiều giai thoại còn lưu truyền trong
dân gian cho thấy anh em nhà Tây Sơn đã có sự quan tâm đáng kể đến vùng đất hai
phủ Quy Nhơn và Hòa Nghĩa, vốn là địa bàn gây dựng thanh thế của triều đại này.
Từ sau khi Quang Trung - Nguyễn Huệ qua đời (1792), nhà Tây Sơn nhanh
chóng rơi vào khủng hoảng. Những mâu thuẫn xã hội tạm thời lắng dịu do ảnh
hưởng và thanh thế của phong trào Tây Sơn trong buổi đầu dấy nghiệp cũng như
tài năng, đức độ của Nguyễn Huệ, đến lúc này đã bộc lộ trở lại và ngày càng trở
nên gay gắt hơn. Thêm vào đó, những lục đục trong nội bộ vương triều, do những
tham vọng cát cứ, thâu tóm quyền lực của một số công thần, sự bất tài, nhu nhược
của Trung ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc, Đông Định vương Nguyễn Lữ, người kế
vị Quang Trung là Quang Toản, và nhất là sự quấy phá triền miên của tập đoàn
Nguyễn Ánh từ phía Nam được sự hỗ trợ của ngoại bang, khiến nhà Tây Sơn trở
nên suy yếu.
Năm 1801, triều Tây Sơn sụp đổ. Nguyễn Ánh lên ngôi vua (1802), thiết lập
vương triều Nguyễn, xây dựng và củng cố quyền lực trên toàn cõi đất nước.
Năm 1801, Gia Long đổi phủ Hòa Nghĩa trở lại tên cũ là phủ Quảng Nghĩa,
đồng thời đặt dinh Quảng Nghĩa cùng các chức quan cai quản là Lưu thủ, Cai bạ và
Ký lục. Năm 1808, dinh Quảng Nghĩa lại đổi thành trấn Quảng Nghĩa và đến năm
1810 chức Lưu thủ được đổi thành Trấn thủ; năm 1826, đổi các chức Cai bạ, Ký
lục thành Hiệp trấn, Tham trấn. Đồng thời với việc sắp đặt bộ máy cai quản, năm
1807 Gia Long dời lỵ sở của phủ Quảng Ngãi từ thôn Phú Đăng về xã Cù Mông
(thuộc huyện Chương Nghĩa). Đến năm 1815 thành Quảng Ngãi được xây dựng,

tại khu vực nay là Di tích thành cổ Quảng Ngãi, và nơi đây trở thành thủ phủ lâu
dài của vùng đất Quảng Ngãi.

8


Khoảng thời gian từ đầu đời Gia Long đến những năm 1831, 1832 là thời kỳ nhà
Nguyễn củng cố bộ máy cai trị, từ trung ương đến phủ, huyện, châu, làng xã; xây
dựng pháp luật, cắt đặt binh chế, quan chế; đề ra các chính sách thống nhất trên cả
nước về tài chính, điền địa, thuế khoá, đo lường, giáo dục - thi cử,... Những chính
sách này đã tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất định cho sự phát triển kinh tế văn hóa của đất nước sau thời kỳ chiến tranh và phân lập kéo dài.
1.2. Tình hình kinh tế
1.2.1. Nông nghiệp
Trong thời kỳ các triều đại phong kiến Việt Nam, nông nghiệp ở Quảng Ngãi
tiếp tục có sự phát triển. “Kinh tế thời phong kiến luôn lấy nông nghiệp làm căn
bản. Người Việt di cư vào Quảng Ngãi sinh sống, lập nghiệp, đem kỹ thuật nông
nghiệp từ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ vào để áp dụng ở vùng đất mới, tất nhiên cũng
có kế thừa những kỹ thuật canh tác của người Chăm. Một đặc thù rất rõ của nông
nghiệp Quảng Ngãi thời phong kiến là nó gắn liền với quá trình di dân và khai
khẩn đất hoang trong một thời kỳ dài suốt mấy thế kỷ, kèm theo việc xây dựng thủy
lợi”[5].
Thời kỳ nhà Nguyễn, bức tranh nông nghiệp Quảng Ngãi có phần sa sút, nguyên
nhân chính có thể là do trước đó đã diễn ra cuộc chiến tranh kéo dài, kể cả nội
chiến (Lê - Mạc, Trịnh - Nguyễn, Nguyễn - Tây Sơn) và chiến tranh chống xâm
lược thời Tây Sơn (diệt Xiêm, đánh Thanh).
Sách Đại Nam thực lục do Quốc Sử quán triều Nguyễn biên soạn, chép rằng vào
năm Gia Long thứ 18 (1819) số công tư điền thổ ở Quảng Ngãi có hơn 60.000
mẫu. Sách Đại Nam nhất thống chí cũng của Quốc Sử quán triều Nguyễn, chép
rằng thuế ruộng đất đời vua Tự Đức ở Quảng Ngãi là 50.934 mẫu. Chưa hiểu vì lý
do gì ruộng đất thời này lại thấp hơn ở triều Gia Long và cả trong thời chúa

Nguyễn trước kia (như Phủ biên tạp lục đã dẫn).

9


Điều chắc chắn là ngoài hậu quả do chiến tranh để lại, thì yếu tố khí hậu, thời
tiết cũng có tác động rất lớn đến sản xuất nông nghiệp ở Quảng Ngãi thời kỳ này.
Rất nhiều lần sách Đại Nam thực lục chính biên của Quốc Sử quán triều Nguyễn
biên chép về tình trạng hạn hán, lụt lội, bão tố ảnh hưởng nghiêm trọng đến mùa
màng Quảng Ngãi. Điển hình là năm Ất Sửu 1865, dân Nam - Ngãi phải phiêu dạt
ra tận Thừa Thiên để kiếm sống; năm Mậu Dần 1878 diễn ra "Lụt Bất quá" khiến
"Ba huyện Quảng Ngãi mười phần tả tơi" (về Lụt Bất quá của Tú tài Phan Thanh),
nông dân Quảng Ngãi hết sức điêu đứng.
Tuy là ngành sản xuất chính, nhưng do điều kiện về khí hậu, thời tiết, địa hình,
kể cả điều kiện kỹ thuật thô sơ, mà sản xuất nông nghiệp ở Quảng Ngãi vẫn khó
phát triển. Để có thể sinh tồn, người dân Quảng Ngãi đã phải chịu đựng cảnh thiếu
thốn, lao động hết sức cực nhọc. Quanh năm, suốt tháng, hết lúa đến khoai, hết
khoai đến mía, hết mía đến bắp,... trừ những trường hợp bất khả kháng như lụt bão,
hạn hán, không khi nào người dân chịu để đất nghỉ. Do địa hình có đồng bằng, gò
đồi xen kẽ nên nhiều khi trên cùng một vùng mà nơi này gặt lúa, đầu kia cày
ruộng, đằng trước phạt mía, đằng sau cuốc đất. Nhà nông chăm lo trồng tỉa nhưng
do đất xấu nên hàng năm thu hoạch không được bao nhiêu, thường dùng khoai, đậu
trộn vào cơm gạo mới đủ ăn.
Sản phẩm chính của nông nghiệp Quảng Ngãi trong thời kỳ này là lúa, mía và
các loại cây trồng khác như: mì, khoai lang, đậu phụng, dâu tằm... Số lượng các
loại sản phẩm trên, sử liệu không nói rõ là bao nhiêu.
Về thời vụ gieo trồng, người xưa đã biết dựa vào nông lịch để trồng các loại cây
nông nghiệp trên từng vùng đất cao, đất thấp nên 4 mùa đều có gieo trồng, người
làm nông ít khi rảnh rỗi.
Ruộng thì có các loại: ruộng 1 vụ, 2 vụ lúa, cũng có một ít ruộng 3 vụ. Các

giống lúa trong thời kỳ này chủ yếu là ba trăng, trì trì, giống tàu núp, chiêm ngự,
bát nguyệt. Đây là những giống lúa địa phương có từ xa xưa, thích hợp với điều
kiện tự nhiên của nhiều vùng, thường cao cây, gạo ngon nhưng năng suất thấp, dễ
10


đổ ngã khi gặp mưa to, gió lớn. Ngoài ra, còn có các giống lúa như xâu chuỗi, lúa
vung, lúa tiễn, lúa cự, lúa cúc, lúa bông rinh. Các loại lúa này thường gieo trên các
nương, rẫy ở miền núi, hiện nay hầu hết không còn nữa. Đến cuối năm 2005, giống
lúa bông rinh vẫn còn trồng một ít ở thị trấn Di Lăng, huyện Sơn Hà.
Tùy theo địa hình và nguồn nước tưới mà cây lúa ở đồng bằng thường cấy vào
nhiều vụ khác nhau trong năm. Thường thì tháng 2 gieo mạ cấy lúa bát ngoạt
(nguyệt), tháng 8 cấy lúa tàu núp, tháng 10 cấy lúa ba trăng, bông rinh, tháng 12
cấy lúa trì trì. Ở miền núi, người Hrê (ở các huyện Ba Tơ, Sơn Hà, Minh Long)
biết trồng lúa nước, biết làm các đập bổi để lấy nước tưới cho lúa. Người Ca Dong
và người Cor làm nương, rẫy là chủ yếu. Thường vào đầu tháng 6 thì dọn nương,
đốt rẫy chờ có mưa giông mới trồng lúa, bắp.
Bên cạnh lúa, cây mía dần dần phát triển và trở thành cây trồng đặc chủng
truyền thống của Quảng Ngãi. Ngay từ thời nhà Nguyễn, triều đình có lệ hằng năm
đặt mua đường cát ở Quảng Ngãi. Điều đó cho thấy nghề trồng mía, làm đường ở
Quảng Ngãi thuộc loại nổi bật nhất trong nước thời bấy giờ. Trong bộ sách Đại
Nam thực lục, do Quốc Sử quán triều Nguyễn ghi theo lối biên niên sử, hầu như
năm nào triều đình cũng ứng tiền đặt mua đường cát ở Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Mía được trồng thời kỳ này dĩ nhiên là giống mía nội địa, có năng suất thấp. Tuy
vậy, việc trồng phổ biến cây mía và làm đường cát là một cách chọn lựa khá đúng
đắn, trong điều kiện đất gò ở Quảng Ngãi khá nhiều và có rất nhiều chân đất không
phù hợp cho trồng lúa, nht là vấn đề giải quyết nước tưới rất khó khăn.
Nghề trồng dâu, nuôi tằm phát triển ở các vùng bãi bồi ven các sông lớn như Trà
Khúc, Phước Giang, sông Vệ. Từ tháng Giêng đến tháng 9, tháng nào cũng nuôi
tằm được. Tuy nhiên, vào mùa đông trời rét, lá dâu vàng rụng nên việc nuôi tằm

thưa thớt.
1.2.2. Thủ công nghiệp

11


Có thể các nghề thủ công của người Việt ở Quảng Ngãi đã hình thành cùng lúc
với sự di cư của người Việt đến mảnh đất này, khoảng cuối thế kỷ XV, dưới thời
nhà Lê. Đến thời chúa Nguyễn, nghề thủ công càng phát triển, trong đó nghề dệt
vải và dệt lụa ở Quảng Ngãi đã có tiếng vang nhất định: "Về phủ Quảng Nghĩa thì
có xã Long Phụng thuộc huyện Mộ Hoa theo lệ phải nộp thuế lụa là 2 tấm 7 thước
5 tấc 8 phân, và được nộp tiền thay thế là 11 quan 2 tiền 38 đồng" (2). "Xã Thanh
Hiếu thuộc huyện Mộ Hoa theo tỉ lệ phải nộp 1.170 tấm vải trắng để thay thế việc
nộp sưu và bắt lính"(3). Đặc biệt là nghề nấu rượu và nghề làm mật đỏ ở Quảng
Ngãi thời kỳ này rất phát triển. Phủ biên tạp lục chép: "Xã Thanh Hiếu thuộc
huyện Mộ Hoa hằng năm phải nộp cho Ty lệnh sử 5 chỉnh rượu; thôn Nghĩa Lập
thuộc huyện Chương Nghĩa hằng năm phải nộp 2.753 chỉnh mật đỏ để khấu trừ các
khoản tiền phải nộp và 730 chỉnh mật ấy để thế số thuế tô ruộng. Ngoài ra, thôn ấy
còn phải nộp cho quan Cai trường 20 chỉnh mật đỏ nữa".
Nghề thủ công ở Quảng Ngãi hầu hết đều có nguồn gốc từ những người nông
dân miền Bắc di cư vào Nam trong các thế kỷ XV, XVI và một bộ phận nhỏ là từ
người Hoa truyền vào (như nghề làm kẹo gương, làm nhang), người Chăm truyền
lại (như nghề đóng thuyền, đan lưới). Từ vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh, người nông
dân vào khai phá mở rộng vùng đất Quảng Ngãi đã mang theo một số nghề thủ
công như nghề mộc, dệt chiếu, làm nón, đan lát, đúc đồng, làm gốm, chế tác sừng,
… đã kết hợp và phát triển các nghề đã có từ trước (thời Văn hóa Sa Huỳnh, Văn
hóa Chămpa) trên vùng đất này, tạo nên các nghề mang tính đặc thù của vùng đất
xứ Quảng, như gốm, đúc đồng, nghề mía đường, mạch nha, kẹo gương, chế tác đá,
nuôi tằm dệt vải, làm mắm, luyện sắt. Sự kết hợp hài hòa và quyện lẫn các nghề
vào nhau mang tính chất đa tuyến này đã làm cho nghề thủ công ở Quảng Ngãi trở

nên phong phú, đa dạng, phù hợp với điều kiện yêu cầu ở địa phương, làm giàu
thêm đặc trưng bản sắc văn hóa một vùng kinh tế.
Làng nghề thủ công cổ truyền tiêu biểu đã tồn tại và phát triển trên đất Quảng
Ngãi hết sức đa dạng, như: làng gốm (Mỹ Thiện, Bồ Đề, Thanh Hiếu, Chí
Trung), xóm đan (Tịnh Hà, Hành Đức), xóm chiếu (Thu Xà), làng đúc (Chú
Tượng), xóm rèn (Tịnh Hà, Tịnh Minh), làng mắm (An Chuẩn, Kỳ Tân, Sa Huỳnh)
12


…[5] Cơ cấu của các làng nghề này được tổ chức khá chặt chẽ, các thành viên
trong làng đều được tôn trọng, nâng đỡ và bảo vệ quyền lợi, người ta truyền đạt
cho nhau những kinh nghiệm để làm ra sản phẩm được tốt hơn, ít có hiện tượng
giấu nghề. Hầu hết các làng nghề đều có một tổ nghề, người có công đầu tiên khai
sinh nghề và truyền lại cho các thế hệ sau. Các làng nghề đều có ngày giỗ tổ nghề
hằng năm, việc cúng giỗ đều thống nhất một ngày và tự bản thân gia đình hành
nghề lo cúng. Thời gian và chiến tranh đã làm phai nhạt đi ký ức về tổ nghề, đồng
thời mất đi những tài liệu quý giá như gia phả, sắc phong của làng nghề, chỉ có ít
làng nghề giữ lại được hình ảnh tổ nghề.
1.2.3. Thương nghiệp và dịch vụ
Từ thế kỷ XV đến năm 1885, tức dưới thời phong kiến độc lập, Quảng Ngãi lần
lượt trải qua các triều thời Lê sơ, Mạc, Lê Trung hưng, chúa Nguyễn, Tây Sơn và
nhà Nguyễn. Trong đó, dưới thời các chúa Nguyễn và Tây Sơn (thế kỷ XVII XVIII), các hoạt động thương mại, nhất là ngoại thương, khá phát triển.
Đời nhà Nguyễn, hoạt động ngoại thương có phần chững lại vì chính sách bế
quan tỏa cảng, nhưng việc buôn bán với thương nhân Trung Quốc vẫn diễn ra. Trên
bản đồ Đồng Khánh địa dư chí (tất nhiên vẽ về hiện trạng có trước đó), người ta
thấy có ghi ở khúc sông Phú Thọ nam cửa Cổ Lũy, phía đông huyện Tư Nghĩa, có
chú dòng chữ "Thanh thương thuyền bạc độ" (bến đỗ thuyền buôn người nhà
Thanh), chứng tỏ việc buôn bán với người buôn Trung Quốc thời bấy giờ vẫn diễn
ra.
Về nội thương, hoạt động chủ yếu diễn ra trong phạm vi hẹp giữa các vùng

miền, chưa hình thành nền kinh tế hàng hóa, một mặt vì chính sách "trọng nông ức
thương" (coi trọng nghề nông, kìm hãm nghề buôn) của các triều đình phong kiến,
xem người làm nghề buôn bán thuộc tầng lớp cuối cùng của xã hội (sĩ, nông, công,
thương); mặt khác do kinh tế nông nghiệp còn lạc hậu, giao thông chưa phát triển,
giao thương giữa các khu vực chưa hình thành rõ nét. Tuy vậy, hoạt động thương

13


mại vẫn diễn ra như một quy luật tất yếu, xuất phát từ chính yêu cầu của cuộc
sống.
Hoạt động thương mại trong thời kỳ này diễn ra dưới hai hình thức: một là, việc
trao đổi mua bán do nhu cầu của người dân mà diễn ra; hai là, triều đình phong
kiến thu mua do cần bình ổn vật giá, trước hết là những mặt hàng quan trọng như
nông sản, lương thực, kể cả việc mua đường thủ công để khuyến nông hoặc mua
lúa, mua gạo,… để bán cho nông dân, tránh việc dân buôn đầu cơ trục lợi. Chẳng
hạn như triều đình phong kiến nhà Nguyễn mua đường cát ở Quảng Ngãi chở ra
Đà Nẵng bán, năm 1835 mua được 1.100.000 cân; năm 1842 mua 800.000 cân,…
được ghi trong bộ sách Đại Nam thực lục. Có thể nói đây là biện pháp điều tiết
bình ổn thị trường có hiệu quả.
Sách Đại Nam nhất thống chí do Quốc Sử quán triều Nguyễn biên soạn, chép về
hoạt động buôn bán thời kỳ này như sau: "Ngoài những người bày hàng buôn bán
chợ phố, còn có bốn hạng đi buôn: một là buôn mọi, hai là buôn gánh, ba là buôn
thuyền, bốn là buôn biển".Năm 1882, về chợ, tính tổng cộng ở Quảng Ngãi lúc này
có 38 chợ và quán, và chắc trên thực tế số chợ còn nhiều hơn.
Buôn núi: Sách triều Nguyễn gọi lệch lạc là "buôn mọi" nhưng dân gian gọi là
"buôn núi". Cần hiểu rằng giữa miền xuôi và miền núi Quảng Ngãi đã hình thành
giao lưu, buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa các dân tộc từ thời xa xưa. "Buôn mọi"
ở đây tức là buôn giữa người Việt với người dân tộc thiểu số miền núi. Từ các
huyện đồng bằng thuở xưa đã có các đường chính dẫn lên bốn nguồn Trà

Bồng, Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ. Người buôn núi thường là người Việt, từ đồng
bằng gồng gánh các hàng hóa miền xuôi như vải vóc, nông cụ, mắm muối,… theo
các đường dẫn lên nguồn, lặn lội đến các làng nóc để buôn bán, đổi chác với đồng
bào dân tộc, mua về các sản vật ở miền núi. Ở giữa các đường dẫn lên nguồn cũng
hình thành các chợ chuyên trao đổi xuôi - ngược, như chợ Thạch An, chợ Đồng Ké,
chợ Tam Bảo,… Ở đó, người miền xuôi và miền núi đúng phiên tụ về để buôn bán,
đổi chác. Ở mỗi làng xã miền xuôi đều có một số người chuyên đi "buôn núi",

14


chứng tỏ việc buôn bán với miền núi rất được chú trọng và xếp vào một loại riêng
là khá hợp lý.
Buôn gánh: Buôn núi cũng là buôn gánh, nên buôn gánh ở đây chỉ những người
buôn gánh các loại nông sản, hàng hóa đi buôn ở các làng miền xuôi. Đặc biệt ở
nhiều làng xa chợ quán, thì việc buôn gánh kiểu này rất thuận tiện cho người tiêu
dùng.
Buôn thuyền: Tức người ta dùng thuyền đi buôn bán. Thuở xưa đường bộ khá
trắc trở, xe cộ chưa có, nên dùng thuyền chở hàng hóa buôn bán có phần thuận tiện
hơn. Người ta có thể dùng thuyền chở các loại hàng hóa đến các làng, các chợ ở
miền xuôi, cũng có thể chở lên tận các nguồn ở miền núi. Việc buôn thuyền thuở
xưa khá tấp nập, nên có câu ca dao trên sông Vệ:
Đò đưa sông Vệ nghênh ngang
Bạn hàng nô nức sao chàng ngồi đây?
Nói cụ thể, buôn thuyền ở đây tức là dùng thuyền chở hàng dọc theo sông để
buôn bán. Thường người ta cũng mua cá từ các cửa biển để chở sâu vào nội địa,
lên tận vùng núi để bán, gọi là ghe rỗi. Trong vùng cũng lưu truyền câu ca để chỉ
cảnh, tình giữa miền xuôi với miền núi:
Ai về nhắn với nậu nguồn
Mít non gửi xuống cá chuồn gửi lên!

Buôn biển: Cũng như "buôn núi", "buôn biển" là sự phân định dựa vào không
gian buôn bán, khác với sự phân định "buôn gánh" và "buôn thuyền" dựa vào
phương tiện buôn bán. "Buôn biển" tất nhiên cũng dùng thuyền ghe, nhưng điểm
khác biệt cơ bản với "buôn thuyền" ở trên là địa điểm để buôn bán. Nếu "buôn
thuyền" dùng "ghe kinh" chuyên đi sông thì "buôn biển" chuyên dùng "ghe bầu",
với thùng ghe rộng lớn, chuyên chở được nhiều, chuyên đi biển. Nếu "buôn
thuyền" chủ yếu trao đổi với các vùng dọc sông trong phạm vi Quảng Ngãi (vì các
15


sông đều bó hẹp trong tỉnh), thì "buôn biển" rộng lớn hơn nhiều. Thực tế khảo sát
điền dã cho thấy hầu hết các làng chài ở ven biển Quảng Ngãi đều có một số người
đi "buôn biển", hay "buôn ghe bầu". Nói cụ thể hơn nữa thì "buôn biển" chính là
dùng ghe bầu buôn bán với các tỉnh trong Nam ngoài Bắc. Thời bấy giờ việc
chuyên chở hàng hóa với quãng đường xa như vậy mà theo đường bộ (đường
Thiên Lý Bắc - Nam), với mặt đường đất lồi lõm, qua nhiều đèo cao, đò sâu, không
có xe cộ, thì thật bất tiện, nếu không nói là không thể. Do vậy mà "buôn biển" gần
như là một "độc đạo" rất quan trọng trong việc giao lưu hàng hóa với các vùng,
miền trong nước. Nhiều người buôn ghe bầu đi tận Nam Bộ mua dừa, mua gạo ra
bán ở Nam Định, Huế, cũng có khi về bán ngay tại Quảng Ngãi. Người ta cũng chở
đường, quế từ Quảng Ngãi đi bán ở các nơi xa. Đi đường gần thì người ta đi Bình
Thuận mua cá mòi, mắm về bán ở quê hay ở Nam Định, Nghệ An. Trong buôn bán,
trao đổi với các vùng chung quanh, người đi buôn biển thường vào Tam Quan (tỉnh
Bình Định) mua dây dừa, cói, các loại gỗ, vải, gai để về bán cho ngư dân Quảng
Ngãi đóng thuyền, may buồm, đan lưới… Do vậy, việc buôn bán đường biển
không chỉ có ý nghĩa tăng thu nhập cho nhà buôn, mà còn là sự bổ sung các vật
phẩm ở Quảng Ngãi không có hoặc không có đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh
hoạt của địa phương. Hoạt động "buôn biển" kiểu này vẫn tồn tại một cách lâu dài
cho đến thời Pháp thuộc, mãi đến những năm kháng chiến chống Pháp, đến khi
Quốc lộ 1 được xây dựng đàng hoàng, xe vận tải đã nhiều, mới chấm dứt hẳn.

Thật khó nói trong các phương thức buôn bán như trên, phương thức nào quan
trọng hơn, nhưng xin đề cập thêm về phương thức "buôn núi". Đặc thù của Quảng
Ngãi là miền núi chiếm diện tích rộng, chạy dọc miền tây tỉnh, nên từ đồng bằng
đều có các đường dẫn lên nguồn. Quế ở Quảng Ngãi chủ yếu có ở nguồn Trà
Bồng (nay thuộc hai huyện Trà Bồng, Tây Trà), đã trở thành hàng hoá từ lâu đời và
là mặt hàng trao đổi chính trong buôn bán giữa người Việt, người Hoa với người
Cor trồng quế. Các thương nhân Việt lặn lội lên tận các làng nóc của người Cor để
mua quế, về bán cho người Hoa xuất khẩu. Vùng tiếp giáp Kinh - Thượng tại các
nguồn, có các chợ Đồng Ké, Thạch An cũng là những điểm giao lưu, buôn bán
quan trọng mặt hàng quế. Triều đình nhà Nguyễn bên cạnh đặt mua đường cát,
16


cũng đặt mua quế ở Quảng Ngãi hằng năm với số lượng lớn. Từ quế, người Cor
mua về trâu, chiêng, ché, muối, vải, đồng thau, nồi,… để dùng cho ăn uống, sinh
hoạt của mình.
Bốn kiểu buôn bán hay bốn giới buôn như trên rất quan trong trong đời sống, tuy
nhiên không thể không kể đến những hoạt động buôn bán bình thường diễn ra ở
các làng xã, do chính những người làm ra sn vật bán ra và mua những vật phẩm
thiết yếu về dùng.
Ngoài ra, trong xã hội cũng thường có những người chuyên buôn trâu, bò, gọi
là lái trâu, lái bò, chuyện buôn cá gọi là rỗi hay nậu rỗi (ở vùng biển). Lái trâu, lái
bò thường đi đến các làng mua trâu, bò để về bán lại cho nông dân nuôi và cày cấy.
Nậu rỗi thì gánh cá từ các bến cá vùng biển chạy lên các chợ và các làng nông
nghiệp để bán, có khi chạy lên tận vùng chân núi.
Mua bán thời kỳ này mang nặng tính tự túc: khi người nông dân sản xuất ra lúa,
ngô đậu, khoai, quế, đường,… họ mang đi bán (hoặc đổi lấy) hàng hóa tiêu dùng
khác là những vật dụng gia đình hoặc để phục vụ sản xuất như cuốc, rựa, phân bón.
Việc buôn bán gắn với cách đo lường trong buôn bán. Các phép đo lường trong
buôn bán thường dùng nhiều hình thức khác nhau, như: đo chiều dài thì dùng

thước ta (thước mộc), sau này mới dùng thước tây (mét); đong gạo, lúa, bắp, đậu,
… thì dùng ang khá phổ biến, với hai hình thức là ang vun (vật cần đong đổ đầy
lên mặt vật đong), ang séc (vật cần đong đổ ngang bằng mặt vật đong); đối với
hàng hoá là chất lỏng như nước mắm, nước dầu phụng thường dùng lít. Ngoài ra,
việc đo lường còn tuỳ thuộc vào sự thống nhất của hai bên như: tính con, tính cái,
gang tay, sải tay hoặc dùng phương tiện khác mang tính ước lượng như dùng
thúng, mủng, tô, chén (bát), tính chục, ví dụ như việc bán bánh tráng, trứng gà,
trứng vịt, trái cây,… thường dùng chục (một chục thường là 12 có khi là 14).
1.3. Tình hình văn hóa

17


Văn hóa vật thể và phi vật thể của người dân Quảng Ngãi được thể hiện trong
sinh hoạt lễ hội, văn học dân gian và văn học bác học, nghệ thuật… Các lễ hội bắt
nguồn từ lòng tôn thờ những người có công trong công cuộc xây dựng bảo vệ quê
hương, đất nước, trong lao động cực nhọc song hứng thú và đầy sáng tạo. Những
câu hò, như hò giã gạo, hò nện nền nhà… thể hiện và làm tăng thêm tinh thần
thương yêu, giúp đỡ nhau trong cuộc sống tươi vui, trong lao động của những con
người giàu tình làng nghĩa xóm. Bảo vệ và phát huy những di sản văn hóa dân tộc
và địa phương là yêu cầu cấp thiết trong xây dựng đất nước theo con đường xã hội
chủ nghĩa vào thời kỳ hội nhập quốc tế và khu vực của nhân dân ta. Vì vậy, cần
báo động tình trạng các di tích lịch sử bị huỷ hoại vì con người và thiên nhiên và
những di sản văn học, nghệ thuật dân gian của các dân tộc trong tình trạng bị lãng
quên và mất dần.
Trong "Bình Ngô đại cáo", Nguyễn Trãi đã khẳng định:
"Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu" (22).
Một nước có văn hiến là một nước có nền giáo dục (dân gian và nhà trường)
phát triển. Quảng Ngãi cũng là vùng đất có văn hiến trong quốc gia Việt Nam có

văn hiến, với nền giáo dục khá phát triển. Một vùng đất nghèo, con người phải lao
động vất vả để sống, song tinh thần, ý chí học tập, truyền thống hiếu học, tôn sư
trọng đạo thì ngày một toả sáng. Truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo này được
thể hiện ở việc lập Văn Thánh và tổ chức lễ tế hàng năm (Đình Văn Thánh về sau
cũng là một di tích lịch sử - văn hóa của tỉnh).
Giáo dục nhà trường theo Nho học ra đời ở Quảng Ngãi từ nửa sau thế kỉ XV,
khi đã chính thức gia nhập vào gia đình Đại Việt, song chưa có thành tựu gì đáng
kể. Trong mấy thế kỉ thời chúa Nguyễn ở Đàng Trong, giáo dục, thi cử, cũng được
tổ chức, tuy chưa có quy củ, nền nếp như Đàng Ngoài và các kỳ thi Chính đồ, Hoa
văn cũng có người Quảng Ngãi đỗ đạt. Từ đầu thế kỉ XIX, dưới thời vua Nguyễn,
giáo dục và thi cử được tổ chức khá tốt, trên cơ sở kế thừa thành tựu của các triều
18


đại trước; số người đi học, đi thi được ghi tên trên bảng vàng trong các kỳ thi
Hương, thi Hội, thi Đình ngày một nhiều.

19


CHƯƠNG 2. PHỐ CẢNG THU XÀ Ở QUẢNG NGÃI (THẾ KỶ XVIII – XIX)

2.1. Vị trí, tên gọi
Thu Xà là tên gọi chính thức của phố cảng từ thời Pháp thuộc, thời Nguyễn gọi
là Tân An phố thuộc tổng Nghĩa Hà, huyện Chương Nghĩa, phủ Tư Nghĩa, tỉnh
Quảng Ngãi; nay là thôn Thu Xà, một trong 4 bốn thôn (Hòa Bình, Hòa Tân, Thu
Xà, Hòa Phú) của xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, cách thị xã Quảng Ngãi 10 km
về hướng Đông. Thu Xà có diện tích tự nhiên là 197 ha, 580 hộ hộ và 3070 nhân
khẩu.
Thu Xà, phía Nam giáp sông Vực Hồng (nhánh của sông Vệ), chảy ra cửa Lỡ;

phía Bắc cách Thu Xà 4km là sông Trà Khúc, được liệt vào “hạng đại xuyên” dưới
thời Tự Đức, đổ ra cửa cổ Lũy (hay Đại cổ Lũy, cửa Đại). Đại Nam nhất thống chí
thời Tự Đức cho biết ở Quảng Ngãi có hai cửa biển là Sa Kỳ và Đại cổ Lũy là
những “cửa biển lớn, nước sâu, cạn, tàu thuyền ra vào đều do đấy...”. Hai cửa biển
trên là những cửa ngõ giao thương của Quảng Ngãi với trong nước và nước ngoài.
Do địa hình cồn cát phía đông che chắn nên mùa gió bão, tàu thuyền đi vào cửa
Đại neo đậu trú ngụ dọc theo đoạn hạ lưu sông Vệ rất an bình. Đoạn cuối sông Vệ
có một chi lưu khác là sông Võ Hồi, sông này chảy về hướng tây sau đó đổi hướng
chảy về phía bắc hòa nhập lại sông Vệ. Tại điểm đổi hướng chảy, sông Võ Hồi
thâm nhập sâu về phía nam một đoạn vào vùng đất Thu Xà phố. Thu Xà vốn là
vùng chằng chịt sông nước giống như tên gọi của nó (Thu có nghĩa là lau lách, Xà
có nghĩa là gò đất nổi cao giữa đầm nước).
Thu Xà khởi phát từ vạn Tiên Sà - tên làng Việt gốc từ các tỉnh phía Bắc vào
vùng đất này lập nên vạn Tiên Sà, làng Thu Xà (do các họ Trần, Nguyễn, Lê, Đặng
khai phá). Địa bạ ghi tên làng là Tăng Sai xã có địa giới như sau: “Đông giáp sông,
Tây giáp thôn Ngòi Tôm và thôn Phủ Đăng, Nam giáp thôn Ngòi Tôm, châu Yên
Mô, Bắc giáp thôn Phú Đăng, xã Long Phụng, lập cột đá làm giới" . Tên Thu Xà và
các làng xã kế cận như Làng Phú Nhơn (còn gọi là Phủ Cường); thôn Phú Đăng
20


(Phú Thứ), thôn Ngòi Tôm (hay Long Khê - Hà Khê) đều có trong danh mục làng
xã và trên bản đồ vẽ đầu thế kỷ XX ở vị trí D6 qua phân tích địa bạ của tác giả
Nguyễn Đình Đầu .
2.2. Sự hình thành phố cảng Thu Xà
2.2.1. Vai trò của người Hoa
Người Hoa có vai trò quan trọng trong sự hình thành phố cảng Thu Xà. Do
những tác động của hoàn cảnh lịch sử, kinh tế, xã hội, đặc biệt là khi nhà Minh bị
Mãn Thanh lật đổ, người Hoa (Minh Iỉương và Hoa kiều) từ Quảng Đông, Quảng
Tây, Phúc Kiến, Hải Nam xuôi theo đường biển về phương Nam tìm đất sống. Đại

Nam nhất thống chí viết thời Tự Đức cho biết phố thị: “Chợ Xích Thổ (huyện
Chương Nghĩa) củ phố Mình Hương''.
a. Về thời điểm
Người Hoa đến Thu Xà, căn cứ vào nội dung tờ thị: “Thị tỉ phong chức của
chúa Nguyễn Phúc Chu cho Trần Công Vinh, giao cho ông này nhiều việc, trong
đó có việc quản lý trông coi dân chánh hộ trong các huyện, tổng, xã, thôn, phường
thuộc bản phủ cùng thương nhân người Hoa” viết năm Chính Hòa thứ 12 (1691)
để suy đoán Hoa thương tụ cư khá đông ở Thu Xà trước năm 1691. Từ đó, người
Minh Hương đến sinh sống khắp nơi trong tỉnh, sau đó qui tụ đông đảo ở Tiên Sà.
Thời điểm người Hoa tập trung buôn bán ở Thu Xà là từ giữa thế kỷ XVIII, căn
cứ vào văn khế bán hai gian quán và đất của bà Lê Thị Vạn cho các họ thuộc lân
Hương Xuân vào năm 1790 cho thấy nhiều người Hoa mua đất: “Phụ nhân tên là
mẹ Độ tức Lê Thị Vạn ở thôn Ngòi Tôm phụ lũy, huyện Chương Nghĩa, phủ Hòa
Nghĩa kê khai về việc bán đứt. Do tôi có tạo mãi một ngôi quán tranh gồm 2 gian
và đất liền 1 khoảnh tại địa phận thôn Ngòi Tôm phụ lũy, đông cận đường cái, Tây
cận đất vườn ông Cai Đình Hân, Nam cận miếu thờ vọng, Bắc cân đất nhà thầy
Thận, Đông Tây tứ chí như trong văn khế này, nay đem bán đứt cho thầy Trình,
thầy Lộc, thầy Thái, thầy Nhung, thầy Tính và toàn lân (Hương Xuân - TG) để làm
21


miếu, y giả tiền 40 quan... Thái Đức năm thứ 13, ngày 19 tháng giêng” Sổ đinh
lưu giữ tại chùa Ông, Quảng Ngãi. Chính điều đó đã góp phần hình thành cảng thị
ở Thu Xà.
b. Tổ chức người Hoa
Có thể xem rằng lân Hương Xuân là tổ chức đầu tiên của người Minh Hương khi
định cư tại Thu Xà. Mặt khác, trong Đồng khánh địa dư chí có nhắc đến 2 làng
“Minh Hương cựu” và “Minh Hương tân thuộc” (hay Tân Thanh)”. Sự xuất hiện
tên hai làng Minh Hương cho biết thời điểm người Hoa đến Quảng Ngãi trong thế
kỷ XVII - XVIII sống thành cộng đồng Minh Hương (cựu); những người nhập cư

sau đó tách riêng thành cộng đồng Minh Hương tân thuộc vào khoảng năm 18434.
Năm Gia Long thứ 2 (1803), số đinh 108 người của Đại Minh khách thuộc của 18
họ sinh sống khắp các huyện trong tỉnh Quảng Ngãi. Trong đó, tập trung đông nhất
ở thuộc Hà Bạc, huyện Bình Sơn (94/108 dân đinh), số còn lại cư trú ở huyện
Chương Nghĩa và huyện Mộ Hoa. Sau đó, các số liệu thống kê người Minh Hương
từ đinh bộ tại Thu Xà cho thấy họ đều sinh sống tại Tân An phố cùng người Việt.
c. Sự hình thành thương cảng
Cùng với quá trình nhập cư đến “vùng đất mới” của người Hoa, cư dân Việt Hoa đã tận dụng những ưu thế về tự nhiên, gần cửa sông, cửa biển để đẩy mạnh
các hoạt động thương mại ở vùng này; từ đó thương cảng Thu Xà manh nha hình
thành đầu thế kỷ XVIII. Họ thành lập các điểm thu mua các mặt hàng nông, lâm,
thổ sản ở Quảng Ngãi rồi bằng phương tiện tàu thuyền, ghe bầu cung ứng cho thị
trường trong ngoài nước, chở hàng sang Hội An để xuất khẩu hoặc xuất khẩu trực
tiếp qua cửa Cổ Lũy. Vào cuối thế kỷ XVIII, khi người Hoa tụ cư đông hơn,
thương cảng Thu Xà sầm uất thì người Hoa đã bắt đầu xin nhượng đất đai của thôn
Thái Hòa phụ lũy để lập phố Tân An vào năm Gia Long thứ nhất. Điều này được
ghi trong đơn giao kết giúp đỡ nhau giữa thôn Thái Hòa và xã Minh Hương: Văn
bản Hán Nôm lưu giữ tại chùa ông, tỉnh Quảng Ngãi. Bản dịch của Trần Đại Vinh,
giảng viên Đại học Sư phạm Huế: “Ngữa trông ơn do địa bộ thôn chúng tỏi vốn
22


×