Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

TIỂU LUẬN VỀ HỆ TIẾT NIỆU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 24 trang )

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU

I. Lý do chọn đề tài
Các hoạt động phối hợp của hệ tiêu hoá, hệ tim mạch, hệ hô hấp và hệ tiết
niệu giúp ngăn chặn sự phát triển của các vấn đề “ô nhiễm” ở bên trong cơ thể.
Đường tiêu hoá hấp thu các chất dinh dưỡng từ thức ăn, và gan điều chỉnh nồng độ
chất dinh dưỡng ở trong máu lưu thông. Hệ thống tim mạch cung cấp các chất dinh
dưỡng này cùng với oxy từ hệ hô hấp đến các mô ngoại biên. Khi máu rời khỏi các
mô này, nó mang theo carbon dioxide và các sản phẩm chất thải khác được tạo ra bởi
các hoạt động tế bào đến các vị trí bài tiết. Carbon dioxide được loại bỏ ở phổi, hầu
hết các sản phẩm chất thải hữu cơ cùng với nước dư thừa và chất điện giải được loại
bỏ và bài tiết nhờ hệ tiết niệu, đó là hệ các cơ quan quan trọng trong việc bài tiết nước
tiểu, chất tan và sự đóng bóp của thận trong hệ bài tiết là to lớn nhất.
Hệ tiết niệu cũng có một số chức năng cần thiết khác ngoài các chức năng nên
trên mà người ta thường bỏ qua:








Điều chỉnh thành phần ion trong máu của Na +, K+, Ca++,…và các ion
khác bằng cách kiểm soát lượng ion này bị mất trong nước tiểu.
Điều chỉnh thể tích máu: thận giữ lại hoặc thải nước qua nước tiểu.
Điều chỉnh huyết áp: tiết ra enzyme renin, tăng renin sẽ tăng huyết áp.
Điều chỉnh pH của máu.
Bảo tồn các chất dinh dưỡng có giá trị bằng cách ngăn chặn sự bài tiết


của chúng trong nước tiểu.
Loại bỏ các chất thải hữu cơ, đặc biệt là các chất thải nitơ như urea và
acid uric, các chất độc và thuốc.
Tổng hợp calcitriol, một dẫn xuất hormone của vitamin D3 kích thích
sự hấp thụ ion canxi bởi biểu mô ruột và hỗ trợ gan trong giải độc chất
độc.

Tất cả các hoạt động hệ thống tiết niệu được điều chỉnh cẩn thận để duy trì
thành phần hòa tan và nồng độ của máu trong giới hạn mà cơ thể chấp nhận được.
Bất kì gián đoạn nào trong hoạt động của các cơ quan thực hiện những chức năng
này sẽ có ảnh hưởng đến cơ thể ngay lập tức và có khả năng gây tử vong.

1


Vì vậy, “Tìm hiểu về hình thái, giải phẫu của các bộ phận trong hệ tiết niệu”
là rất cần thiết, để khi cơ thể có bệnh ta có thể phát hiện kịp thời và chuẩn đoán
chính xác cơ quan nào trong hệ bị tổn thương để có thể kịp thời chữa trị.
II. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu khái quát về hệ tiết niệu.
Mô tả vị trí, kích thước, hình thể ngoài, hình thể trong và cấu tạo liên quan
đến thận, của các đoạn niệu quản, niệu đạo và bàng quang.
Tìm hiểu về các đặc điểm giải phẫu của các bộ phận trong hệ tiết niệu.
III. Giới hạn đề tài
Chỉ tiến hành tìm hiểu hình thái, giải phẫu của các bộ phận trong hệ tiết
niệu.
Các bộ phận trong hệ tiết niệu: thận, niệu quản, bàng quang, niệu đạo.
IV. Ý nghĩa đề tài
Tìm hiểu về hình thái, giải phẫu của các bộ phận trong hệ tiết niệu giúp tổng
hợp và đóng góp một lượng kiến thức cho y học. Từ đó có thể ứng dụng để phát

hiện và tìm cách chữa trị những bệnh có liên quan đến hệ tiết niệu.
Hình thành các kiến thức cơ bản về hệ tiết niệu cho người đọc.
Người Việt Nam ta uống hơn 4 tỉ lít bia mỗi năm và số người hút thuốc lá
hơn 15 triệu người, tác động do uống bia và hút thuốc có ảnh hưởng đến thận rất
nhiều. Do vậy, thông qua đề tài này có thể nói lên tầm quan trọng của thận nói
riêng, hệ tiết niệu nói chung đến sức khoẻ của con người. Nhờ vậy, mọi người sẽ
bỏ dần các thói quen xấu ảnh hưởng tới thận và thường xuyên thực hiện các thói
quen tốt để bảo vệ sức khoẻ của chính mình.

2


B. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
I. Nội dung
1. Khái quát về hệ tiết niệu.
2. Thận.
2.1 Giải phẫu hình thái ngoài của thận.
2.2 Giải phẫu mặt cắt của thận.
2.3 Sự cung cấp máu cho thận.
2.4 Phân bố dây thần kinh ở thận.
2.5 Mô học của thận.
2.6 Giới thiệu về cấu trúc và chức năng của nephron.
2.7 Tiểu cầu thận.
2.8 Ống lượn gần.
2.9 Nephron.
2.10 Ống lượn xa.
2.11 Hệ thống thu thập.
3. Cấu trúc vận chuyển, lưu trữ và loại bỏ nước tiểu.
3.1 Niệu quản
3.2 Mô học của niệu quản

3.3 Bàng quang.
3.4 Mô học của bàng quang.
3.5 Niệu đạo.
3.6 Mô học của niệu đạo.
II. Phương pháp
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
Phương pháp nghiên cứu và tổng hợp lý thuyết.
Phương pháp kế thừa và tham khảo những tài liệu đã có liên quan đến nội
dung nghiên cứu.
Phương pháp sử dụng máy tính để soạn thảo văn bản.

3


C. KẾT QUẢ TIỂU LUẬN
I. Khái quát về hệ tiết niệu.
Hệ tiết niệu gồm có thận, niệu quản, bàng quang, và niệu đạo. Các cơ quan
của hệ tiết niệu nằm ở sau hay dưới phúc mạc.

Thận
Niệu quản

Tuyến thượng thận
Động mạch thận trái
Tĩnh mạch chủ sau

Bàng quang

Động mạch chủ sau


Niệu đạo

Hình 1. Khái quát về hệ tiết niệu
(Martini, F.H, Timmons, M.J., Tallitsch, R.B., 2012)
Nước tiểu do thận bài tiết ra được tập trung về bể thận rồi được niệu quản
dẫn xuống bàng quang, khi bàng quang đầy, nước tiểu sẽ được đẩy ra ngoài qua
niệu đạo.
II. Thận.
Thận gồm một đôi màu đỏ, hình hạt đậu, nằm ngay trên eo giữa phúc mạc và
thành sau của bụng. Hai thận đối xứng nhau qua cột sống, ngang đốt ngực 11 đến
đốt sống thắt lưng 3. Thận phải nằm thấp hơn thận trái một chút, và được đóng gói
bởi lớp đệm mềm của mô mỡ. Sự sắp xếp này ngăn chặn sự xóc nảy tồn tại hàng
ngày do sự xáo trộn của thận.

4


Cơ hoành
Thận trái
Động mạch và
tĩnh mạch thận

Tuyến thượng thận
Xương sườn 11 và 12
Thận phải
Đốt sống thắt lưng 3
Niệu quản
Tĩnh mạch chủ dưới

Mào xương chậu

Động mạch chủ
Bàng quang
Niệu đạo

Hình 2. Vị trí của thận và các cấu trúc khác của hệ tiết niệu.
(Martini, F.H, Timmons, M.J., Tallitsch, R.B., 2012)
Nếu các sợi treo căng, hoặc hàm lượng chất béo cơ thể suy giảm, làm giảm
số lượng lớp đệm mô mỡ, thận có thể trở nên dễ bị tổn thương hơn đối với các
chấn thương. Mặt trước thận nhẵn bóng còn mặt sau thì sần sùi. Phía trên mỗi quả
thận có tuyến thượng thận, là một tuyến nội tiết.
1. Giải phẫu hình thái ngoài của thận.
Thận của thai có hình nhiều múi, ở người trưởng thành đôi khi thận cũng có
hình múi do kém phát triển. Một thận người trưởng thành điển hình có chiều dài
10-12cm, rộng 5-7 cm và dày 3cm. Khối lượng khoảng 135-150g.
Thận có một bờ lồi, một bờ lõm và được bao bọc bởi lớp xơ. Ở bờ lõm có
một chỗ lõm sâu gọi là rốn thận, rốn thận là nơi đi vào của động mạch thận, đi
ra của tĩnh mạch thận, mạch bạch huyết và niệu quản. Bao xơ có lớp trong và
lớp ngoài, bao quanh là một lớp bao mỡ, một lớp liên kết sợi bao bọc quanh bao
mỡ của thận và tuyến thượng thận gọi là mạc thận.

5


Mặt

Mặt phẳng ngang

Mặt trước
Ruột già
Động mạch

chủ bụng

Hướng nhìn

Động mạch và
Tĩnh mạch
tĩnh thận
mạch thận
Rốn
Mạcchủ
thận
dưới
Màng bụng
Bao mỡ
Vỏ thận
Thận phải

Thận trái
Lách
Xương sườn
Cơ vùng
thắt lưng
Mặt sau

Hình 3. Vị trí của thận (Tortora va Derrickson, 2009).
2. Giải phẫu mặt cắt của thận.
Bên trong của mỗi quả thận chứa vỏ thận, tủy thận và bể thận. Vỏ thận, có
dạng hạt, màu nâu đỏ, là lớp ngoài của thận. Vỏ thận tiếp xúc với bao xơ. Tủy
thận nằm bên trong vỏ thận và màu sẫm hơn. Tuỷ thận bao gồm 6 -18 khối hình
nón hoặc hình tam giác riêng biệt, được gọi là tháp thận. Tháp thận có đáy

hướng về vỏ thận, đỉnh hướng về bể thận. Đỉnh của tháp thận được gọi là gai
thận (nhú thận), tháp thận thường nhiều hơn nhú thận. Trên mỗi nhú thận có
nhiều lỗ nhỏ (từ 15 – 20 lỗ), đó là lỗ của các ống góp mở vào đài thận.
Các tháp thận liền kề được phân cách bằng các dải mô vỏ não, được gọi là
cột thận. Các cột có kết cấu chi tiết rõ ràng, tương tự như của vỏ não. Một thùy
thận có chứa một tháp thận, khu vực nằm trên của vỏ thận, và các mô liền kề
của các cột thận.

Vỏ thận
Tuỷ thận

6


Lớp trong bao xơ

Tháp thận
trong vùng tuỷ

Xoang thận
Mỡ trong xoang thận
Bể thận
Rốn thận
Nhú thận
Niệu quản

Đài thận nhỏ
Đài thận lớn
Thuỳ thận
Cột thận

Vỏ thận

Hình 4. Cấu tạo của thận (Martini, F.H, Timmons, M.J., Tallitsch, R.B., 2012)
3. Sự cung cấp máu cho thận.
Thận nhận 20-25% tổng hiệu suất của tim. Trong một người bình thường,
khoảng 1200 ml máu chảy qua thận mỗi phút. Mỗi quả thận nhận máu từ động
mạch thận bắt nguồn từ động mạch chủ bụng.
Tĩnh mạch
thượng thận trái Tuyến thượng thận trái
Thận trái
Động mạch thận trái
Tĩnh mạch thận trái
Động mạch
Niệutràng
quảntrên
trái
màng treo
Động mạch chủ bụng
Động mạch
và tĩnh mạch sinh dục
Hình 5. Các động mạch, tĩnh mạch ngoài thận
(Martini, F.H, Timmons, M.J., Tallitsch, R.B., 2012)
Động mạch thận xuất phát từ trong động mạch chủ bụng, ngay dưới động
mạch mạc treo tràng trên. Động mạch thận phải dài hơn và hơi thấp hơn động
mạch thận trái. Đối chiếu cột sống, nguyên uỷ của động mạch thận ở khoảng
7


ngang thân đốt sống thắt lưng I. Mỗi động mạch nằm ngay sau tĩnh mạch tương
ứng.

Khi tới gần rốn thận, mỗi động mạch thận chia làm 2 động mạch: nhánh
trước và nhánh sau. Các nhánh động mạch này thường chia ra khoảng 5 nhánh
động mạch nhỏ đi vào xoang thận, một nhánh đi ở phía trên thận, cách nhánh
còn lại đi ở phía dưới bể thận. Các nhánh động mạch khi vào xoang thận sẽ
cung cấp máu cho từng vùng mô thận phân riêng biệt gọi là phân thuỳ thận.
Các nhánh của động mạch thận ở phía trước cung cấp máu cho một khu rộng
hơn các khu ở phía sau. Giữa hai khu có một ít mạch máu hơn gọi là đường
Hyrtl. Đường này là một đường cong, cách bờ ngoài thận về phía sau độ 1cm.
Tĩnh mạch thận bắt nguồn từ nhu mô thận, các tĩnh mạch tập trung thành
tĩnh mạch lớn dần rồi cuối cùng thành tĩnh mạch thận đổ vào tĩnh mạch chủ
dưới, không có nhánh tĩnh mạch.
Tĩnh mạch gian tiểu thuỳ
Động mạch gian thuỳ
Động mạch phân nhánh
Động mạch thượng thận
Động mạch thận
Tĩnh mạch thận

Tĩnh mạch gian thuỳ

Động mạch cung
Tĩnh mạch cung

Hình 6. Động mạch và tĩnh mạch ở bên trong thận
(Martini, F.H, Timmons, M.J., Tallitsch, R.B., 2012)
4. Phân bố dây thần kinh ở thận.
Thân lang thang trước
Thân lang thang sau
Thần kinh tạng ngực lớn


8


Các hạch tạng và đám rối
Thần kinh tạng ngực bé
Hạch mạc treo tràng trên
Thần kinh tạng ngực bé nhất
Hạch chủ thận
Đám rối thận và hạch
Thần kinh tạng
Cáclưng
nhánh
thắt
thứthận
hai
Đámvà
rốiniệu
gianquản
mạc trên
treo
Hạch mạc treo tràng dưới
Thân giao cảm và hạch
Nhánh niệu quản giữa
Đám rối hạ vị trên
Các thần kinh tạng cùng
Các nhánh thông xám
Các thần kinh hạ vị
Đám rối cùng
Các thần kinh tạng chậu
Đám rối hạ vị dưới (chậu)

với các quai quanh niệu quản
Đám rối trực tràng
Đám rối bàng quang
Đám rối tiền liệt
Hình 7. Các thần kinh ở thận, niệu quản, bàng quang
(Frank H.Netter, MD, 2007)
Bài tiết nước tiểu trong thận được điều chỉnh một phần thông qua quá trình
tự điều hòa, bao gồm các thay đổi phản xạ trong đường kính của các tiểu động
mạch cung cấp các ống sinh niệu, do đó làm thay đổi lưu lượng máu và tốc độ
lọc. Cả hai cơ chế nội tiết và thần kinh đều có thể bổ sung cho nhau hoặc điều
9


chỉnh phản ứng cục bộ. Thận và niệu quản đều phân bố các dây thân kinh bởi
thần kinh thận.
Cả hai nhánh của hệ thần kinh tự trị đều bảo vệ thận. Tuy nhiên, hầu hết các
sợi thần kinh tham gia là các sợi hậu hạch từ bụng và màng treo ruột dưới.
Mỗi dây thần kinh thận kích thích của mỗi thận ở rốn thận và theo các nhánh
của động mạch thận để tiếp cận các ống sinh niệu riêng biệt.
Mạch bạch huyết của thận vào các hạch cạnh động mạch chủ bụng gần nơi
xuất phát của động mạch và tĩnh mạch thận.
Đám rối thần kinh thận chạy vào thận và cho các nhánh nhỏ quay xung
quanh động mạch thận.
5. Mô học của thận.
Các nephron, các đơn vị cấu trúc và chức năng cơ bản của thận, chỉ có thể
xem được dưới kính hiển vi.
6. Giới thiệu về cấu trúc và chức năng của nephron.
Ống thận là đường ống dài, bắt đầu tại tiểu cầu thận, một buồng hình chén.
Tiểu cầu thận có đường kính khoảng 200 µm (0,2 mm). Nó chứa một mạng mao
mạch bao gồm khoảng 50 mao mạch liên kết.

Lọc qua các thành của tiểu cầu thận tạo ra một dung dịch không chứa protein
được gọi là lọc tiểu cầu. Từ tiểu cầu thận, dịch lọc đi vào một đường ống dài
được chia nhỏ thành các vùng có đặc điểm cấu trúc và chức năng khác nhau.
Các vùng chính bao gồm: Ống lượn gần, quai Henle, và ống lượn xa.

Ống lượn gần
Tiểu cầu thận
Ống lượn xa

10


Vỏ thận

Ống nối

Ống Nephron

Tuỷ thận

Ống góp
Ống nhú
Nhú thận
Đài thận nhỏ

Hình 8. Cấu tạo vi thể của thận.

(Martini, F.H, Timmons, M.J., Tallitsch, R.B., 2012)
Mỗi nephron đều đổ vào hệ thống thu thập. Một ống nối được nối với ống
lượn xa mang dịch lọc về phía ống góp lân cận. Ống góp rời khỏi vỏ thận và đi

vào trong tủy thận, mang chất lỏng về hướng ống nhú rồi chảy vào trong bể
thận. Ống sinh niệu từ các vị trí khác nhau có cấu trúc khác nhau. Khoảng 85%
của tất cả các nephron là thuộc vỏ thận, nằm gần như hoàn toàn bên trong bề
mặt vỏ của thận. Trong một nephron ở vỏ thận, vòng nephron là tương đối ngắn,
và tiểu động mạch xuất cung cấp máu cho một mạng lưới các mao mạch quanh
ống, bao quanh toàn bộ ống thận. Những mao mạch này dẫn vào các tiểu tĩnh
mạch mang máu đến các tĩnh mạch gian tiểu thuỳ. 15% còn lại của nephron,
được gọi là nephron cận tuỷ nằm gần với tủy thận, và chúng có các vòng
nephron dài mở rộng sâu vào các tháp thận. Vì chúng có số lượng nhiều hơn
nephron cận tuỷ, các nephron vỏ thực hiện hầu hết các chức năng tái hấp thu và
bài tiết của thận. Tuy nhiên, các nephron cận tuỷ tạo ra các điều kiện cần thiết
cho việc sản xuất nước tiểu đặc.

11


Hình 9. Nephron và ống thu thập (Frank H.Netter, MD, 2007)
Nước tiểu đến bể thận rất khác với dịch lọc được tạo ra ở tiểu thể thận. Một
quá trình thụ động thúc đẩy chuyển động qua hàng rào chỉ dựa trên kích thước
chất tan. Một bộ lọc có các lỗ rỗng đủ lớn để cho phép việc đi qua của các sản
phẩm chất thải hữu cơ nên không thể ngăn chặn việc đi qua của nước, các ion
và các phân tử hữu cơ khác, chẳng hạn như glucose, axit béo hoặc axit amin.
Các phân đoạn khác của nephron sẽ chịu trách nhiệm cho việc:




Tái hấp thu tất cả các chất hữu cơ có ích từ dịch lọc.
Tái hấp thu hơn 80 phần trăm nước trong dịch lọc.
Bài tiết vào các chất thải lọc đã bị bỏ qua bởi quá trình lọc.

12


7. Tiểu cầu thận.
Tiểu cầu thận có đường kính trung bình 150–250 µm, bao gồm nút mao dẫn
của cuộn mao mạch và phân đoạn mở rộng ban đầu của ống thận, một khu vực
được gọi là bao tiểu cầu, hoặc bao Bowman. Các cầu thận hình thành các bao
cầu thận giống như cách mà tim hình thành khoang màng ngoài tim. Bao
Bowan hình chén với hai lớp biểu mô: lớp trong và lớp ngoài.



Lớp ngoài là lớp thành được lót bởi lớp biểu mô lát đơn, và lớp này
liên kết với nội mô mao mạch bao gồm các mao mạch tiểu cầu thận.
Lớp trong là lớp tạng gồm các tế bào biểu mô phủ ngoài mao mạch.
Những tế bào chuyên biệt này là được gọi là các tế bào có chân.

Khoảng trống giữa hai lớp tế bào biểu mô thông với ống lượn gần gọi là
khoang Bowman, khoang Bowman phân tách lớp thành và tạng biểu mô. Mối
liên hệ giữa biểu mô ở lớp thành và biểu mô ở lớp tạng nằm ở cực mạch máu
của tiểu cầu thận. Tại cực mạch máu, các cuộn mao mạch cầu thận được nối với
mạch máu. Máu đến các mao mạch này thông qua các tiểu động mạch đi vào và
rời khỏi nhờ tiểu động mạch đi ra có đường kính nhỏ hơn tiểu động mạch đi
vào.
Cột mạch Biểu mô thành
Biểu mô tạng
Tiểu động mạch đi ra
Ống lượn xa

Ống

Khoang
Bowman
Tiểu động mạch đi vào

lượn gần
Cuộn mao mạch

Hình 10. Cấu tạo tiểu cầu thận
(Martini, F.H, Timmons, M.J., Tallitsch, R.B., 2012).
13


Quá trình lọc thực hiện ở tiểu cầu thận, đây là một quá trình thụ động, lọc
nước và các chất hoà tan trong nước từ huyết tương trong cuộn mao mạch sang
khoang bao tiểu cầu (bao Bowmann) qua lớp màng siêu lọc. Như vậy, muốn có
dịch lọc cần phải có hai yếu tố là màng siêu lọc và áp lực lọc.
Màng siêu lọc còn gọi là màng tiểu cầu thận. Màng có ba lớp gồm lớp tế bào
nội mô mao mạch, lớp màng đáy và lớp tế bào biểu mô phủ ngoài mao mạch (lá
trong của bao Bowmann)





Lớp tế bào nội mô mao mạch có hàng ngàn lỗ nhỏ gọi là các lỗ cửa sổ,
có đường kính 0,06 – 0,1 µm. Kích thước này cho phép tất cả các chất
hoà tan trong huyết tương thoát ra khỏi mao mạch cầu thận, nhưng
ngăn các tế bào máu và tiểu cầu.
Lớp màng đáy là một mạng lưới sợi collagen và proteoglycan. Lớp
màng đáy ngăn cản lọc các loại protein huyết tương lớn hơn.

Lớp tế bào nội mô phủ ngoài mao mạch là một lớp tế bào có tua, mỗi
tế bào có rất nhiều chân bám lên màng đáy. Giữa tua nhỏ có các khe
nhỏ. Trên siêu cấu trúc các lỗ này không phải thông trực tiếp mà trên
bề mặt chúng có một màng bịt siêu mỏng.

8. Ống lượn gần.
Ống lượn gần là phần đầu tiên của ống thận. Ống lượn gần nằm gần với cực
mạch của tiểu cầu thận, tại cực có hình ống của tiểu cầu thận. Lớp lót của ống
lượn gần bao gồm một biểu mô hình khối đơn giản có bề mặt đỉnh được phủ
bằng vi nhung mao, giúp tăng diện tích bề mặt cho việc tái hấp thu. Những tế
bào này chủ động hấp thụ các chất dinh dưỡng hữu cơ, các ion và protein huyết
tương (nếu có) từ dịch lọc khi nó chảy dọc theo ống lượn gần. Khi các chất tan
này được hấp thụ, các lực thẩm thấu sẽ kéo nước qua thành của ống lượn gần và
vào dịch mô kẽ xung quanh. Cực đáy tế bào có nhiều ti thể cao, xếp vuông góc
với màng đáy, còn bản thân màng tế bào tạo thành các nếp gấp. Trong bào
tương cực ngọn, có nhiều siêu ống phân bố ở các vi nhung mao, không bào ẩm
bào khá phổ biến. Sự hấp thụ đại diện cho chức năng chính của ống lượn xa.
Ống lượn gần hấp thu chủ động 60% ion natri, ion clorua và nước. Ống lượn
gần cũng tích cực tái hấp thu các ion kali, ion canxi, ion magie, ion bicarbonate,
ion phosphate và các ion sulfat.

14


Vỏ thận

Động mạch đi vào
Động mạch xuất
Động mạch cung


Ống lượn xa
Vỏ cầu thận
Cầu thận
Động mạch gian thuỳ
Tĩnh mạch gian thuỳ
Tĩnh mạch cung
Ống góp
Nhánh xuống
Nhánh lên

Ống nhú
Nhú thận
Nước tiểu 2009).
Hình 11. Cấu tạo vi thể của thận (Tortora và Derrickson,
9. Nephron.
Ống lượn gần kết thúc ở một chỗ cong cấp tính làm quay ống thận về phía
tủy. Đoạn uốn cong này đánh dấu sự bắt đầu của nephron. Nephron có thể được
chia thành một nhánh và giảm dần nhánh. Các nhánh giảm dần đi trong tủy thận
và tăng dần trở về phía vỏ não. Mỗi nhánh có một phân đoạn dày và một đoạn
mỏng.
Các phân đoạn dày được tìm thấy gần nhất với vỏ thận, trong khi một đoạn
biểu mô vảy mỏng thì phân đoạn mỏng trong các phần tủy sâu hơn. Các nhánh
dày tăng dần, bắt đầu sâu trong tủy, chứa các hoạt động vận chuyển. Do các
hoạt động vận chuyển này, chất dịch mô kẽ trong tủy chứa hàm lượng chất tan
cao bất thường.

15

Nhú
Ống

Nước
thận
nhú
tiểu


Nephron tái hấp thu thêm 25% lượng nước và một tỷ lệ phần trăm cao hơn
của các ion natri và clorua. Tái hấp thu trong ống lượn gần và nephron thường
thu hồi tất cả các chất dinh dưỡng hữu cơ, 85% lượng nước và hơn 90% ion
natri và clorua. Lượng nước còn lại, các ion và tất cả các chất thải hữu cơ được
lọc tại cầu thận vẫn nằm trong nephron và đi vào ống lượn xa.
10. Ống lượn xa.
Các nhánh tăng dần của nephron kết thúc khi nó tạo thành một góc với thành
tiểu cầu, tiếp xúc gần với cuộn mao mạch và các mạch kèm theo của nó. Ống
lượn xa bắt đầu ở khúc cua đó. Phần đầu tiên của ống lượn xa đi qua cực mạch
máu của tiểu cầu thận, đi ngang qua các tiểu động mạch. Trên đường đi, tại
đoạn tiếp xúc với cực mạch, ở đó phần hướng về các tiểu động mạch, tế bào dày
đặc hơn và bắt màu đậm dưới kính hiển vi tạo thành vết đặc.
Theo quan điểm mặt cắt, ống lượn xa khác với ống lượn gần ở chỗ:




Ống lượn xa có đường kính nhỏ hơn.
Các tế bào biểu mô của ống lượng xa thiếu vi nhung mao.
Ranh giới giữa các tế bào biểu mô trong ống lượn xa không hoạt
động.

Những đặc điểm này phản ánh sự khác biệt lớn về chức năng giữa hai vùng
ống: ống lượn gần chủ yếu liên quan đến tái hấp thu, trong khi ống lượn xa chủ

yếu tham gia vào bài tiết.
11. Hệ thống thu thập.
Ống lượn xa, đoạn cuối cùng của nephron, thông với hệ thống thu thập, bao
gồm các ống nối, ống góp và ống nhú. Các ống nối riêng lẻ liên kết mỗi
nephron với ống góp lân cận. Mỗi ống góp lấy chất lỏng từ nhiều ống nối, thoát
ra cả nephron vỏ thận và tủy thận. Một số ống góp tập trung đổ vào ống nhú lớn
hơn rồi đổ vào đài thận nhỏ. Các biểu mô lót hệ thống thu thập từ biểu mô
vuông đơn trong các ống nối và thay đổi thành biểu mô trụ đơn trong ống góp
và ống nhú.
Ngoài việc vận chuyển chất lỏng từ nephron đến bể thận, hệ thống thu thập
này còn điều chỉnh lần cuối cùng cho nồng độ và thể tích thẩm thấu. Sự thay đổi
này có ý nghĩa quan trọng bởi vì các ống dẫn thu thập đi qua tuỷ thận, nơi
nephron đã thiết lập nồng độ chất tan rất cao trong dịch mô kẽ. Nếu độ ẩm của
ống góp thấp, hầu hết dịch mô kẽ trong ống góp sẽ chảy vào trong bể thận và
16


nước tiểu sẽ loãng. Ngược lại, nếu ống góp có độ âm cao, dòng nước thẩm thấu
ra khỏi ống vào tuỷ thận sẽ được tăng cường.
III. Cấu trúc vận chuyển, lưu trữ và loại bỏ nước tiểu.
Điều chỉnh chất lọc và sản xuất nước tiểu sẽ kết thúc khi chất lỏng đi vào đài
thận nhỏ. Các phần còn lại của hệ thống tiết niệu (các niệu quản, bàng quang và
niệu đạo) chịu trách nhiệm vận chuyển, lưu trữ và loại bỏ nước tiểu.
Các đài thận nhỏ và đài thận lớn, bể thận, niệu quản, bàng quang và phần
gần của niệu đạo được lót bằng biểu mô chuyển tiếp có thể chịu được chu kỳ co
giãn và co thắt mà không bị tổn thương.
Cấu tạo mô học của đài thận, bể thận, bàng quang là tương tự nhau, có cấu
tạo từ ba lớp: niêm mạc, cơ và vỏ ngoài.







Niêm mạc được lót bởi biểu mô đa dạng tầng, bề dày thay đổi từ trên
xuống dưới, ở đài thận có hai, ba lớp tế bào dày nhưng đến bàng quang
khi rỗng có đến sáu lớp tế bào. Lớp đệm có nhiều thành phần chun. Ở
niệu quản, niêm mạc có những nếp nhăn dọc tạo lòng niệu quản nhăn
nheo hình khế.
Thành cơ trong dọc, ngoài vòng. Ở nửa dưới niệu quản, bên cạnh lớp cơ
vòng còn có thêm lớp cơ dọc có chức năng tạo nhu động tống nước tiểu
vào bàng quang.
Vỏ ngoài là màng xơ liên tục với vỏ xơ của thận.
Xương sườn 11 và 12
Đài thận nhỏ
Đài thận lớn
Thận
Bể thận
Niệu đạo

Bàng quang
17


Hình 12. Ảnh chụp X-quang (có nhuộm màu) hệ tiết niệu.
(Martini, F.H, Timmons, M.J., Tallitsch, R.B., 2012)
1. Niệu quản.
Niệu quản là ống dẫn nước tiểu từ bể thận xuống bàng quang, niệu quản bắt
đầu từ chỗ nối với thận ở bể thận, một ống phễu nơi nước tiểu được lọc từ thận
tụ lại. Niệu quản nằm sau phúc mạc, dọc hai bên cột sống thắt lưng và ép sát

vào thành bụng sau.
Đường kính niệu quản từ 3 - 4 mm, khi căng khoảng 5mm, đều từ trên
xuống dưới trừ ba chỗ hẹp: một khúc ở nối bể thận - niệu quản, một ở nơi niệu
quản bắt chéo bó mạch chậu (ở đường cung xương chậu, nơi niệu quản đi ngang
quan eo trên) và một ở trong thành bàng quang.
Chiều dài niệu quản thay đổi theo chiều cao cơ thể, giới tính, vị trí của thận
và bàng quang. Trung bình niệu quản dài từ 25 - 28 cm và chia làm hai đoạn:
đoạn bụng và đoạn chậu hông, mỗi đoạn dài khoảng 12,5 - 14 cm. Niệu quản
trái dài hơn niệu quản phải vì thận trái cao hơn, niệu quản ở nam dài hơn ở nữ.
Các niệu quản thâm nhập vào thành sau của bàng quang mà không cần đi
vào khoang phúc mạc. Niệu quản chạy xuyên chếch qua thành bàng quang theo
hướng xuống dưới và vào trong trên một đoạn dài 2,2 cm và đổ vào bàng quang
tại lỗ niệu quản. Hai lỗ niệu quản cách nhau khoảng 2,5 cm khi bàng quang
rỗng.
2. Mô học của niệu quản.

Thành niệu quản dày khoảng 1mm, được cấu tạo bao gồm ba lớp:




Lớp niêm mạc liên tục với niêm mạc bể thận ở trên và với bàng quang
ở dưới.
Lớp cơ gồm ba lớp là lớp trong cơ dọc, lớp giữa cơ vòng và lớp ngoài
thô sơ, chỉ gồm vài bó cơ dọc.
Lớp ngoài cùng là lớp thanh mạc được cấu tạo bởi tổ chức liên kết.

Bắt đầu từ thận, cứ mỗi nửa phút, các cơn co thắt của thành cơ được kích
hoạt bằng cách kích thích các thụ thể giãn nở ở thành niệu quản. Những cơn co
thắt ra khỏi bể thận và dọc theo niệu quản đến bàng quang.


18


3. Bàng quang.
Bàng quang là một cơ quan rỗng, có khả năng co dãn nằm trong chậu hông,
sau khớp mu. Bàng quang ở nữ giới nằm trước âm đạo và cổ tử cung, dưới thân
tử cung. Bàng quang ở nam giới nằm trước trực tràng và túi tinh.
Hình dạng bàng quang phụ thuộc vào lượng nước tiểu nó chứa, bàng quang
xẹp khi rỗng, có hình cầu khi căng nhẹ và có hình quả lê khi thật căng và nhô
lên vào ổ bụng. Bàng quang có thể chứa khoảng một lít nước tiểu.
Bàng quang gồm một đỉnh ở trước, một đáy ở sau và một thân nằm giữa đáy
và đỉnh. Mặt trên của thân bàng quang có phúc mạc phủ và bị ruột non hoặc tử
cung đè lên, một vài nếp gấp phúc mạc giúp cố định vị trí của thân bàng quang.
Các mặt dưới-bên của thân tựa lên cơ nâng hậu môn. Các mặt này gặp đáy bàng
quang tại cổ bàng quang. Cổ là nơi bàng quang thông với niệu đạo tại lỗ niệu
trong, cổ bàng quang ở nam giới nằm trên tuyến tiền liệt. Cổ bàng quang còn
được giữ cố định bởi dây chằng mu-tiền liệt ở nam hay mu-bàng quang ở nữ.
Đỉnh bàng quang được treo vào rốn bởi dây chẳng rốn giữa.

Màng bụng

Niệu quản phải
Bàng quang
Ống dẫn tinh
Túi tinh

Bề mặt sau của
tuyến tiền liệt
Hình 13. Bàng quang ở nam giới.

(Martini, F.H, Timmons, M.J., Tallitsch, R.B., 2012)

19


Các dây chằng này là những chỗ dày lên của mạc chậu, nối với tuyến tiền
liệt vào mặt sau khớp mu. Một số dây chằng khác cũng có nhiệm vụ cố định
bàng quang là:



Dây chằng rốn giữa: là ống niệu rốn đã hoá xơ và bít tắc lại, treo đỉnh
bàng quang vào mặt sau rốn.
Dây chằng rốn trong: là phần động mạch rốn trong lúc phôi thai đã hoá
xơ, có nhiệm vụ cố định hai mặt dưới bên của bàng quang.

Mặt trong bàng quang được che phủ bởi một lớp niêm mạc có màu hồng
nhạt. Khi bàng quang rỗng, niêm mạc xếp nếp tạo nên các nếp niêm mạc. Khi
bàng quang căng, các nếp niêm mạc mất đi. Đặc biệt có một vùng niêm mạc
không bị xếp nếp và có màu đỏ hơn các nơi khác, vùng này có hình tam giác ba
đỉnh là hai lỗ niệu quản và lỗ niệu đạo trong, nên được gọi là tam giác bàng
quang. Giữa hai lỗ niệu quản, niêm mạc nổi gờ lên tạo nên nếp gian niệu quản.
Ở chính giữa tam giác chạy xuống lỗ niệu đạo trong, từ phía sau có một chỗ nổi
gờ lên của niêm mạc gọi là lưỡi bàng quang.
Dây chằng rốn giữa
Niệu quản
Dây chằng rốn bên
Cơ quàng quang
Nếp niêm mạc
Lỗ niệu quản


Tam giác bàng quang
Trung tâm của tam giác
bàng quang
Lưỡi bàng quang
Tuyến tiền liệt
Lỗ của ống tuyến tiền liệt

Mào niệu đạo

thắt14.
niệu
đạotrong bàng quang và niệu
Hình
Mặt
đạo tiền liệt.
20


(Martini, F.H, Timmons, M.J., Tallitsch, R.B., 2012)
4. Mô học của bàng quang.
Thành bàng quang được cấu tạo bởi ba lớp:





Lớp niêm mạc ở trong cùng.
Lớp cơ ở giữa, gồm các bó cơ trơn xếp thành ba lớp: lớp ngoài là cơ dọc,
từ lớp này có một số sợi chạy ra phía trước tới xương mu tạo nên cơ mubàng quang, mội số sợi khác chạy ra phía sau tạo nên cơ trực tràng-bàng

quang; lớp giữa là lớp cơ vòng dày hơn lớp ngoài, đặc biệt là ở trên phần
tam giác bàng quang; lớp trong là cơ dọc, phát triển nhất ở vùng tam giác
bàng quang và hướng của thớ cơ cùng chạy dọc về phía cổ tạo thành một
quai dày ở phía sau cổ bàng quang.
Lớp ngoài cùng là lớp mô liên kết (mặt dưới-bên) hoặc là lớp thanh mạc
(mặt trên). Dưới lớp thanh mạc là tấm dưới thanh mạc.

5. Niệu đạo.
Niệu đạo là ống dẫn nước tiểu từ bàng quang ra ngoài. Niệu đạo nam và nữ
khác nhau về chiều dài, đường đi và cả chức năng.
Niệu đạo nam dài từ 16 - 20 cm bắt đầu từ cổ bàng quang ở lỗ niệu đạo trong
đi thẳng xuống dưới xuyên qua tuyến tiền liệt, sau đó đi qua hoành chậu và
hoàng niệu dục, cong ra trước và lên trên ôm lấy bờ dưới khớp mu rồi đi vào
gốc và thân dương vật tới đỉnh đầu của quy đầu. Niệu đạo nam vừa là đường
dẫn niệu vừa là đường xuất tinh. Về phương diện giải phẫu, niệu đạo nam có
thể chia là thành ba đoạn: đoạn tiền liệt, đoạn màng và đoạn xốp.
Niệu đạo ở nữ kéo dài từ 3 - 5 cm, từ lỗ niệu đạo, nó đi chếch xuống dưới và
ra trước ở ngay sau xương mu rồi tận cùng ở lỗ niệu đạo ngoài. Lỗ niệu đạo
ngoài nằm ở giữa âm vật và lỗ âm đạo. Lỗ niệu đạo ngoài là nơi hẹp nhất của
niệu đạo, nằm ở giữa hai môi nhỏ, ở phía trước là lỗ âm đạo, ở phía dưới và sau
âm vật.
6. Mô học của niệu đạo.
Ở phụ nữ, niêm mạc niệu đạo thường là biểu mô đa dạng tầng ở gần cổ bàng
quang. Phần còn lại của niệu đạo thường được lót bởi một biểu mô lát tầng.
Ở nam giới, cấu tạo mô học của niệu đạo thay đổi theo chiều dài của nó.
Tầng niêm mạc ở niệu đạo nam giống bàng quang ở đoạn tiền liệt, còn đoạn
niệu đạo màng và niệu đạo dương vật biến đổi thành trụ giả tầng và phần cuối là
lát tầng.
21



Thành niệu đạo được cấu tạo bởi 2 lớp áo, áo cơ ở ngoài và niêm mạc ở
trong. Ở ngay trên lồi tinh, tầng cơ vòng của áo cơ phát triển thành cơ thắt niệu
đạo trong. Cơ thắt này ngăn không cho tinh dịch trào ngược lên bàng quang. Áo
cơ trung gian còn có những sợi cơ vân xếp vòng tròn tạo nên cơ thắt niệu đạo
ngoài. Ở thành sau của niệu đạo tiền liệt có một gờ lồi dọc được gọi là mào niệu
đạo, ở hai bên mào niệu đạo là xoang tiền liệt liệt. Trên mào niệu đạo có một gò
lồi nằm giữa hai lỗ đổ vào niệu đạo của các ống phóng tinh. Tại xoang tiền liệt
có lỗ đổ vào niệu đạo của các ống tiết tuyến tiền liệt. Niệu đạo xốp có một chỗ
phình gọi là hố thuyền ngay trước lỗ niệu đạo nằm ngoài giữa âm vật và lỗ âm
đạo.
Trực tràng
Niệu quản phải
Tử cung
Màng bụng
Bàng quang
Khớp mu
Cơ thắt trong niệu đạo
Niệu đạo

Âm đạo
Môi bé
Hình 15. Vị trí của niệu quản, bàng quang, niệu đạo ở nữ giới.
(Martini, F.H, Timmons, M.J., Tallitsch, R.B., 2012)

22


C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận.

Hệ tiết niệu bao gồm hai quả thận, hai niệu quản, một bàng quang và một
niệu đạo. Sau khi lọc các chất của huyết tương, hầu hết chúng hấp thu trở lại máu,
một số ít nước và các chất tan tạo thành nước tiểu, nước tiểu từ thận theo niệu quản
xuống bàng quang và được bài tiết ra khỏi cơ thể thông qua niệu đạo.
Hệ tiết niệu hoạt động như một máy lọc giúp đào thải các chất độc hại, sản
phẩm thừa, các chất thải, và một số chất do quá trình chuyển hoá tạo ra ra khỏi cơ
thể thông qua nước tiểu. Qua đó giúp duy trì cân bằng nội môi, ngoài ra còn có vai
trò nội tiết nhờ thận tiết enzyme giúp điều hoà huyết áp và sản xuất hồng cầu.
Vì vậy, hệ tiết niệu là hệ cơ quan mà chúng ta nên quan tâm và để ý. Thông
qua bài tiểu luận này, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về hình thái, giải phẫu các bộ phận
của hệ tiết niệu, từ đó có thể phòng tránh các tổn thương hay bệnh tật liên quan đến
hệ tiết niệu. Từ đó, giúp cơ thể hoạt động một cách hiệu quả nhất.
II. Kiến nghị.
Hệ tiết niệu bao gồm các cơ quan và các bộ phận quan trọng giúp cho cơ thể
có thể bài tiết những chất độc hại, giữ lại các ion, nước, các sản phẩm hữu cơ cần
thiết, sản xuất hormone, và cân bằng nội môi. Nếu gây ảnh hưởng đến cân bằng nội
môi, sự bài tiết của thận hay các chức năng khác của thận đều gây ảnh hưởng xấu
thậm chí là nguy hiểm đến cơ thể. Do vậy cần có các biện pháp phòng ngừa các
bệnh ảnh hưởng đến thận và tuyên truyền các thói quen tốt để bảo vệ thận cho mọi
người, và đó chính là bảo vệ cho sức khoẻ của mỗi người.
Không những thế, có những người không biết ảnh hưởng của thận đối với cơ
thể mà vì gia đình nghèo khó hoặc bị dụ dỗ mà bán thận. Mong các cơ quan và lực
lượng chức năng có thể kiểm soát thật kĩ các cuộc trao đổi cho thận hay các giao
dịch bán thận, đừng để những người kém hiểu biết bị người xấu lợi dụng mà ảnh
hưởng đến sức khoẻ tương lai.
Đồng thời, Việt Nam cần tập hợp các bác sĩ, các nhà nghiên cứu về hệ tiết
niệu để nghiên cứu sâu hơn về đặc điểm, cấu trúc cũng như chức năng của các bộ
phận trong hệ tiết niệu, nhất là các bộ phận thường ít được quan tâm như (niệu
quản, niệu đạo, bàng quang) để có thể kịp thời phát hiện ra các bệnh liên quan đến
hệ tiết niệu và có cách chữa trị chính xác nhất.


23


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Bộ môn Giải phẫu học – Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh (2015),
Bài giảng Giải phẫu học (Tập 2). Nhà xuất bản Y học, TP.HCM.
2. Frank H.Netter (2007). Atlas Giải phẫu người (bản Tiếng Việt). Nhà xuất bản
Y học, TP. HCM
3. Martini, F.H, Timmons, M.J., Tallitsch, R.B. (2012). Human Anatomy.
Permissions Department, Glenview, Illinois: Pearson Education Inc.
4. Ngô Đắc Chứng, Nguyễn Thị Tường Vy, Trần Văn Giang, Đinh Văn Dũng,
Ngô Văn Bình (2017). Giáo trình giải phẫu – sinh lý người và động vật. Nhà xuất
bản Nông Nghiệp, TP.HCM.

24



×