Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Vấn đề tái vũ trang nhật bản cơ sở pháp lý và cơ sở quan hệ quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BÙI MINH HƢNG

VẤN ĐỀ TÁI VŨ TRANG NHẬT BẢN:
CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ CƠ SỞ QUAN HỆ QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BÙI MINH HƢNG

VẤN ĐỀ TÁI VŨ TRANG NHẬT BẢN:
CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ CƠ SỞ QUAN HỆ QUỐC TẾ

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Bách Hiếu

Hà Nội - 2019



MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................................ 1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .................................................................... 3
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 4
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 4
2.Tổng quan tình hình nghiên cứu ..................................................................... 6
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................ 11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................ 11
5. Phương pháp nghiên cứu: ............................................................................ 12
6. Đóng góp của luận văn................................................................................. 12
7. Kết cấu của luận văn .................................................................................... 12
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN .............................. 13
1.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................ 13
1.2. Một số khái niệm cơ bản......................................................................... 13
1.2.1.Khái niệm tái vũ trang ........................................................................ 13
1.2.2.Khái niệm: Cơ sở pháp lý ................................................................... 14
1.2.3. Khái niệm: Quan hệ quốc tế.............................................................. 14
1.3. Bối cảnh quốc tế, khu vực và Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ 2 ..... 15
1.3.1.Bối cảnh quốc tế.................................................................................. 15
1.3.2. Bối cảnh khu vực Châu Á ................................................................. 21
1.3.3.Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay.......................... 25
* Tiểu kết chƣơng 1 ........................................................................................ 28
Chƣơng 2: VẤN ĐỀ TÁI VŨ TRANG NHẬT BẢN NHÌN TƢ GÓC ĐỘ
PHÁP LÝ VÀ QUAN HỆ QUÔC TẾ.............................................................. 29
2.1.Vấn đề tái vũ trang Nhật Bản ................................................................. 29
2.2.Cơ sở pháp lý ............................................................................................ 37
2.3.Cơ sở quan hệ quốc tế .............................................................................. 45
2.3.1. Sự trỗi dậy của Trung Quốc .............................................................. 46
2.3.2. Tranh chấp chủ quyền với Nga, Hàn Quốc ..................................... 50
1



2.3.3.Nhân tố Mỹ .......................................................................................... 53
2.3.4. Vấn đề hạt nhân và tên lửa Triều Tiên: ........................................... 57
2.3.5. Sự hồi sinh của Nga........................................................................... 59
2.3.6. Thách thức từ các điểm nóng trong khu vực ................................... 60
* Tiểu kết chƣơng 2. ....................................................................................... 61
Chƣơng 3: TÁC ĐỘNG, TRIỂN VỌNG CỦA VẤN ĐỀ TÁI VŨ TRANG
CỦA NHẬT BẢN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM ......................... 63
3.1.Tác động của quá trình tái vũ trang Nhật Bản đối với quan hệ
quốc tế ............................................................................................................. 63
3.1.1.Tác động tích cực ................................................................................ 63
3.1.1.1.Góp phần làm cân bằng chiến lược an ninh-chính trị ở khu vực
Đông Á ....................................................................................................... 63
3.1.1.2.Tăng cường quan hệ đồng minh Mỹ-Nhật-Hàn để đối trọng lại với
Trung Quốc. ............................................................................................... 64
3.1.2.Tác động tiêu cực. ............................................................................... 66
3.1.2.1.Gia tăng căng thẳng và chạy đua vũ trang ................................... 66
3.1.2.2.Cạnh tranh quyết liệt với Trung Quốc trong các vấn đề khu vực. 70
3.1.3. Tác động đối với Nhật Bản…………………………………………
3.2. Triển vọng của vấn đề tái vũ trang Nhật Bản ...................................... 76
3.3. Khuyến nghị cho Việt Nam .................................................................... 77
* Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................ 81
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 87

2


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1 .
2 .
3 .
4 .

CTTG 2: Chiến tranh thế giới lần thứ hai
GDP: Tổng ản phẩm quốc dân
GNP: Tổng sản lượng quốc dân
JSDF: Lực lượng tự vệ Nhật Bản
MEXT: Bộ văn hóa-Khoa học Nhật Bản

5 .
6 . ODA: Quỹ hỗ trợ phát triển cho các nước chậm phát triển của

Chính phủ Nhật Bản
7 .
8 .
9 .

TBCN: Tư bản chủ nghĩa
USD: Đô la Mỹ
XHCN: Xã hội chủ nghĩa

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra ngày một gia tăng trên
phạm vi toàn thế giới, dưới tác động của nó các quốc gia, dân tộc ngày càng xích

lại gần nhau và phụ thuộc lẫn nhau hơn bao giờ hết; Xu thế đối thoại và hợp tác,
hòa bình cùng nhau phát triển thay cho xung đột, đối đầu đang trở thành dòng
chảy chính trong quan hệ giữa các nước trên thế giới. Bên cạnh quá trình hợp tác
sâu rộng đó; trên thế giới cũng tiềm ẩn những nhân tố bất ổn, phức tạp khó
lường đòi các quốc gia phải cùng nhau hợp tác để giải quyết.
Ngày nay, châu Á đang trở thành khu vực phát triển năng động hàng đầu
thế giới đồng thời cũng là khu vực tiềm ẩn nhiều bất ổn về An ninh. Vấn đề hạt
nhân trên bán đảo Triều Tiên, các cuộc tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, Biển
Hoa Đông, nội chiến liên miên ở Trung Á, vấn đề tôn giáo dân tộc và sự thâm
nhập của các tổ chức khủng bố như IS, Abu sayap…, quá trình “trỗi dậy hòa
bình” của Trung Quốc và các mối nguy hại về an ninh chính trị mà nước này
gây ra. Châu Á đang trở thành trung tâm của các vấn đề An ninh – chính trị trên
thế giới hiện nay. Vấn đề hòa bình, ổn định ở khu vực châu Á có tác động rất
lớn đến sự phát triển chung của toàn thế giới.
Nhật Bản là quốc gia hàng đầu trên thế giới về tốc độ phát triển kinh tế,
sự ổn định, các chính sách an ninh – quốc phòng của quốc gia này đều có ảnh
hưởng rất lớn đến nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước Đông Bắc Á. Từ những
năm 1950, nhất là từ sau chiến tranh, Nhật Bản đã nhận thấy cần phải xây dựng
cho mình một lực lượng quân sự để phòng vệ đất nước và giảm sự phụ thuộc
vào Mỹ để chống lại những thách thức về an ninh từ tình hình quốc tế, từ “Sự
trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc và đe dọa tên lửa từ Triều Tiên, các vụ tranh
chấp lãnh thổ đối với các hòn đảo: Senkaku (theo cách gọi Nhật Bản) và Điếu
Ngư (theo cách gọi của Trung Quốc); Dokdo (theo cách gọi của Hàn Quốc) và
Takeshima (theo cách gọi của Nhật Bản ), quần đảo Nam Kuril ( theo các gọi
của Nga) và Lãnh thổ phương bắc (theo cách gọi Nhật Bản) đã khiến Nhật Bản
4


trở thành quốc gia có nhiều thách thức về an ninh trong khu vực. Mặt khác, Nhật
Bản đang muốn lấy lại vị thế của mình trong quan hệ quốc tế; Đồng thời cạnh

tranh ảnh hưởng với Trung quốc trong các vấn đề khu vực và thế giới. Để đạt
mục tiêu đó, Nhật Bản đã dần có những động thái sửa đổi Hiến pháp, phát triển
quân đội, trang bị cho mình các lực lượng được quân sự hóa và các công nghệ
quân sự mua sắm từ nguồn ngân sách dồi dào hàng đầu thế giới.
Những năm gần đây, chính quyền của Thủ tướng Shinzo Abe đã và đang
thực hiện nhiều bước đi quyết đoán thể hiện quyết tâm tái vũ trang lại lực lượng
quân sự của mình. Quá trình tái vũ trang Nhật bản đã nhận được sự cổ vũ mạnh
mẽ của Mỹ thể hiện bằng việc hợp tác An ninh – quốc phòng giữa hai nước ngày
càng khăng khít. Ngày nay, Nhật Bản là cường quốc kinh tế có ảnh hưởng đến
nhiều nước trong khu vực Đông Bắc Á và trên thế giới. Chính vì thế, mỗi chính
sách, động thái về an ninh-quốc phòng của nhật Bản cũng có ảnh hưởng sâu sắc
đến tình hình an ninh-chính trị khu vực và trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Cùng với chiến lược “ Xoay trục sang châu Á” của Mỹ, tái vũ trang Nhật Bản
đang làm cho tình hình khu vực châu Á và thế giới có nhiều biến chuyển sâu sắc.
Nhiều công trình nghiên cứu tỉ mỉ của các học giả, tác giả trong và ngoài
nước đã chỉ ra rằng tái vũ trang Nhật Bản là quá trình hợp với xu thế ngày nay,
đồng thời cũng có ý nghĩa không nhỏ cả về mặt lý luận và thực tiễn. Mặc dù tái
vũ trang Nhật Bản không phải là vấn đề mới nhưng để nghiên cứu tổng thể từ cơ
sở pháp lý đến những tác động của nó đối với quan hệ quốc tế, trong đó có Việt
Nam thì vẫn là vấn đề có nhiều ý nghĩa. Nghiên cứu “ Quá trình tái vũ trang
Nhật Bản: cơ sở pháp lý và cơ sở quan hệ quốc tế” không chỉ chỉ ra những tác
động của tái vũ trang Nhật bản đối với quan hệ quốc tế mà còn chỉ ra được
những ảnh hưởng và cơ hội của quá trình trên đem lại cho việt Nam. Từ đó nhìn
nhận rõ vấn đề tái vũ trang Nhật Bản, củng cố niềm tin vào chính sách đối ngoại
của Đảng và nhà nước, có những đề xuất góp phần tăng cường mối quan hệ đối
tác chiến lược Việt Nam-Nhật Bản.

5



Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Quá trình tái
vũ trang Nhật Bản: Cơ sở pháp lý và cơ sở quan hệ quốc tế” để làm luận văn thạc sĩ.
2.Tổng quan tình hình nghiên cứu
Bước sang thế kỷ XXI, thế giới chứng kiến những sự thay đổi mạnh mẽ tại
châu Á. Nhật Bản vẫn là một quốc gia có nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới
nhưng đã bị đẩy lùi một bước sau Trung Quốc. Cùng với đó những thách thức về
an ninh trong khu vực và vấn đề chủ quyền quốc gia đã thúc đẩy quá trình “Tái vũ
trang Nhật Bản” nhanh và mạnh mẽ hơn. Đồng thời quá trình trên cũng tác động
sâu sắc tới tình hình An ninh chính trị, nhất là mối quan hệ của nhiều nước trên thế
giới. Tuy nhiên, “Tái vũ trang Nhật Bản” là một quá trình diễn ra lâu dài từ sau
chiến tranh thế giới thứ II đến nay qua nhiều lần vận dụng, mở rộng cách hiểu Điều
9 trong Hiến Pháp của chính quyền Nhật Bản. Đã có nhiều cuốn sách, bài báo ở cả
trong nước và ngoài nước thể hiện công phu, tỉ mỉ khi khai thác về cơ sở pháp lý,
tác động của tái vũ trang Nhật Bản đến quan hệ quốc tế:
A. Các công trình nghiên cứu trong nước:
Công trình nghiên cứu về Nhật Bản
Cuốn sách “Lịch sử Nhật Bản”, Nxb Thế Giới Hà Nội-2012, Nguyễn Quốc
Hùng chủ biên (trang 342-343): Đề cập đến vai trò của Mỹ đối vơi quá trình tái
vũ trang Nhật Bản và “Hiệp ước hòa bình Sanfrancisco” tháng 9/1951 và “Hiệp
ước về hợp tác và an ninh” Mỹ-Nhật ngày 19-1-1960, đề cập đến việc thành lập
lực lượng Cảnh sát dự bị đội, đánh dấu quá trình tái vũ trang của Nhật Bản.
Các công trình nghiên cứu tái vũ trang Nhật Bản
Trong bài “ Tác động của việc sửa đổi Hiến Pháp Nhật Bản đối với chính
trị và an ninh khu vực Đông Bắc Á” ( tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số 122013 tr19-25 ) của tác giả Nguyễn Ngọc Nghiệp, đã nghiên cứu khá kỹ về tác
động của việc sửa đổi Hiến pháp Nhật Bản đến quan hệ với các nước Đông Bắc
Á và với an ninh khu vực. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Nghiệp, hiện nay sửa đổi
Hiến pháp đang trở thành chủ đề có tính thời sự tại Nhật Bản.

6



Tác giả Bảo Bình đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số 2-2016
đã đề cập việc: Thủ Tướng Abe đưa vấn đề sửa đổi Hiến pháp vào tuyên ngôn
tranh cử. Trong bài viết tác giả đã giải quyết nhiều vấn đề như: Tầm quan trọng
của bầu cử thượng viện nhật Bản đối với Hiến pháp, các đảng đối lập hợp tác
với LDP để sử đổi Hiến pháp, hay tác giả chỉ ra rằng để thay đổi Điều 9 trong
Hiến Pháp là vấn đề không phải dễ và cần qua nhiều công đoạn.
Trong bài: “Về sách trắng quốc phòng Nhật Bản năm 2016” in trên Tạp
chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số 3-2017, tác giả Trần Việt Thái đã đề cập đến
những nội dung cơ bản của Sách trắng quôc phòng Nhật Bản năm 2016 như:
Đánh giá tình hình an ninh xung quanh nước Nhật nhất là những thách thức từ
Trung quốc và Triều Tiên, mối liên minh quân sự với Mỹ và những sáng kiến an
ninh quốc phòng nhăm bảo vệ lãnh thổ và người dân Nhật.
Trong bài “Cạnh tranh sức mạnh quân sự ở khu vực Đông Bắc Á trong
những năm gần đây và dự báo” tác giả Nguyễn Ngọc Nghiệp đã chỉ ra rằng:
Trong những năm gần đây, các nước thuộc khu vực Châu Á nói chung và các
nước thuộc khu vực Đông Bắc Á nói riêng đã không ngừng gia tăng sức mạnh
quân sự. Điều này vô hình trung tạo ra một cuộcc chạy đua vũ trang và tác động
đến chính trị và an ninh khu vực. Bài viết cũng đã đề cập đến thực trạng, nguyên
nhân của việc gia tăng sức mạnh quân sự của các nước trong khu vực Đông Bắc
Á đồng thời đưa ra dự báo về xu hướng cạnh tranh sức mạnh quân sự trong
tương lai ở khu vực này.
Tác giả Nguyễn Quốc Toàn trong bài: “Nhật Bản trong hoạt động hợp tác
tình báo quân sự với Mỹ: Thành tựu và một số vấn đề đặt ra”, Nghiên cứu Đông
Bắc Á, số 4 (182) -2016, tác giả đã đề cập đến quan hệ Mỹ-Nhật là mọt trong
những mối quan hệ trọng yếu nhất hiện nay trên thế giới, được xây dựng và phát
triển qua nhiều thập niên, dần có sự thay đổi vê chất và có sự tác động to lớn đến
tình hình thế giới. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, bên cạnh sự hợp tác chặt
chẽ cũng đã nảy sinh những bất đồng giữa hai nước. Qua bài viết, tác giả đã
điểm lại đôi nét trong hoạt động hợp tác tình báo giữa hai nước thời gian qua và

đưa ra một số nhận định về vấn đề này trong thời gian tới.
7


Trong bài: “Những nhân tố tác động đến quan hệ chính trị Trung-Nhật
những năm đầu thế kỷ XXI” của tác giả Trần Hà Thùy Dương đăng trên tạp chí
Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số 4-2017 đã đề cập đến tầm quan trọng trong
mối quan hệ Trung Quốc và Nhật Bản, như là có vai trò chi phối đến an ninhchính trị trong khu vực và thế giới. Tác giả cũng dề cập đến những thăng trầm
trong quan hệ hai nước do sự tác động của những nhân tố lợi ích chiến lược
trong hai thập niên của thế kỷ XXI vừa qua.
Trong bài: “Nhật Bản trong hoạt động hợp tác tình báo với Mỹ: thành tựu
và những vấn đề đặt ra” in trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số 4-2016 của
tác giả Nguyễn Quốc Toản đã điểm lại đôi nét về hoạt động hợp tác tình báo một
bộ phận trong quan hệ song phương giữa hai nước trong thời gian qua: “ Sau
chiến tranh lạnh và đặc biệt là sau sự kiện 11/9, hoạt động hợp tác tình báo Mỹ Nhật được thúc đẩy mạnh mẽ do những biến chuyển của tình hình an ninh khu
vực và thế giới. Trên cơ sở đó, từ tháng 5/2016 hai nuớc đã đạt được những thỏa
thuận chung trong việc đề ra “kế hoạch tác chiến chung”, “cùng sử dụng tình
báo tác chiến”, “mở rộng huấn luyện chung” và “cùng sử dụng căn cứ quân sự.
Ngày 22/12/2006, Washington và Tokyo đã ký kết “Văn kiện hợp tác tình báo
địa lý - không gian”, đạt được sự nhất trí chia sẻ tin tức tình báo quân sự.
Trong bài: “ Cạnh tranh sức mạnh quân sự ở khu vực Đông Bắc Á trong
những năm gần đây và dự báo”( tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số 1-2013 tr.
14-17), tác giả Nguyễn Ngọc Nghiệp đã chỉ ra nguyên nhân cạnh tranh sức
mạnh quân sự ở khu vực Đông Bắc Á. Đó là: “Thứ nhất: Các quốc gia trong khu
vực Đông Bắc Á muốn khẳng định vị thế của mình và cạnh tranh với nhau về
tầm ảnh hưởng trong khu vực cũng như trên thế giới. Trước hết phải kể đến
Trung Quốc, nước này không chỉ muốn khẳng định vị thế trong khu vực mà còn
muốn khẳng định vị thế đối trọng với siêu cường thế giới là Mỹ. Nhật Bản đang
muốn nâng tầm ảnh hưởng so với Trung Quốc trong khu vực Đông Bắc Á. Để
đạt được những mục tiêu đó, Nhật Bản cần có sức mạnh của một cường quốc có

tiếng nói nhất định trong cộng đồng quốc tế. Nước này đã và đang trên con
8


đường trở thành “một quốc gia bình thường” nên đã có những động thái chuẩn
bị cho việc sửa đổi Hiến pháp, phát triển quân đội”. Triều Tiên luôn muốn khẳng
định vị thế cường quốc quân sự của mình không chỉ trong khu vực mà còn cả
trên thế giới. Với mục đích đó, họ đã làm mọi cách để chứng tỏ với thế giới về
sự cường thịnh của nước mình trong lĩnh vực quân sự thông qua các vụ thử hạt
nhân và tên lửa. chính việc thử hạt nhân, tên lửa là nguyên nhân làm cho các
nước khác trong khu vực phải tăng cường phòng thủ bằng cách nâng cấp các
trang thiết bị quân sự. Chẳng hạn như Nhật Bản phải bố trí hệ thống phòng thủ
tên lửa để đối phó với mối đe dọa từ Triều Tiên còn Hàn Quốc thì phải tăng
cường sức mạnh quân sự cả không quân và hải quân...Thứ hai: tác động cả việc
Trung Quốc trỗi dậy và Mỹ trở lại Châu Á. Việc Trung Quốc trỗi dậy, chuyển từ
phương châm “ giấu mình ở thời” sang hành động quyết đoán hơn trong các vấn
đề quốc tế và khu vực, đặc biệt là chuyển từ thái độ ôn hòa sang cứng rắn trong
các tranh chấp về biển đảo với các nước Đông Á đã gây nên sự đe dọa an ninh
đối với các nước trong khu vực Đông Bắc Á. Bên cạnh đó sự trở lại Châu Á của
Mỹ cũng gây ra lo ngại cho các nước trong khu vực này. Đáp lại các nước và
vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á chủ trương gia tăng sức mạnh quân sự để đảm bảo
an ninh cho nước mình. Sự quay trở lại Châu Á của Mỹ đã tác động đến an ninh,
chính trị khu vực, làm gia tăng chạy đua quân sự Trung – Mỹ và tạo ra sự nghi
ngại, ngờ vực lẫn nhau giữa các nước trong khu vực, dẫn đến sự tăng cường sức
mạnh quân sự giữa các nước...Thứ ba: tình thế lưỡng nan về an ninh trong khu
vực: Khi một nước muốn đảm bảo an ninh cho mình đã tăng cường sức mạnh
quân sự và vô hình trung lại làm giảm an ninh các nước láng giềng. Để tăng khả
năng an ninh của mình thì các nước này lại tăng cường sức mạnh quân sự và sự
tăng cường này lại tạo ra nguy cơ cho các nước khác.
Trong bài: “ Gia tăng chi tiêu qân sự của Trung Quốc và chiến lược an

ninh của Nhật Bản từ 2010 đến nay in trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số
5-2018 của tác giả Trần Thùy Dương đã đề cập đến việc bước sang thế kỷ XXI,
với sự vươn lên mạnh mẽ, Trung Quốc đã thực sự khẳng định được vị trí và
9


quyền lực của mình trong khu vực. Trung Quốc vượt qua Nhật Bản ( năm 2010)
và nhiều nước lớn thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới sau Mỹ. Với sự
phát triển nhanh chóng về kinh tế, Trung Quốc gia tăng đầu tư, đẩy nhanh tốc độ
hiện đại hóa quân đội nhằm củng cố sức mạnh và tầm nhr hưởng của mình.
Trước sự gia tăng chi tiêu quân sự của Trung Quốc trong những năm gần đây,
Nhật Bản đã diều chỉnh chiến lược về an ninh để đối phó như: Ban hành dự luật
an ninh mới, tăng cường liên minh quân sự Nhật-Mỹ, mở rộng hợp tác an ninh
với các nước trong khu vực.
Trong bài: “ Nhật Bản trước sự lớn mạnh về kinh tế và quốc phòng của
Trung Quốc in trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số 7-2013 của tác giả Vũ
Thị Mai đã đề cập đến sự lớn mạnh của Trung Quốc trên nhiều phương diện từ
năm 1990 trở lại đây không khỏi làm Nhật Bản lo ngại, mặc dù Trung Quốc
luôn nhấn mạnh phương châm trỗi dậy hòa bình. Bài viết đề cập đến quan điểm
và sách của Nhật Bản trước sự lớn mạnh của Trung Quốc như tăng cường đàm
phán ký kết các hiệp định tự do thương mại, chú trọng cấp ODA ở những khu
vực có ý nghĩa chiến lược đối với Nhật Bản, cạnh tranh vị thế chính trị trong
khu vực với Trung quốc và tăng cường khả năng phòng thủ.
B.Các công trình nghiên cứu nước ngoài
Gần đây cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu của các học giả nước
ngoài về tình hình an ninh-chính trị Nhật Bản như: “The logic of Japanese
Politics” ( 1988) của tác giả Gral L. Curtis. Trong tác phẩm này, tác giả đã khai
thác và có những nhận định khách quan về nền chính trị Nhật Bản.
Cuốn sách “ The US-Japan security Alliance Regional Multilateraistm” (
2013) của các tác giả Takashi Inoguchi, G. Jonh Ikenberry, Yoichiro Sato đã tập

trung nghiên cứu liên minh Mỹ-Nhật từ đầu thế kỷ XXI. Các tác giả tập trung
vào nghiên cứu mối liên minh Mỹ-Nhật trong chiến lược toàn cầu và đối phó
những thách thức về an ninh trong khu vực Đông Bắc Á.
Tóm lại, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về Nhật Bản, về tình hình
An ninh - chính trị Nhật Bản và những thách thức trong khu vực Đông Bắc Á
nói riêng và quốc tế nói chung đã tạo động lực cho các nhà lập pháp và chính
10


phủ Nhật Bản từng bước tái vũ trang. Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu
về tái vũ trang Nhật Bản nhưng các công trình nghiên cứu về cơ sở pháp lý và
cơ sở quan hệ quốc tế của còn rất hạn chế, nếu có đề cập thì chủ yếu bằng các
bài viết riêng biệt. Có thể nhận thấy làm rõ cơ sở pháp lý và cơ sở quan hệ quốc
tế của tái vũ trang Nhật Bản để hiểu rõ hơn về chính sách đối nội, đối ngoại của
Nhật Bản, nhận diện xu thế và chiến lược phát triển của Nhật Bản. Từ đó có
những đề xuất với Việt Nam trong chính sách đối ngoại và hợp tác quốc tế với
Nhật Bản nói riêng, khu vực và thế giới nói chung. Vì vậy luận văn mạnh dạn
nghiên cứu và làm rõ vấn đề: Quá trình tái vũ trang Nhật Bản: Cơ sở pháp lý
và cơ sở quan hệ quốc tế.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu: Luận văn phân tích, chỉ ra quá trình tái vũ trang
của Nhật Bản từ sau năm 1945 trên cơ sở pháp lý, cơ sở quan hệ quốc tế của nhu
cầu bảo vệ độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia. Luận văn nghiên cứu để nhận
diện rõ hơn vấn đề tái vũ trang Nhật Bản, nhận diện khả năng, diễn biến của quá
trình tái vũ trang. Từ đó đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam trong mối
quan hệ với Nhật Bản, các nước trong khu vực ASEAN, các cường quốc cũng
như với tất cả các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn có nhiệm vụ trình bày những điểm nổi bật
của tình hình an ninh - chính trị khu vực Châu Á, đặc biệt là khu vực Đông Bắc Á,
nêu lên tình hình An ninh – chính trị của Nhật Bản từ sau chiến tranh Thế giới lần

thứ hai. Luận văn còn có nhiệm vụ trình bày những cơ sở pháp lý, cơ sở quan hệ
quốc tế, những mốc chính trong quá trình tái vũ trang của Nhật Bản…
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: “Quá trình tái vũ trang Nhật Bản:
cơ sở pháp lý và cơ sở quan hệ quốc tế”
Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Về mặt không gian: Luận văn nghiên cứu “Quá trình tái vũ trang của Nhật
Bản cùng với những cơ sở pháp lý và cơ sở quan hệ quốc tế chủ yếu từ sau chiến
tranh thế giới thứ 2 đến nay có tác động đến quyết định tái vũ trang của Nhật Bản”.
11


Về mặt thời gian: Luận văn nghiên cứu những cơ sở pháp lý, các mốc
chính thể hiện rõ cơ sở pháp lý, cơ sở quan hệ quốc tế, quá trình tái vũ trang
Nhật Bản từ sau chiến tranh Thế giới lần thứ II (1945) đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp Logic: Để thấy và làm rõ “Quá trình tái vũ trang Nhật Bản”
là một bước đi, một quá trình phù hợp với sự phát triển của lịch sử Nhật Bản .
Phương pháp lịch sử: Để nhìn thấy “Quá trình tái vũ trang Nhật Bản”
diễn ra trong bối cảnh an ninh, chính trị trên thế giới hết sức phức tạp, mang tính
phòng thủ…
phương pháp dự báo: Để dự báo xu hướng, triển vọng của vấn đề “ Quá
trình tái vũ trang Nhật Bản”, những tác động của nó đối với an ninh-chính trị
trong khu vực, trên thê giới và ngay chính Nhật Bản, đồng tthowif dự báo khả
năng cho sự hợp tác Việt Nam-Nhật Bản.
Phương pháp phân tích mô tả, so sánh và một số phương pháp khác: Để
làm rõ hơn cho diễn giải và cấu trúc đề tài…
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ mục đích, nhu cầu tái vũ trang của Nhật
Bản, đồng thời chỉ ra được quá trình đó như là một quá trình tất yếu trong mối

quan hệ quốc tế, nhận diện được chính sách Nhật Bản và khuyến nghị chi Việt
Nam
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và tìm
hiểu về tình hình an ninh – chính trị ở khu vực Đông Bắc Á.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết thúc, luận văn gồm 3 chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2. Vấn đề tái vũ trang Nhật Bản nhìn tư góc độ pháp lý và quan
hệ quốc tế
Chương 3. Một số nhận xét về quá trình tái vũ trang Nhật Bản và khuyến
nghị cho Việt Nam.
12


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
Luận văn lấy cơ sở từ chủ nghĩa Mác-Lê nin, kết hợp với việc sử dụng lý
thuyết của chủ nghĩa hiện thực trong nghiên cứu quốc tế làm cơ sở lý luận trong
nghiên cứu quá trình tái vũ trang của Nhật Bản trên phương diện cơ sở pháp lý
và cơ sở quan hệ quốc tế từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II đến nay.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1.Khái niệm tái vũ trang
Ở Việt Nam cũng như nhiều nươc trên thế giới, dù có cách gọi khác nhau
thì lực lượng vũ trang cũng đều được xác định là lực lượng chiến đấu của nhà
nước có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn
xã hội. Do tính chất nhiệm vụ đặc biệt, cho nên lực lượng này được hưởng
những chế độ đặc biệt. Nó được trang bị vũ khí cùng với những quyền hạn rất
lớn. Thông thường, ở các nước, dù khác nhau về hệ thống chính trị hay địa lý,
nhưng lực lượng vũ trang vẫn bao gồm những lực lượng chính là quân đội, công

an và dân quân. Có nhiều nước chỉ tính quân đội. Quân đội có nhiệm vụ bảo vệ
sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền của quốc gia, chống ngoại xâm. Công an có
nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự nội địa. Dân quân là lực lượng bán vũ trang,
thường được các quốc gia tổ chức như là một lực lượng dự phòng nhằm huy động
sức mạnh từ số đông quần chúng. Ngoài ra, còn một lực lượng nữa cũng nằm
trong lực lượng vũ trang là lực lượng an ninh, có trách nhiệm bảo vệ an ninh quốc
gia. Tùy theo tổ chức nhà nước mà các bộ phận này được đặt ở các cơ quan quản
lý khác nhau. Thông thường, quân đội được đặt dưới quyền điều động của Bộ
Tổng tham mưu (hay Hội đồng tham mưu liên quân), lực lượng an ninh do Ủy
ban An ninh Quốc gia điều động, còn cảnh sát thuộc quyền của Bộ Nội vụ.
Theo từ điển Hán Nôm: Tái: Tức là sự làm lại, trở lại
Theo từ điển Tratu.soha.vn: Vũ trang là trang bị vũ khí chiến đấu hay có
tính chất quân sự và có tính chất chiến đấu.
13


Theo Đào Minh Hồng, Lê Hồng Nghiệp đăng trên tạp chí Nghiên cứu quốc tế,
tái vũ trang là sự tham gia không ngừng tăng cường lực lượng vũ trang so với bên
khác để tạo ưu thế trong so của mình nhằm đảm bảo an ninh hay gây chiến tranh.
Tóm lại, dù cách định nghĩa như thế nào thì vũ trang cũng đều được hiểu
là sự trang bị vũ khí cho các lực lượng chiến đấu bảo vệ đất nước.
Như vậy có thể hiểu: “Tái vũ trang” là sự xuất hiện, trang bị trở lại các lực
lượng vũ trang cùng với phương tiện vũ khí, khí tài ở một nước hay lực lượng đã
bị giải giáp
1.2.2.Khái niệm: Cơ sở pháp lý
Theo thuvienphapluat.vn: Cơ sở pháp lý hay cũng có thể gọi là căn cứ pháp
lý. Được hiểu: Là cơ sở ban hành văn bản là văn bản pháp luật của cơ quan nhà
nước cấp trên đang có hiệu lực tại thời điểm ban hành văn bản đó, bao gồm: Văn
bản quy phạm pháp luật của cấp trên có thẩm quyền quy định về vấn đề thuộc đối
tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản; Văn bản quy phạm pháp luật của cấp trên

có thẩm quyền quy định về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan ban hành văn bản.
Còn theo luật sư Trần Văn Hợp: Pháp lý (juridique), xuất phát từ tiếng
La-tin “jus” nghĩa là các quy định của pháp luật.
Theo giải thích của Đại từ điển tiếng Việt thì “ pháp lý là căn cứ, là cơ sở
lý luận của luật pháp”( tr.1320 )
Như vậy có thể hiểu: cơ sở pháp lý là căn cứ có hiệu lực để các cơ quan
lập pháp ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.
1.2.3. Khái niệm: Quan hệ quốc tế
Có nhiều khái niệm khác nhau về quan hệ quốc tế (QHQT), trong đó có
một số khái niệm đáng chú ý như:
QHQT là mối quan hệ giữa các quốc gia có chủ quyền. Mọi quốc gia đều
có quyền quyết định tối cao và tự do. Các quốc gia không ở dưới một uy quyền
nào và đối nghịch với nhau, sử dụng quyền lực để thực hiện các mục tiêu và
thoả mãn các quyền lực của quốc gia mình. QHQT có thể bao gồm nhiều vấn đề
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

14


QHQT là tổng thể những mối quan hệ về chính trị, tư tưởng, luật pháp,
ngoại giao, quân sự giữa những quốc gia và hệ thống quốc gia với nhau, giữa
các giai cấp chính, các lực lượng tổ chức xã hội, kinh tế và chính trị chủ yếu
hoạt động trên trường quốc tế.
QHQT là hiện tượng xã hội, song là loại quan hệ xã hội có đặc điểm riêng
nảy sinh trong quá trình hoạt động của con người trong các hoạt động liên quan
đến môi trường quốc tế. QHQT này vượt khỏi biên giới quốc gia, có những thay
đổi và trở nên vô cùng phức tạp bởi trong môi trường quốc tế có những cơ chế
hoạt động và luật chơi hoàn toàn khác với cơ chế trong nọi bộ quốc gia[13].
Như vậy có thể hiểu QHQT là mối quan hệ giữa các quốc gia có chủ
quyền, các dân tộc, tôn giáo, đảng phái hay các cá nhân trong các lĩnh vực kinh

tế, văn hóa, xã hội, an ninh-chính trị trên phạm vi quốc tế.
1.3. Bối cảnh quốc tế, khu vực và Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ 2
1.3.1.Bối cảnh quốc tế.
Chiến tranh thế giới thứ hai(CTTG2) kết thúc, tình hình thế giới có những
chuyển biến to lớn, tác động tới quan hệ quốc tế, tác động tới từng nước, từng
khu vực và cả trật tự thế giới vừa được thiết lập.
Sau CTTG2, các nước châu Âu, Nhật Bản bị chiến tranh tàn phá nặng nề.
Trong bối cảnh Mỹ đang giảm thiểu hoạt động, Trung Quốc bành trướng và móc
nối với Nga, Nhật thì muốn tái khẳng định vị trí dẫn đầu châu Á của mình... tình
hình khu vực quả thật vô cùng phức tạp, chỉ cần sai một bước rất nhỏ là có thể
lại mắc vào một vòng xoáy bạo lực ngoài tầm kiểm soát. Đó là một nguy cơ hiện
hữu mà thế giới phải đối mặt. “Liên Xô bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bị tổn
thất lớn cả về người và của. Chỉ có Mỹ giàu lên nhanh chóng trong chiến tranh
(thu về 114 tỉ đô la Mỹ (USD) lợi nhuận do bán vũ khí và phương tiện chiến
tranh) và trở thành nước mạnh nhất về kinh tế trong khoảng 3 năm sau chiến
tranh thế giới thứ hai, Mỹ chiếm quá nửa tổng sản lượng công nghiệp của thế
giới tư bản (56,4% năm 1948). Mỹ là chủ nợ lớn nhất thế giới (riêng về vũ khí,
các nước đồng minh châu Âu đã nợ Mỹ 41,751 tỉ USD) và nắm trong tay một
lợi thế khiến các nước phải kiêng nể, e dè: độc quyền về bom nguyên tử.Trong
15


cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ chỉ có 30 vạn người chết (trong khi Liên
Xô là hơn 26,5 triệu người, và toàn thế giới là 56 triệu người), đất nước Mĩ lại
không bị chiến tranh tàn phá (vì mặt trận chính là chiến trường châu Âu bị tàn
phá lên tới 260 tỉ đô la, trong đó Liên Xô chiếm 49,3%)”.[47]
Sau chiến tranh, nước Mĩ đã trở thành nước giàu mạnh nhất, chiếm ưu thế
về mọi mặt trong thế giới tư bản chủ nghĩa. Có thể thấy rằng, Mĩ đã làm giàu
trên sự đổ nát của châu Âu và thế giới. Mỹ vượt trội hơn tất cả các nước về kinh
tế, quân sự và chính trị…Từ đây tham vọng làm bá chủ thế giới của Mỹ ngày

càng bộc lộ và đây cũng là cơ sở để Mỹ triển khai nhanh chóng kế hoạch của
mình trong một bối cảnh quốc tế và tương quan so sánh lực lượng hết sức thuận
lợi đứng cả về hai phía quan hệ: Mỹ với các nước trong khối đồng minh tư bản
chủ nghĩa; Mỹ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.Tuy nhiên, sức mạnh
và ưu thế của Mỹ không kéo dài được mãi, nó đã bị giảm sút tương đối từ những
năm 60 của thế kỷ XX trở đi, đặc biệt từ những năm 70 khi các nước tư bản
phục hồi và vươn lên nhanh chóng, trước hết là Tây Âu và Nhật Bản.Bị thiệt hại
trong CTTG2, Nhật Bản chẳng những mất hết thuộc địa mà nền kinh tế cũng
lâm vào tình trạng bị phá hủy hoàn toàn. Đất nước tiêu điều, các thành phố lớn
bị tàn phá nặng nề, Nhật Bản bị kiệt quệ về kinh tế, bị đè bẹp về quân sự, bị suy
sụp về tinh thần, bị thiệt hại lớn về người và của. Nhờ vào kế hoạch đầu tư của
Mĩ mà bước sang những năm 60 của thế kỷ XX, kinh tế Nhật Bản đã có bước
phát triển nhanh chóng, đuổi kịp và vượt các nước Tây Âu, vươn lên đứng thứ
hai (sau Mỹ) trong thế giới TBCN. Từ một địa vị chưa đáng kể trước chiến tranh
và rất nguy kịch trong những năm đầu sau chiến tranh, kinh tế Nhật Bản đã đạt
được những bước phát triển nhanh chóng vượt bậc mà dư luận phương Tây
thường suy tôn là “thần kỳ Nhật Bản”. Thực ra sự phát triển nhanh chóng vượt
bậc này của kinh tế Nhật Bản có những nguyên nhân khách quan, chủ quan của
nó, và sự thần kỳ này đã chứa đựng những mặt trái của nó mà từ đầu những năm
70 trở đi đã ngày càng bộc lộ rõ ràng. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng Nhật
Bản đã có những bước tiến hết sức kỳ diệu trong tất cả các lĩnh vực, khiến cả thế
giới phải kinh ngạc.
16


Trong CTTG2, hai cường quốc Xô – Mỹ từng là quan hệ đồng minh sau
chiến tranh quan hệ ấy nhanh chóng chuyển thành quan hệ đối đầu. Từ quan hệ đối
đầu giữa hai nước chuyển thành quan hệ đối đầu giữa hai phe – phe XHCN và
TBCN. Tuy nhiên, trong bối cảnh thế giới hai cực, quan hệ Xô – Mỹ, quan hệ giữa
hai phe, mặc dù mâu thuẫn, nhưng vẫn phụ thuộc và kiềm chế nhau, đều thực hiện

chiến lược phòng ngự, đều tránh đụng đầu trực tiếp với nhau. Vì thế, về cơ bản, hòa
bình thế giới được duy trì trong suốt thời kì chiến tranh lạnh và cả sau đó.
Giữa Liên Xô và Mĩ có những mâu thuẫn rõ ràng. Trong khi Liên Xô luôn
luôn làm hậu thuẫn cho phong trào cách mạng XHCN, cách mạng giải phóng dân
tộc và sự nghệp đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; ngược lại, Mĩ
luôn ra sức cấu kết, giúp đỡ các thế lực phản động chống phá cách mạng thế giới
với mưu đồ vươn lên vị trí thống trị thế giới. Thomas L. Friedman trong tác phẩm
của mình có nhan đề “Chiếc Lexus và cây ô liu” đã nhận xét khá chính xác về
mối quan hệ giữa hai cường quốc vốn là bạn bè và liên minh với nhau trong chiến
tranh, giờ lại là những đối thủ cạnh tranh của nhau: “Khi Mỹ trỗi lên từ sau
CTTG2, cưỡi trên lưng thế giới như một siêu cường vô địch, có trọng trách toàn
cầu và tham gia tranh giành quyền lực với Liên Xô…Bỗng nhiên, cả thế giới trở
thành sân chơi của Hoa Kỳ, và cả thế giới chỗ nào cũng quan trọng, vì mọi ngõ
ngách trên thế giới đều có sự tranh giành với Liên Xô”.. Có thể nói, trong hơn nửa
thế kỷ tồn tại của trật tự hai cực Ianta, một đặc điểm lớn của tình hình thế giới là
giữa Liên Xô và Mỹ, giữa hai phe vừa đấu tranh gay gắt với nhau lại vừa chung
sống hòa bình và hợp tác với nhau thông qua diễn đàn của tổ chức quốc tế Liên
Hợp Quốc. Việc Giáo sư Michael Mandelbau, môn Quan hệ đối ngoại, Đại học
Hopkins ví Chiến tranh Lạnh giống như môn vật Sumo của Nhật Bản đã khắc họa
chính xác mối quan hệ giữa hai siêu cường Xô – Mỹ: “Sẽ có hai anh béo đứng
trên đài, múa may lễ bái đủ đường, giậm chân huỳnh huỵch, nhưng rất ít khi chạm
vào nhau… cho tới cuối trận thì có chút ít xô đẩy và có một tay bị thua do bị đẩy
ra khỏi đài, nhưng rốt cuộc chẳng có anh nào chết cả”
Sau CTTG2 , sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở một loạt các nước
Đông Âu, Châu Á và khu vực Mỹ Latinh. Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc,
17


dân chủ nhân dân, một loạt các nước đã tuyên bố đi lên chủ nghĩa xã hội cùng với
Liên Xô hợp thành một hệ thống XHCN hùng mạnh. Những thành tựu xây dựng

chủ nghĩa xã hội trong những năm 50 - 60 đã thu hút sự chú ý của thế giới và tác
động tới chiều hướng phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Ảnh hưởng của
chủ nghĩa xã hội ngày càng lớn, chủ nghĩa xã hội là chỗ dựa tin cậy của phong
trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa
tư bản không còn là một hệ thống duy nhất chi phối nền chính trị thế giới.
Tuy vậy, tình hình trên làm cho Mĩ và các nước đồng minh không thể
không tính đến việc hạn chế sự phát triển của chủ nghĩa xã hội trong chiến lược
của mình. Mục tiêu và âm mưu chủ yếu của kế hoạch thống trị thế giới của Mĩ là
tìm cách ngăn chặn và tiêu diệt hệ thống XHCN. Với chính sách “ngăn chặn”,
Mĩ định bao vây quân sự, kinh tế Liên Xô, hi vọng rằng Liên Xô sẽ bị suy yếu,
kiệt quệ rồi đi đến chỗ tự tiêu diệt, và ở các nước Đông Âu, giai cấp tư sản sẽ có
điều kiện lên nắm chính quyền, thiết lập nền thống trị TBCN. Ở Đức cũng như ở
Triều Tiên, Mĩ không chỉ muốn ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa cộng
sản mà còn muốn cấu kết, nâng đỡ các thế lực phản động ở hai nước này để tiến
tới tiêu diệt lực lượng cách mạng và xâm lược, thống trị toàn nước Đức và toàn
nước Triều Tiên. Trung Quốc là nơi mà Mĩ đã bỏ công sức nhiều nhất trong thời
kỳ từ 1947-1949, hi vọng rằng sẽ tiêu diệt lực lượng cách mạng và đặt được nền
thống trị trên lục địa có dân số khoảng 700 triệu người.
Mặc dù đã có nhiều thủ đoạn khác nhau nhưng âm mưu và hi vọng của Mĩ
đã hoàn toàn bị phá sản trong giai đoạn này, hệ thống XHCN trên thế giới không
những không bị ngăn chặn mà còn được hình thành từ châu Âu sang châu Á và
ngày càng phát triển mạnh mẽ. Liên Xô không bị suy yếu và kiệt quệ mà trái lại
còn hùng mạnh và vững chắc hơn trước. Năm 1949, Liên Xô đã chế tạo thành
công bom nguyên tử, khiến ưu thế độc quyền bom nguyên tử của Mĩ bị phá sản.
Ở Đông Âu, trong những năm 1947-1949, nhân dân các nước Anbani, Ba Lan,
Bungari, Hunggari, Nam Tư, Rumani, Tiệp Khắc đã lần lượt hoàn thành công
cuộc cách mạng dân chủ nhân dân và bắt đầu bước bào thời kỳ quá đô tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, sự thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Đức(7-1018



1949) và Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên (21-9-1948) là đòn đánh mạnh
vào hệ thống tư TBCN thế giới, làm thất bại nặng nề âm mưu “ngăn chặn” và
thống trị của Mĩ ở hai nước này. Tháng 10 năm 1949, nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa ra đời, đánh dấu hệ thồng XHCN đã được hình thành và làm cho lực
lương so sánh trên thế giới thay đổi có lợi cho chủ nghĩa xã hội. Với thắng lợi của
cách mạng Trung Quốc, cuộc đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt trên phạm vi
quốc tế cho sự hình thành hệ thống XHCN thế giới đã thắng lợi và “chính sách
ngăn chặn”, chống lại sự hình thành hệ thống XHCN thế giới của Mĩ đã bị thất bại.
Sau CTTG2, cao trào giải phóng dân tộc diễn ra sôi nổi ở khắp các lục địa
của Á, Phi, Mỹ La Tinh, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân bị tan vỡ từng
mảng lớn và đến giữa những năm 60 đã sụp đổ về cơ bản. Hơn 100 quốc gia dân
tộc trẻ tuổi ra đời, ngày càng tham gia tích cực vào đời sống chính trị thế giới. Bộ
mặt hành tinh thay đổi to lớn. Trong chiến lược của hai cường quốc Xô – Mĩ và hai
hệ thống không thể không tính đến lực lượng này.
Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật bùng nổ vào những năm 40 của thế
kỷ XX và diễn ra mạnh mẽ sau đó. Cuộc cách mạng này đã đưa lại những tiến
bộ nhảy vọt, những thành tự kì diệu, những tác động tích cực và những hậu quả
của nó rất to lớn. Những nước nào đi sâu vào cách mạng khoa học - kỹ thuật, tận
dụng những thành tựu của nói thì vươn lên mạnh mẽ, tiếng nói của họ trong
quan hệ quốc tế ngày càng có trọng lượng hơn. Những nước bỏ lỡ cơ hội tận
dụng thành tựu của cách mạng khoa học – kỹ thuật, thì tụt hậu, hình bóng của
các nước ấy trong quan hệ quốc tế cũng trở nên mờ nhạt. Cuộc cách mạng khoa
học- kỹ thuật, hay còn gọi là cách mạng kỹ thuật lần thứ hai có những điểm khác
biệt so với cuộc Cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất, vì có nội dung phong phú hơn
và phạm vi rộng lớn hơn nhiều, nó diễn ra trong lĩnh vực khoa học cơ bản gồm
toán học, vật lí học, hóa học, sinh vật học. Trải qua nửa thế kỷ, nhất là giữa thập
niên 70 của thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đã thu được những
thành tựu to lớn và kỳ diệu trên nhiều lĩnh vực. Trong đó, sự kiện đáng chú ý, có
ảnh hưởng trực tiếp đến hai khối quân sự được hình thành sau này là năm 1945,
19



bom nguyên tử đã ra đời ở Mĩ, có thể dẫn tới những sự tàn phá không lường hết
được của đất nước này đối với hòa bình thế giới. Sau khi phá vỡ thế độc quyền
về bom nguyên tử của Mĩ năm 1949 thì năm 1954, Liên Xô xây dựng nhà máy
điện nguyên tử đầu tiên trên thế giới, mở đầu thời đại sử dụng năng lượng
nguyên tử vào mục đích hòa bình.
Như vậy, Chiến tranh lạnh gần như là một hệ quả tất yếu của tình hình đối
đầu, căng thẳng giữa hai phe thời kỳ sau CTTG2. Cuộc Chiến tranh lạnh (hình
thành năm 1947 và kéo dài đến 1989) đã có tác động mạnh mẽ tới chính sách
đối nội, quan hệ đối ngoại và mậu dịch của hầu hết mọi nước trên thế giới.
Chiến tranh lạnh “không tạo lập tất cả nhưng lại định hình rất nhiều thứ”. Trong
chiến tranh lạnh, có thể nhận thấy: cán cân lực lượng giữa Hoa Kỳ và Liên bang
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết. Trong quan hệ đối ngoại, không một siêu
cường nào muốn xâm nhập vào vùng ảnh hưởng của một siêu cường khác; trong
kinh tế, những nước kém phát triển chú tâm vào việc phát triển những ngành
công nghiệp quốc gia của riêng họ, các nước đang phát triển chú tâm tăng
trưởng trên cơ sở xuất khẩu, các nước xã hội chủ nghĩa tập trung thắt lưng buộc
bụng và phương Tây thì chăm chăm vào việc buôn bán có điều tiết. Cuộc chạm
chán giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giai đoạn hòa hoãn, không liên
kết hay cải tổ. Chiến tranh lạnh có khuynh hướng chuyển dịch về dân số : di cư
từ Đông sang Tây bị bức màn sắt ngăn trở, nhưng di cư từ miền Nam lên phía
Bắc thì đều đặn hơn. Trên phương diện quốc tế, chiến tranh lạnh chia thế giới
được chia thành: phe XHCN, phe TBCN và phe trung lập; nước nào cũng thuộc
về một trong những phe này. Chiến tranh lạnh sinh ra những công nghệ chủ đạo
như: vũ khí hạt nhân và cuộc cách mạng công nghệ lần thứ hai … “Và sau cùng,
Chiến tranh lạnh tạo ra mối lo riêng: “sự hủy diệt hạt nhân”. Không chỉ có vậy,
Thomas L. Friedman đã đúng khi khẳng định: “Trước hết, nói về Chiến tranh lạnh
là nói đến sự chia cắt. Thế giới bị chia cắt ngang dọc thành nhiều cánh đồng vụn
vặt manh mún”.[47]


20


Những năm cuối của thế kỷ XX, tình hình thế giới có nhiều chuyển biến
quan trọng. Cùng với quá trình “ toàn cầu hóa” ngày càng sâu rộng thì xu thế đối
thoại, hợp tác trở thành dòng chảy chính trong quan hệ quốc tế. Bên cạnh đó,
nhân loại cũng được chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng làm biến đổi mọi mặt
đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa…của thế giới.
Trước hết là Tại khu vực Trung Đông, cuộc chiến tranh I-rắc kết thúc với sự
thắng lợi của Mỹ và các nước đồng minh. Đồng thời với đó Liên xô cũng rút quân
khỏi Apganixtan đã củng cố thêm vai trò của Mỹ trong khu vực. Mặc dù giữa người
Palextin và Ixraen đã từng ký hiệp định hòa bình nhưng các cuộc xung đột kéo dài ở
khu vực bờ Tây sông Jordan và Jerujarem… vẫn thường xuyên xảy ra xung đột và là
điểm nóng không chỉ của khu vực mà còn là của cả thê giới. Trên thực tế, Mỹ chỉ
muốn công nhận Ixaren là một qốc gia độc lập hơn là một Hiệp định hòa bình với
người Palestin. Trong khi đó, người Nga cũng muốn tiếp tục sự hiện diện trong khu
vực, do đó vẫn rất nỗ lực tìm kiếm giải pháp hòa bình cho người ả rập.
Đặc biệt sự xích lại gần nhau giữa các nước lớn, giữa các nươc phương
Đông và Tây như Trung Quốc, Liên Xô, Đức,
Nước Đức tái thống nhất ( 1990), Liên Xô sụp đổ ( 1991) dẫn đến trật tự
thế giới hai cực bị tan rã. Từ đây Mỹ trở thành một siêu cường duy nhất trên thế
giới. Sự tan rã của nước Nga và hệ thống các nước XHCN không chỉ là sự chấm
hết cho cuộc chiến ý thức hệ và sự giảm nhiệt trong cuộc chạy đua vũ trang giữa
phe TBCN và XHCN. Sự tan rã của hệ thống các nước XHCN ở Liên Xô và
Đông Âu đã đặt dấu chấm hết cho chiến tranh lạnh hao người, tốn của kéo dài từ
sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Có thể nhận thấy: CTTG 2 đã làm cho tình hình quốc tế có những biến chuyển
sâu sắc, định hình cho quan hệ quốc tế và trật tự thế giới mới trong giai đoạn sau.
1.3.2. Bối cảnh khu vực Châu Á

Sau CTTG 2, khu vực Châu Á có nhiều biến chuyển quan trọng. “Thời kỳ
phong trao giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ và lan rộng ở Đông Nam Á,
Nam Á và Đông Bắc Á, bước đầu làm xụp đổ chủ nghĩa thực dân cũ”[39,tr.314]
21


Từ những năm 1960, Châu Á có bước phát triển đáng kinh ngạc trong nền
kinh tế thế giới. Châu Á cuối cùng lại bị các nước khác bắt kịp do cuộc khủng
hoảng toàn cầu bắt nguồn từ Mỹ vào tháng 9/2008. “Năm 2007, châu Á còn chiếm
tới 25% GDP thế giới, tức tăng gấp đôi so với năm 1960. Năm 2009, châu Á ngang
ngửa với hai khu vực lớn khác của thế giới. Bắc Mỹ (Canada, Mexico, Mỹ, 31%
GDP thế giới) và liên minh châu Âu (27 quốc gia thành viên, 30%)”.[80]
Châu Á là khu vực năng động nhất nhưng không đủ tạo ảnh hưởng để kéo
theo tất cả các nền kinh tế khác trên hành tinh. Chính nhờ các luồng trao đổi
thương mại xuyên thái Bình Dương từ những năm 1975 cho đến khi kết thúc
chiến tranh Việt Nam, đã giúp châu Á có vị trí cao hơn châu Âu và các luồng
trao đổi thương mại xuyên Đại Tây Dương. Do đó, chính những lượng hàng hải
giữa Bắc Mỹ (Mỹ, Canada, Mexico) và châu Á đã vượt lên trên các luồng giao
dịch xuyên Đại Tây Dương (giữa Bắc Mỹ và châu Âu) còn các luồng giao dịch
xuyên lục địa (giữa châu Á và châu Âu) đã vượt trên các luồng giao dịch lịch sử
xuyên Đại Tây Dương. Còn một nghịch lý khác ; đó là hai quốc gia lớn “bại
trận” là Nhật Bản đã vượt qua Đức khoảng năm 1970 hai nước này trở thành đầu
tàu, được tiếp sức bởi các “con rồng” (Hongkong Đài Loan, Hàn Quốc,
Singapour), và theo sau các con rồng này là các “con hổ” đi nối duôi nhau như
(Thái Lan, Malaisia, Indonesia, Philippin) trong những năm 1980. Ở khu vực
châu Á, được chứng kiến sự lớn mạnh của hàng loạt quốc gia và khu vực như:
Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapo, Indonesia, Nga, …về tốc độ phát
triển kinh tế, khoa học kỹ thuật, an ninh- quốc phòng…Bên cạnh đó, Hàn Quốc,
Hồng Công, Đài Loan. Đặc biệt là những thành tựu to lớn của Nhật Bản và
Trung Quốc từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX.

Đối với Trung Quốc, một mặt muốn khẳng định chủ quyền với quần đảo
Senkaku/Điếu Ngư, một mặt lo ngại Seoul và Tokyo xích lại gần nhau. Mỹ cô
lập Triều Tiên về đối ngoại, Bắc Kinh chưa đủ tự tin cắt cung cấp dầu thô. An
ninh và ổn định ở Đông Bắc Á liên quan đến một sự cân bằng giữa sự răn đe lẫn
nhau của liên minh quân sự Nhật-Mỹ và các khả năng quân sự của cá nhân Nga
22


và Trung Quốc. Hai nhân tố về mặt lý thuyết có thể làm xói mòn sự ổn định này,
cụ thể là những sự thay đổi trong tiềm lực quân sự của bất kỳ thành phần nào
trong 3 thành phần này (Nhật-Mỹ, Trung Quốc và Nga), và một sự trầm trọng
thêm của các xung đột khu vực mà trong đó họ có thể bị dính líu vào một cách
không chủ tâm. Nhân tố đầu tiên bao hàm, trên hết, một sự gia tăng rõ rệt trong
sức mạnh quân sự của Trung Quốc, cũng như là một liên minh Nhật-Mỹ được
củng cố để đáp lại, và các cuộc diễn tập quân sự được tăng cường (phần lớn
mang tính biểu tượng) và việc xây dựng quân đội ở vùng Viễn Đông của Nga.
Nhân tố thứ hai này liên quan đến một tranh chấp về các lớp trầm tích dầu lửa
ngoài khơi ở Biển Đông và ở biển Hoa Đông. Mỹ có thể bị kéo vào tranh chấp
này, do nước này cam kết bảo vệ Nhật Bản trong trường hợp xảy ra một cuộc
xung đột quân sự với Trung Quốc, theo hiệp ước an ninh năm 1951.
Tại Nhật Bản, sự trỗi dậy kinh tế của Trung Quốc lần đầu tiên được nhìn
nhận với thái độ ghen tị và sợ hãi về vị thế kinh tế của nước này. Hiện nay, đang
có những mối quan ngại về an ninh quân sự của nước này. Sức mạnh của Trung
Quốc đang gia tăng nhanh chóng trên mọi lĩnh vực.
“Năm 2010, Trung Quốc đã trở thành cường quốc kinh tế lớn thứ 2 thế
giới về GDP, vượt qua Nhật Bản, nước đã nắm giữ vị thế này trong suốt 40 năm.
Đã qua rồi những ngày tháng khi tổng GDP của Mỹ và Nhật Bản chiếm tới 40%
nền kinh tế toàn cầu. Hiện nay, tổng GDP của Mỹ và Trung Quốc chiếm hơn
30% GDP toàn cầu (lần lượt là 17,7% và 12,7%). Cả hai nước đã bỏ lại phần
còn lại của thế giới ở xa phía sau, và trong khi đó Nhật Bản có GDP lớn thứ 3

thế giới, ở mức 6,1% trong một tình thế khác biệt”.[80]
Trong Hiến pháp Nhật Bản đã nêu: Mối đe dọa Trung Quốc, dù có thực
hay là được giả định, tạo ra một vấn đề an ninh lớn ở Đông Á cho thập kỷ tới, có
nghĩa là, sự biến đổi của Nhật Bản thành một trung tâm sức mạnh quân sự tự lực
mạnh mẽ. Cho đến giờ, việc Nhật Bản từ chối một vai trò quân sự độc lập, được
đưa vào Điều 9 của Hiến pháp Nhật Bản, đã là một trong những nhân tố chính
tăng cường hòa bình, an ninh, và ổn định ở Đông Á. Nhiều điều đã thay đổi theo
23


×