I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Người ta thường nói: “Trời không tạo ra người đứng trên người và cũng không tạo ra
người đứng dưới người”. Kể từ khi tạo hóa làm ra con nqười thì tất cả sinh ra đều bình
đẳng, mọi người đều có tư cách, có địa vị như nhau, không phân biệt đẳng cấp trên dưới,
giàu nghèo.[...]
Vậy mà nhìn rộng ra khắp xã hội, cuộc sống con người luôn có những khoảng cách một
trời một vực. Đó là khoảng cách giữa người thông minh và kẻ đần độn: giữa người giàu và
người nghèo; giữa tầng lớp quý tộc và tầng lớp hạ đẳng.
Như thế là tại làm sao? Nguyên nhân thực ra rất rõ ràng.
Cuốn sách dạy tu thân Thực ngữ giáo có câu: “Kẻ vô học là người không có trí thức, kẻ
vô tri thức là người ngu dốt”. Câu nói trên cũng có thể hiện: sự khác nhau giữa người thông
minh và kẻ đần độn là ở chỗ có học hay vô học mà thôi.
(Khuyến học, Fukuzawa Yukichi - Phạm Hữu Lợi dịch, NXB Thế giới, 2017, tr.24)
Câu 1.Xác định đề tài của đoạn trích trên.
Câu 2.Theo tác giả, cuộc sống con người luôn có những khoảng cách một trời một vực là do
đâu?
Câu 3. Anh/ Chị có đồng ý rằng sự khác nhau giữa người thông minh và kẻ đần độn là ở chỗ
có học hay vô học mà thôi không? Vì sao?
Câu 4.Theo anh/ chị, nguyên nhân chính dẫn đến nghèo đói có phải do thiếu tri thức hay
không?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Anh/ Chị nghĩ gì về thực trạng nhiều học sinh, sinh viên tốt nghiệp loại khá, giỏi vẫn thất
nghiệp? Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) bàn luận.
Câu 2. (5,0 điểm)
Anh/ Chi hãy phân tích vai trò của tiếng sáo đối với sự hồi sinh của nhân vật Mị trong
truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài (Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục,
2017).
Từ đó, liên hệ với vai trò bát cháo hành đối với sự hồi sinh của nhân vật Chí Phèo trong
truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao (Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục, 2017) để
nhận xét về giá trị nhân đạo của hai nhà văn gửi gắm qua hai yếu tố tác động này.
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Câu 1.
– Vai trò của việc học.
– Học vấn và con người.
– Học vấn và xã hội.
Câu 2.HS tham khảo câu trả lời:
Theo tác giả, cuộc sống con người luôn có những khoảng cách một trời một vực là do học
vấn: sự khác nhau giữa người thông minh và kẻ đần độn là ở chỗ có học hay vô học mà thôi.
Câu 3.HS tham khảo câu trả lời:
Ngoại trừ nguyên nhân khách quan như gen di truyền, điều kiện sống và xã hội thì tôi
đồng ý rằng sự khác nhau giữa người thông minh và kẻ đần độn là ở chỗ có học hay vô học
mà thôi. Vì có học mới có hiểu biết, còn không học thì không trau dồi, tiếp thu tri thức thì
ngu dốt, đần độn là một điều hiển nhiên.
Câu 4.HS có thể đưa ra nguyên nhân chính là do học vấn hoặc không nhưng cân trả lời
thuyết phục. Dưới đây là câu trả lời tham khảo:
Theo tôi, ngoài các nguyên nhân khách quan như do khí hậu, môi trường sống,... thì
một trong những nguyên nhân chủ quan, chính yếu dẫn đến nghèo đói, theo tôi là do
thiếu tri thức. Trong thời đại bây giờ, có tri thức mới có đủ khả năng đáp ứng cho những
công việc đòi hỏi phải có kiến thức, trí tuệ. Do vậy, có tri thức thì cơ hội việc làm sẽ tốt hơn,
mà cơ hội việc làm tốt, nghĩa là chúng ta có nhiều lựa chọn trong việc, trong đó có những
công việc có mức thu nhập cao. Có mức thu nhập cao thì điều kiện sống nâng cao, không còn
cảnh túng thiếu, nghèo đói. Còn ngược lại, không có tri thức thì sự lựa chọn công việc hạn
hẹp và các công việc lao động ít cần đến tri thức thì thường thu nhập thấp, mà thu nhập thấp
thì dẫn đến nghèo đói là chuyện không thể tránh khỏi.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
[Đ] Muốn có được học lực khá giỏi trong quá trình học tập đòi hỏi một sự nỗ lực tự thân
rất nhiều. Nhưng bên cạnh học lực (tạm gọi là phần cứng), người học (học sinh, sinh viên)
cần biết trau dồi kỹ năng sống (tạm gọi là kỹ năng mềm). Và muốn được tuyển dụng, có được
công việc, đòi hỏi người học phải có cả học lực lẫn kỹ năng sống.
[G] Vì ngoài khả năng làm việc cá nhân, người làm việc cần phải biết hợp tác, giao tiếp
với những người cùng làm việc. Do vậy, học lực là yếu tố cần nhưng chưa phải là yếu tố
quyết định đến sự thành bại trong công việc. Để làm tốt công việc, người được tuyển dụng
cần đáp ứng được cả hai yếu tố trên (năng lực làm việc).
[M] Nguyên nhân dẫn đến thực trạng tốt nghiệp loại khá giỏi mà vẫn thất nghiệp có thể là
do người học chưa thấy được tầm quan trọng của kỹ năng sống, chưa chú tâm rèn luyện. Hơn
cả, người học không nên đổ lỗi cho hoàn cảnh mà cần có trách nhiệm với cuộc đời mình: như
chương trình giáo dục không chú trọng giáo dục kỹ năng sống cho người học, do hoàn cảnh
không cho phép...
[B] Vì ngoài người học được tự do lựa chọn học gì thì không ai có quyền ép buộc bạn lựa
chọn khác đi, đúng không ?
Câu 2 (5,0 điểm)
1 Giới thiệu đôi nét về nhà văn Tô Hoài, truyện ngắn Vợ chong A Phủ và vai trò của
“tiếng sáo” đối với sự hồi sinh của nhân vật Mị.
2. Yêu cầu cơ bản: Bình luận vai trò của tiếng sáo đối với sự hồi sinh của nhân vật
Đối với nhân vật Mị, tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân có vai trò là yếu tố tác động đánh
thức sức sống tiềm tàng đã ngủ quên trong con người Mị. Tiếng sáo tác động đến tâm hồn,
tâm trạng và cả hành động của nhân vật Mị. Cụ thể:
– Mị nghe tiếng sáo, lòng thiết tha bồi hồi. Tiếng sáo đã mang Mị trở về với những ngày
xưa, trong hồi tưởng. Ngày xưa Mị cũng thổi sáo, Mị cũng hát mỗi khi tiếng sáo gọi bạn tình
mùa xuân cất lên. Ở hiện tại, như một phản ứng tự nhiên khi nghe tiếng sáo: Mị ngồi nhẩm
thầm bài hát của người đang thổi. Ngày xưa, ngày Tết Mị cũng uống rượu. Hiện tại, Mị cũng
uống: Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát.
– Tiếng sáo văng vẳng đầu làng và men say nồng của rượu làm lòng Mị sống về ngày
trước – những ngày Mị còn trẻ, Mị tự do, Mị xinh đẹp và Mị thổi sáo giỏi: Mị thổi lá hay như
thổi sáo và Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thôi sáo đi theo Mị; Mị thấy phơi phới trở
lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Sau những năm tháng mất
hết ý thức, Mị ý thức được quyền sống hạnh phúc như bao cô gái trẻ khác: Mị trẻ lắm. Mị vẫn
còn trẻ. Mi. muốn đi chơi. Mị ý thức được cuộc sống hôn nhân bất hạnh, gượng ép khi phải
sống với A Sử – không phải người đàn ông Mị yêu. Lúc này, sự phản kháng với cuộc sống
nhiều uất ức, khổ nhục trỗi dậy, Mị muốn chết như những ngày tháng đầu khi về làm dâu là
thống lý: Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ
lại nữa.
– Tiếng sáo gọi bạn tình lửng lơ ngoài đường Như một tình cờ trùng hợp với tâm lý Mị,
bài ca vang lên: Anh ném pao, em không bắt/ Em không yêu, quả bao rơi rơi... Ngày thường
Mị sống trong căn phòng u tối, quên đi ý niệm về thời gian. Nhưng hôm nay, tiếng sáo, mùa
xuân rạo rực khoi dậy trong tâm hồn tươi sáng, tâm hồn đây tỏa ra ngoài cảnh với hành động
lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng.
– Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị: Tiếng sáo ngoại cảnh thấm vào tâm hồn Mị, thôi thúc
Mị hành động: Mị quấn lại tóc và với tay lay cái váy hoa.
– Tiếng sáo “đưa Mị đi theo những cuộc chơi”. Kết quả, A Sử về, như thường lệ, hắn hành
hạ Mị: nắm Mị, lấy thắt lưng trói Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột
nhà. Tóc Mị xãa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng
đầu được nữa. Tuy thân xác Mị bị trói, nhưng niềm khao khát tự do trong tiềm thức vẫn thôi
thúc Mị đi theo tiếng gọi của tự do, hạnh phúc: Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những
cuộc chơi. [...] Mị vùng bước đi. Qua hành động “vùng bước đi”, ta cảm nhận được niềm khát
khao được sống, được hạnh phúc vô cùng mãnh liệt, mạnh mẽ của nhân vật này. Tuy nhiên,
sự đau đớn của thể xác đưa Mị trở về hiện thực đau khổ, Mị chỉ còn nghe thấy tiếng chân
ngựa đạp vào vách. [...] Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. Dù thế, dư âm của
mùa xuân vẫn vang vọng trong Mị: Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi.
– Nếu tâm hồn Mị là ngọn lửa thì tiếng sáo đối với tâm hồn Mị như một cơn gió mát lành
thổi bùng ngọn lửa ấy lên. Tiếng sáo đối với sự hồi sinh của nhân vật Mị có vai trò như thế.
3. Yêu cầu nâng cao: Từ đó, liên hệ với vai trò bát cháo hành đối với sự hồi sinh của nhân
vật Chí Phèo trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao (Ngữ văn 11, Tập một, NXB
Giáo dục, 2017) để nhận xét về giá trị nhân đạo của hai nhà văn gửi gắm qua hai yếu tố tác
động này.
– Đối với hai nhân vật, Mị và Chí Phèo thì hai yếu tố tác động, tiếng sáo và bát cháo hành
đều đóng vai trò quan trọng trong sự hồi sinh trong tâm hồn của hai nhân vật này.
+ Mị vì nghe thấy tiếng sáo, âm thanh quen thuộc mà Mị nghe mỗi khi xuân về mà những
kí về những ngày sống tự do, yêu đời lại ùa về, đánh thức khát khao sống mãnh liệt.
+ Bát cháo hành tượng trung cho sự quan tâm chăm sóc, tình yêu của Thị Nở dành cho
Chí Phèo. Vì được ăn bát cháo hành do Thị Nở nấu mà tâm trạng Chí Phèo – con quỹ dữ của
làng Vũ Đại đã có những chuyển biến liên tục và tích cực, từ ngạc nhiên, khóc, bâng khuâng,
độc thoại nội tâm, ăn năn hối cãi, vui như trẻ con đến khao khát được hoàn lương, được sống
trong mái ấm gia đình.
– Qua hai yếu tố tác động (tiếng sáo và bát cháo hành), chúng ta có thế thấy điểm tương
đồng nào đó trong cách nhìn nhận con người. Cả hai nhà văn, Tô Hoài và Nam Cao đều cảm
thông cho sự thống khổ của con người: một bị lê liệt hoàn toàn ý thức, mất đi sức sống và sức
phản kháng, một là người nông dân bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hóa. Nhưng cũng đồng
thời đó trân trọng khát khao sống, khát khao hoàn lương của cả hai nhân vật (bằng cách xây
dựng hai yếu tố tác động, bát cháo hành và tiếng sáo) và tô cáo gay gắt xã hội phong kiến
thực dân đã cướp đi cuộc sống tươi đẹp của họ, đẩy họ vào bước đường cùng. Với nhận xét
cá nhân, tôi cho rằng thông qua hai yếu tố tác động trên, cả hai nhà văn đã thể hiện một tấm
lòng nhân đạo đáng trân quý. Chính Tô Hoài và Nam Cao thông qua hai chi tiết này đã giúp
bạn đọc, trong đó có tôi, rút ra được những bài học về cách nhìn nhận con người cũng như
biết cảm thông, trân trọng khát vọng cao đẹp mà mỗi con người đều muốn hướng đến.
4. Đánh giá chung
Cả hai chi tiết được nhắc đến ở trên đều là chi tiết đặc sắc, đóng vai trò và ảnh hưởng lớn
đến giá trị của tác phẩm. Đồng thời nó cho thấy tài năng xây dụng chi tiết trong tác phẩm tự
sự của mỗi nhà văn.
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Sức mạnh của lòng đam mê không bao giờ bị đánh giá thấp. Sức mạnh đó dẫn dắt bạn
trong suốt cuộc đời, đo lường giá trị con người bạn và ý thức của bạn về sự thành đạt. Sức
mạnh đó giúp bạn kiên định trước ánh mắt xét đoán cùa người khác. Nhiều người từng có
nhưng quyết định “không giống ai” và chọn những con đường hẹp gồ ghề dài hun hút, nhưng
rồi họ nhận ra mình đang đứng trên đỉnh vinh quang của cuộc sống mà trước đây không ai
nghĩ rằng họ làm được. Bạn có thể đưa ra những quyết định tối ưu và lý trí nhất, nhưng tổng
của các quyết định đó không phải lúc nào cũng cho ra một kết quả hợp lí nhất. Cái tạo ra sự
khác biệt cuối cùng chính là sức mạnh của lòng đam mê.
Vào những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ trước tại Mỹ có sự bùng nổ số lượng sinh
viên theo học các trường luật. Xu hướng này sau đó chuyển sang Học viện kế toán viên Công
chứng Hoa Kỳ (AICPA - American Institue of Certified Public Accountants), sau đó là du học
tại chỗ thay vì phải ra nước ngoài. Các trường đại học khoa học, nha hay y dược lúc đó vẫn
là các chủ đề được nói đến nhiều nhất, trong khi các trường nghệ thuật thì ngược lại. Tôi
không có ý đánh giá thấp nghề nghiệp nào cả, mà tôi chỉ muốn nhấn mạnh cảm giác trống
rỗng mà cuối cùng bạn sẽ phải đối diện, nếu bạn chọn nghề nghiệp tương lai không dựa vào
niêm đam mê mà dựa vào danh tiếng bề ngoài hay sự ổn định của khoản thu nhập về sự hứa
hẹn về những phúc lợi hấp dẫn.
Cuộc đời bạn phải được dẫn dắt bởi tương lai, ước mơ và niềm đam mê của bạn. Từ “đam
mê” trong tiếng Anh - passion – bắt nguồn từ một từ Latin cổ “passio”, có nghĩa là “đau
đớn”. Quả là không thể chính xác hơn! Đam mê là một tên gọi khác của nỗi đau. Khi bạn
thỏa hiệp với kết quả ngọt ngào đang quyến rũ bạn ngay vào lúc này thay vì theo đuổi ước
mơ, nỗi đau sẽ xuất hiện.
(Rando Kim, Tuổi trẻ, khát vọng và nỗi đau, NXB Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2016)
Câu 1.Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên.
Câu 2.Theo tác giả, sức mạnh của lòng đam mê có ý nghĩa như thế nào?
Câu 3. Theo anh/ chị, tại sao: Khi bạn thỏa hiệp với kết quả ngọt ngào đang quyến rũ bạn
ngay vào lúc này thay vì theo đuổi ước mơ, nỗi đau sẽ xuất hiện?
Câu 4.Bài học ý nghĩa mà anh/ chị rút ra từ văn bản trên?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về quan niệm: Cái
tạo ra sự khác biệt cuối cùng chính là sức mạnh của lòng đam mê.
Câu 2. (5,0 điểm)
Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ,
Tô Hoài, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017).
Theo anh/ chị, hình ảnh tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân có điểm gì tương đồng với
hình ảnh chuyến tàu đêm trong tác phẩm Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam (Ngữ văn 11,
Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017)?
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Câu 1. Phương thức biểu đạt nghị luận/ Nghị luận
Câu 2. HS có thể trả lời theo cách trích dẫn hoặc diễn đạt lại nội dung. Theo tác giả/ sức
mạnh của lòng đam mê có ý nghĩa:
– Dẫn dắt bạn trong suốt cuộc đời, đo lường giá trị con người bạn và ý thức của bạn về sự
thành đạt, giúp bạn kiên định trước ánh mắt xét đoán của người khác.
– Tạo ra sự khác biệt.
Câu 3.HS tham khảo một số ý sau:
– Bời vì đam mê và ước mơ vẫn hiện diện trong cuộc sống, nhắc nhở và dằn vặt bạn về
những điều bạn chưa thể làm được.
– Bởi vì bạn không thể đánh giá giá trị và chất lượng cuộc sống của bạn dựa trên những
kết quả tạm thời. Mà khi đánh giá lầm/ đến khi nhận ra, nỗi đau và sự dằn vặt sẽ bám riết và
ám ảnh lấy bạn.
– Bởi vì cuộc đời không theo đuổi đam mê và mơ ước sẽ khiến cuộc sống trở nên vô
nghĩa. Còn nỗi đau nào lớn hơn là tự mình thấy cuộc đời của mình vô nghĩa.
Câu 4. HS có thể trả lời theo quan điểm của mình/ tuy nhiên cần tìm thấy bài học từ văn bản
(không chép lại văn bản). Dưới đây là một số gợi ý:
– Đam mê là điều quan trọng trong cuộc sống con người/ nó giúp con người sống thêm
một cuộc đời nữa, đầy nghĩa lí.
– Những ngành nghề thời thượng hay những kết quả ngọt ngào chỉ là cái tạm thời, do đó ta
cần xác định được ước mơ và mục tiêu của mình.
– Nếu không theo đuổi đam mê mà chỉ chạy theo giá trị tức thời, ta sẽ phải trả giá cho điều
đó bằng nỗi đau.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
HS tham khảo gợi ý dưới đây:
[Đ] Quả thật: Cái tạo ra sự khác biệt cuối cùng chính là sức mạnh cùn lòng đam mê.
[G] Đam mê là một quá trình trải nghiệm, khi bạn đã trải qua quá trình thực tiễn với công
việc một thời gian, cảm thấy thực sự yêu thích công việc và theo đuổi công việc sở thích đó
tới cùng cho dù phải chấp nhận hy sinh nhiều thứ trong cuộc sống. Lòng đam mê có khả năng
và sức mạnh để dẫn dắt con người vươn đến thành công. Con người chỉ có thể thành công khi
đặt hết tâm huyết vào nỗ lực vào điều mà mình làm, điều đó chi có thể thực hiện được khi
con người làm điều đó với lòng đam mê. Lòng đam mê giúp con người vượt qua nghịch cảnh,
khó khăn, thất bại trong cuộc sống, tiếp thêm ý chí và sức mạnh để con người tiếp tục theo
đuổi khát vọng trong cuộc đời. Không có lòng đam mê con người khó có thể phát huy hết
năng lực sở trường của mình để tạo nên sự khác biệt và thành công.
[M] Tuy nhiên, cần xác định đam mê và nguồn lực của bản thân và đề ra hướng phát triển
đúng đắn để vươn tới thành công.
[B] Nếu chưa có đam mê, hãy tìm cho mình đam mê để sống vì nó, tin tôi đi, bạn sẽ tìm
thấy được sự khác biệt giữa mình và người khác, từ suy nghĩ, sự nỗ lực, kiên trì cho đến khả
năng thành công.
Câu 2 (5,0 điểm)
1. Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm và nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân
2. Yêu cầu cơ bản: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa
xuân
– Giới thiệu đôi nét về nhân vật Mị: Mị là một cô gái hầu như tập trung được những vẻ
đẹp tiêu biểu của người phụ nữ miền núi: Mị vừa đẹp người, vừa đẹp nết, cần cù, đảm đang,
hiếu thảo, giàu đức hi sinh vị tha, ham sống, yêu đời và rất mực tài hoa. Bị bắt vô làm con
dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra, làm vợ A Sử, Mị thấm thìa nỗi đau của một cuộc đời bị cướp
đoạt: bị dày đọa trong cuộc sống lao động cực nhọc, bị giam hãm về mặt tinh thần, tê liệt cả ý
thức phản kháng. Mị đã từng phản kháng với cuộc sống ấy bằng những giọt nước mắt, bằng
cách tự tử, nhưng vì lòng hiếu thảo, Mị quay trở lại nhà thống lí Pá Tra và chấp nhận cuộc
sống ấy. Mị thờ ơ với sự chảy trôi của thời gian, sắc màu cuộc sống của Mị trở nên mờ nhạt.
– Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị cháy lên trong đêm tình mùa xuân:
+ Mùa xuân về trên rẻo cao, đặc biệt là đêm tình mùa xuân với tiếng sáo gọi bạn tình của
trai làng đóng vai trò như là yếu tố tác động, làm sống tiềm tàng trong con người Mị trỗi dậy
một cách mãnh liệt.
+ Tiếng sáo, khung cảnh mùa xuân và cả hơi men chếnh choáng đã gợi dậy quá khứ tươi
đẹp, ngày Mị còn trẻ, còn tự do, còn yêu đời. Mị đã thoát khỏi tâm trạng dửng dưng bấy lâu
để trở thành con người thức tỉnh, vươn tới những ý nghĩ và khát vọng đẹp đẽ.
+ Mị thấy trong lòng đột nhiên vui sướng... Mị trẻ lắm... Mị muốn đi chơi. Ý thức về hoàn
cảnh bản thân trỗi dậy, Mị phẫn uất mãnh liệt và thấm thìa nỗi tủi nhục của mình. Lúc này,
Mị lại muốn ăn lá ngón mà chết đi. Trong khi đó, tiếng sáo, biểu tượng của khát vọng tự do
và tình yêu tuổi trẻ đang rập rờn trong đầu Mị.
+ Mị thắp lên ngọn đèn trong căn phòng tối tăm của mình như khêu ngọn lửa của lòng
ham sống, của sự khát khao. Hành động này thúc đẩy hành động khác, không thể kìm nén
được nữa: Mị quấn lại tóc, với tay lấy chiếc váy hoa chuẩn bị đi chơi ngày Tết.
+ Nhưng giữa lúc lòng ham sống trong Mị trỗi dậy, dâng lên mãnh liệt như sóng trào thì
cũng là lúc Mị bị vùi dập một cách khắc nghiệt, lạnh lùng. A Sử, chồng Mị thản nhiên trói
đứng Mị vào cột nhà. Như không đang biết mình đang sợ bị trói... Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa
Mị đi theo những cuộc chơi, quên mọi đau đớn về thể xác, Mị đã vùng dậy bước đi. Điều đó
chúng tỏ sức sống tiềm ẩn trong con người Mị mãnh liệt biết nhường nào.
3. Yêu cầu nâng cao: Chi tiết tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân có điểm tương đồng với
hình ảnh chuyến tàu đêm:
– Cũng như Mị, những người dân phố huyện sống trong một cuộc đời ngập đầy bóng tối,
ánh sáng chỉ bé nhỏ, len lỏi, ít ỏi. Do đó, chuyến tàu đêm như một tác nhân làm cuộc đời của
họ sáng lên, dẫu chỉ trong tích tắc.
– Tiếng sáo nhắc nhở Mị về một quãng đời đầy lòng ham sống, đánh thức trong Mị những
khao khát, chuyến tàu đêm chở theo ánh sáng từ một vùng trời khác để khơi dậy trong những
con người phố huyện sức sống, niềm tin tưởng và hi vọng về một ngày mai tươi sáng hơn.
Hai chi tiết thể hiện cái nhìn nhân đạo, đầy cảm thông của hai nhà văn đối với những kiếp
người bé nhỏ trong cuộc sống.
4. Đánh giá chung
– Bằng sự am hiểu tâm lý người miền núi, khả năng dẫn dắt kể chuyện tinh tế, Tô Hoài đã
làm bật lên sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân thật hấp dẫn, tự
nhiên và đầy xúc động.
– Sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị qua đêm tình mùa xuân cũng là biểu hiện của ngòi
bút nhân đạo Tô Hoài: cảm thông với những thân phận bất hạnh, nhìn thấy và trân trọng khát
vọng sống của họ.
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Có một sự thật: 99,5% thời gian của con người tồn tại trên Trái đất là ở trong rừng. 30
triệu năm tiến hóa từ một giống linh trưởng nhỏ cho đến loài người trưởng thành, tất cả chỉ
xảy ra khoảng vài nghìn năm trước mà thôi.
Tổ tiên chúng ta từng biết mọi thứ về thiên nhiên. Ta hiểu rõ bí mật của nó, ta biết loài
cây nào tốt để làm thuốc, loài nào ăn được và không ăn được. Chúng ta tường tận mọi ngóc
ngách, biết nơi nào có thể dừng để trú mưa và nơi đâu để đến mỗi khi bão lũ.
Nhưng giờ đây, con người quay lưng lại với thiên nhiên và bước đi một con đường khác.
Chúng ta ghì chặt lấy những khối bê tông và nhựa cứng. Ta tôn thờ thần tượng và các thương
hiệu đắt tiền. Con người đã biến ngôi nhà của chính tổ tiên thành một nhà máy khổng lồ để
phục vụ cho sự tham lam của mình.
Như đã nói, tôi yêu rừng và tôi mong có thêm người Việt Nam cảm nhận được như thế.
Ta cần những nơi như vậy để nhắc nhở rằng chúng ta đến từ đâu. Ta cần rừng để giúp ta giũ
bỏ nhiều loại bệnh xã hội như nghiện ngập, phương tiện di động, các thực tế sai lầm hay chủ
nghĩa tôn thờ vật chất. Và đặc biệt là cơn khát tiền.
Rừng không phải là nơi để chúng ta đùa giỡn. Rừng không chào đón những con người
thiếu ý thức cùng với iPhone của họ. Những người đó thèm muốn một nơi tuyệt đẹp để tham
quan và chụp hình, nhưng khi rời đi lại để rác cho khu rừng tự dọn. Rừng cũng không nên là
một công cụ để thu lợi nhuận hay phục vụ mục đích cá nhân của bất kỳ ai. Bất cứ khi nào tiền
và sự ích kỷ vào cuộc, mọi thứ đúng sẽ bị đảo lộn.
Rừng là để yêu thương, học hỏi và tôn trọng.
(Trích Thiên đường hạ giới, Jesse Peterson, dẫn theo báo điện tử VNExpress.net)
Câu 1. Đoạn trích trên sử dụng phương thức biếu đạt chủ yếu nào?
Câu 2. Đoạn trích trên cung cấp cho anh/ chị những tri thức nào về rừng?
Câu 3. Vì sao tác giả cho rằng: Rừng là để yêu thương, học hỏi và tôn trọng?
Câu 4. Thông điệp nào trong đoạn trích trên có ý nghĩa nhất với anh/ chị?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) với chủ đề: Bài học từ rừng.
Câu 2 (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh/ chị về sức phản kháng mạnh mẽ của nhân Mị trong đêm đông giải
cứu A Phủ qua đoạn trích dưới đây:
Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng
lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò
xuống hai hõm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm
trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống
miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt
mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng
nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải
chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở
đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ... Mị phảng phất nghĩ như vậy.
Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình, Mị
lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con
Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái
cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ...
Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị
tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại... Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây
mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây
trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng "Đi ngay...", rồi Mị
nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu xuống không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi
ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên chạy.
Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn,
chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho tôi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
- Ở đây thì chết mất.
A Phủ chợt hiểu.
Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.
A Phủ nói: “Đi với tôi”. Và hai người lẵng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.
(Trích Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, Ngữ văn 12 - Nâng cao,
Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, tr.14 -15)
Từ đó liên hệ với sức phản kháng của nhân vật Chí Phèo qua đoạn trích dưới đây
(Truyện ngắn Chí Phèo, Ngữ văn 11, Tập một, NXH Giáo dục, 2017) để nhận xét về giá trị
hiện thực và giá trị nhân đạo mà hai nhà văn gửi gắm thông qua hai nhân vật này.
Đoạn trích:
Trời nắng lắm, nên đường vắng. Hắn cứ đi, cứ chửi, cứ dọa giết “nó”, và cứ đi. Bây giờ
đến ngõ nhà cụ bá. Hắn xông xông đi vào […]
Hắn trợn mắt, chỉ vào mặt cụ:
- Tao không đến đây xin năm hào.
Thấy hắn toan làm dữ, cụ đành dịu giọng:
- Thôi, cầm lấy vậy, tôi không còn hơn.
Hắn vênh cái mặt lên, rất là kiêu ngạo:
- Tao đã bảo tao không đòi tiền.
- Giỏi! Hôm nay mới thấy anh không đòi tiền. Thế thì anh cần gì?
Hắn dõng dạc:
- Tao muốn làm người lương thiện!
Bá Kiến cười ha hả:
- Ồ tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ.
Hắn lắc đầu:
- Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai
trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có một cách… biết
không!... Chỉ còn một cách là… cái này! Biết không!...
Hắn rút dao ra, xông vào. Bá Kiến ngồi nhỏm dậy, Chí Phèo đã văng dao tới rồi. Bá
Kiến chỉ kịp kêu một tiếng.
(Trích Chí Phèo, Nam Cao, Ngữ văn 11 – Nâng cao,
Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017, tr.186 – 187)
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1.
- Phép lặp: xe đạp, tôi,...
- Hoặc phép thế: Tất cả mọi người thay thế cho người dân đều chọn xe buýt, metro hoặc xe
đạp.
- Hoặc phép nối: Rồi cả những, nhưng,...
Câu 2. Theo tác giả, việc di chuyển bằng xe đạp có lợi ích:
- Tất cả mọi người có cùng một địa vị.
- Đi làm bằng xe đạp chính là cách tận dụng thời gian hiệu quả, vừa đến được chỗ làm, vừa
giảm được calo.
- Vận động nhiều ở chân giúp sản sinh một lượng lớn hormone testosterone, nên sẽ rất có lợi
cho nam giới.
- Bảo vệ môi trường, giữ cho môi trường luôn trong lành, sạch đẹp.
Câu 3. HS tham khảo câu trả lời dưới đây:
- Giọng điệu trong câu Những kẻ đạp xe mon men ngoài lề như tôi tất nhiên là không đủ tiêu
chuẩn tham gia cuộc chiến đó là giọng điệu mỉa mai, châm biếm.
- Tác dụng: Châm biếm, phê phán, mỉa mai những người tham gia giao thông thiếu ý thức.
Câu 4.
- Hưởng ứng: Tôi hưởng ứng việc dùng xe đạp làm phương tiện di chuyển chính. Vì nó
không chỉ tốt cho sức khỏe, thân thiện với môi trường mà còn góp phần làm cho xã hội trở
nên văn minh và có ý thức hơn.
- Không hưởng ứng: Vậy sinh ra các phương tiện hiện đại hơn xe đạp làm gì? Chúng ta
không sử dụng các phương tiện hiện đại khác đi lại nghĩa là phủ nhận sự phát triển, tiến bộ
của loài người. Vả lại, lựa chọn phương tiện di chuyển chính nào nó còn tùy thuộc vào điều
kiện của bạn: Nhà xa, đường kẹt xe,...
- Vừa hưởng ứng vừa không hưởng ứng: (Tham khảo hai ý kiến trên).
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
[Đ] Mỗi người cần có chính kiến của bản thân trước sự tác động của thế giới bên ngoài
là một câu nói giáo dục mỗi người về lòng kiên định trước sự tác động của thế giới bên ngoài
như dư luận chẳng hạn.
[G] Tôi cho rằng việc có chính kiến là tốt và kiên định bảo vệ chính kiến của bản thân
mình đến cùng trước dư luận xã hội còn tốt hơn. Vì nó không chỉ thể hiện bạn là người có lập
trường, có chính kiến mà nó còn thể hiện bạn là con người có bản lĩnh trước sóng gió của
cuộc đời. Tôi lấy ví dụ là trường hợp của tác giả Jesse Peterson trong đoạn trích phần Đọc
hiểu, anh đã thấy được vai trò của việc đi xe đạp sẽ mang lại lợi ích gì cho sức khỏe của con
người cũng như cộng đồng, kể trong việc thể hiện sự bình đẵng về địa vị của con người trong
xã hội. Anh đã kiên định đến cùng với sự lựa chọn đi xe đạp và chấp hành pháp luật một cách
tự giác. Đó là điều không hề dễ làm nếu bạn tham gia giao thông ở Việt Nam. Như vậy Jesse
Peterson đã không chỉ giúp bản thân mà còn giúp thúc đẩy sự tiến bộ của cộng đồng bởi
những suy nghĩ, hành vi tích cực, đúng đắn hơn thông qua việc bày tỏ và bảo vệ chính kiến
của mình trước sự tác động của thế giới bên ngoài. Đó là một việc chẳng hề dễ dàng.
[M] Không phải ai cũng có thể kiên định, quyết liệt trong việc bảo vệ chính kiến của
mình đến cùng. Những người như thế người ta gọi là thuộc kiểu người gió chiều nào theo
chiều đó, ba phải... Có chính kiến là tốt, tuy nhiên chính kiến cần xuất phát từ sự hiểu biết. Vì
tranh giới giữa một người có chính kiến và một người bảo thủ rất gần nhau.
[B] Chúc bạn tinh anh, trí tuệ trong suy nghĩ để luôn hướng đến và có những quan điểm
đúng đắn và tiến bộ.
Câu 2 (5,0 điểm)
1. Giới thiệu đôi nét về Tô Hoài, Vợ chồng A Phủ và nhân vật Mị :
2. Yêu cầu cơ bản: Cảm nhận của anh/ chị về sức phản kháng mạnh mẽ của nhân Mị
trong đêm đông giải cứu A Phủ:
'
- Chính cuộc đời nô lệ đã biến Mị thành một cô gái lạnh nhạt, dửng dưng vô cảm với mọi thứ
xung quanh. Nhưng giọt nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đen xám lại của A Phủ đã
khơi dậy lòng đồng cảm nơi Mị, Mị thương mình rồi thương cho người: đêm năm trước A Sử
trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia và Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng,
xuống cổ, không lau hết đi được, rồi căm thù tội ác bọn thống lý gây ra: Chúng nó thật độc ác
vì có quá nhiều người bị trói đứng đến chết như thế. Mị lo lắng cho A Phủ: Cơ chừng này chỉ
đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Cũng lúc này ý nghĩ về thân
phận mình, một tù nhân của hủ tục lạc hậu miền núi, bị bắt đi trình ma nhà nó rồi tì chỉ còn
biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Thoáng Mị nghĩ đến A Phủ, A Phủ không bị trình ma thì
việc gì mà phải chết thế. Mị nghĩ đến cảnh tượng bị trói thay vào chỗ Phủ cho đến chết nếu
cứu A Phủ. Nhưng trong tình cảnh này làm sao Mị cũng không thấy sợ. Sau đó Mị quyết định
cởi trói cho A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài. Sức phản kháng mạnh mẽ của Mị
xuất phát từ tình thương, từ thương mình đến thương người mà Mị vượt qua được nỗi sợ bị
chết thay mà giải thoát cho A Phủ. Hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ là hệ quả tất yếu
của quá trình bị áp bức, đè nén, cần được giải tỏa của con người. Đồng thời, hành động này
khẳng định ý nghĩa của cuộc sống và khát vọng tự do đến cháy của nhân dân lao động miền
núi.
- Khác với vẻ ngoài gan góc, mạnh mẽ, bộc trực của A Phủ, nhân vật Mị tuy vẻ ngoài trầm
lắng nhưng đời sống nội tâm lại sôi nổi, phức tạp. Nhưng cũng vì thế mà Tô Hoài đã tái hiện
lại những nỗi đau, sự đè nén của nhân dân lao động miền núi và khát vọng sống mạnh mẽ của
họ thông qua nhân vật này. Đó là một phương diện rất thành công của truyện.
3. Yêu cầu nâng cao: Từ đó liên hệ với sức phản kháng của nhân vật Chí Phèo qua đoạn
trích dưới đây (Truyện ngắn Chí Phèo, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục, 2017) để nhận
xét về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo mà hai nhà văn gửi gắm thông qua hai nhân vật
này.
- Liên hệ với đoạn Chí Phèo trả thù Bá Kiến và tự sát: Đoạn trích tái hiện lại cảnh Chí Phèo
đến nhà Bá Kiến trả thù, giết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình; cho thấy sức phản kháng
vô cùng quyết liệt và mạnh mẽ của Chí Phèo. Giá trị hiện thực của truyện ngắn này phản ánh
thực tế cuộc sống của người nông dân trước dưới chế độ phong kiến thực dân trước Cách
mạng, mà chủ yếu là tầng lớp nông dân bần cùng dẫn đến lưu manh hóa. Họ không còn con
đường nào khác tự giải thoát cho mình ngoài tìm đến cái chết. Đồng thời, đoạn trích này cũng
chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc của nhà văn Nam Cao: cảm thông với những con người
dưới đáy xã hội với bao tủi nhục, đắng cay họ phải chịu đựng, trân trọng khát vọng được
sống lương thiện, và tố cáo mạnh mẽ xã hội phong kiến thực dân đương thời.
- Nhận xét giá trị hiện thực và nhân đạo của hai nhà văn qua hai đoạn trích trên: Tuy đối
tượng khai thác hiện thực khách quan có khác nhau (một là người nông dân bần cùng hóa dẫn
đến lưu manh hóa trong xã hội trước Cách mạng, một là người nông dân sống trong xã hội
phong kiến thực dân ở miền núi sau Cách mạng), nghệ thuật dựng truyện và xây dựng nhân
vật có khác nhau,... Nhưng giá trị hiện thực của hai truyện Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo
thông qua hai đoạn trích trên có nhiều điểm tương đồng và phản ánh chân thực cuộc sống của
người nông dân sống dưới chế độ phong kiến thực dân hà khắc. Đồng thời, hai đoạn trích đã
thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của nhà văn Nam Cao và Tô Hoài: cảm thông với số phận
đau khổ, trân trọng khát vọng sống tự do, hạnh phúc và tố cáo mạnh mẽ xã hội đương thời.
4. Đánh giá chung
Cả hai đoạn trích trên đều là những đoạn trích chứa đựng giá trị hiện thực chân thực, khách
quan và nhân đạo sâu sắc của nhà văn Tô Hoài và Nam Cao. Đó là giá trị để tác phẩm còn
sống mãi cùng với thời gian và thế hệ bạn đọc.
I.ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Anh viết thâu đêm, đánh vật với từng trang
Rồi thao thức không sao ngủ được
Kim đồng hồ tích tắc, tích tắc
Hai tiếng động nhỏ bé kia
Hơn mọi ầm ào gầm thét
Là tiếng động khủng khiếp nhất đối với con người
Đó là thời gian
Nó báo hiệu mỗi giây phút qua đi không trở lại
Nhắc nhở cái gì đang đợi ta ở cuối
Nhưng anh, anh chẳng sợ nó đâu
Thời gian - đó là chiều dài những ngày ta sống bên nhau
Thời gian - đó là chiều dày những trang ta viết
Bây giờ anh mới hiểu hết câu nói trong kịch Shakespeare:
Tồn tại hay không tồn tại
Không có nghĩa là sống hay không sống
Mà là hành động hay không hành động
nhận thức hay không nhận thức, tác động vào cuộc đời hay quay lưng lại nó?
Anh không băn khoăn mình có tài hay kém tài, thành công hay thất bại
Chỉ day dứt một điều: làm sao với những sự vật bình thường
Những ngày tháng bình thường
Như chiếc hộp con, như tờ lịch trên tường
Ta biến thành con tàu, thành tấm vé
Những ban mai lên đường.
(Lưu Quang Vũ, Cho Quỳnh những ngày xa, dẫn theo thivien.net)
Câu 1. Cho biết phương 02 phưong thức biểu đạt nổi bật sử dụng trong bài thơ trên.
Câu 2. Theo tác giả, vì sao tiếng kim đồng hồ lại là tiếng động khủng khiếp nhất đối với con
người?
Câu 3. Hình ảnh tấm vé và con tàu trong câu thơ: Ta biến thành con tàu, thành tấm vé tượng
trưng cho điều gì?
Câu 4. Theo anh/ chị, giá trị thực sự của thời gian là gì?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về thông điệp trong
đoạn trích thơ trích từ phần Đọc hiểu:
Tồn tại hay không tồn tại
Không có nghĩa là sống hay không sống
Mà là hành động hay không hành động
nhận thức hay không nhận thức, tác động vào cuộc đời hay quay lưng lại nó?
Câu 2 (5,0 điểm)
Phân tích diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đoạn trích sau:
Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị
cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mị đã dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần.
Thường khi đến gà gáy, Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu, các chị em trong nhà
mới bắt đầu ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn. Chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức sưởi
lửa suốt đêm.Mỗi đêm, nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng
lên, cùng lúc ấy Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống.
Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết
đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A
Sử chợt về thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn
ra sưởi như đêm trước.
Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng
lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò
xuống hai hõm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm
trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống
miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt
mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng
nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải
chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở
đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ... Mị phảng phất nghĩ như vậy.
Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình, Mị
lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con
Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái
cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ...
Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị
tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại... Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây
mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây
trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng "Đi ngay...", rồi Mị
nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu xuống không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi
ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên chạy.
Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn,
chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho tôi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
- Ở đây thì chết mất.
A Phủ chợt hiểu.
Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.
A Phủ nói: “Đi với tôi”. Và hai người lẵng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.
(Trích Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, Ngữ văn 12 - Nâng cao,
Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, tr.14 -15)
Kết thúc đoạn trích trên có điểm nào khác biệt so với hình ảnh: Liên không nghĩ được
lâu, mắt chị nặng dần, rồi sau Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở
trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam (Ngữ văn
11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017)?
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1. Phương thức biểu đạt biểu cảm và tự sự/ Biểu cảm và tự sự.
Câu 2. Theo tác giả, tiếng kim đồng hồ lại là tiếng động khủng khiếp nhất đối với con người
vì: Nó báo hiệu mỗi giây phút qua đi không trở lại/ Nhắc nhở cái gì đang đợi ta ở cuối.
Câu 3. Ý nghĩa của hình ảnh tấm vé và con tàu trong câu thơ: Ta biến thành con tàu, thành
tấm vé:
Hình ảnh tấm vé và con tàu tượng trưng cho những khao khát, những ước mơ được trải
nghiệm, được khám phá của con người, giúp hình ảnh thơ trở nên gợi hình, gợi cảm.
Câu 4.
- Giá trị thực sự của thời gian đó là khi chúng ta sống cuộc sống có ý nghĩa.
- Giá trị thực sự của thời gian nằm ờ chất lượng, ý nghĩa của cuộc đời ta sống.
- Giá trị thực sự của thời gian không nằm ở độ dài của nó mà ở những điều ta đã làm được.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
[Đ] Qua đoạn trích thơ: Tồn tại hay không tồn tại/ Không có nghĩa là sống hay không
sống/ Mà là hành động hay không hành động/ nhận thức hay không nhận thức, tác động vào
cuộc đời hay quay lưng lại nó? tôi nhận được một thông điệp sống có giá trị. Đó là sống là
hành động và nhận thức được cuộc đời chỉ khi ta tác động vào nó.
[G] Tôi nghĩ rằng, ý nghĩa của sự tồn tại của con người chính là phải làm những điều có
ý nghĩa với chính mình, với gia đình, với cộng đồng. Đó là khi ta sống là hành động. Sự tồn
tại như vậy phải thông qua hành động: con người phải làm việc, hành động để tạo ra của cải
vật chất, hoặc những giá trị tinh thần để giúp ích cho bản thân và xã hội. Có như thế cuộc đời
con người mới trở nên có ý nghĩa, mới thực sự là sống. Tôi sẽ nhặt rác để bảo vệ môi trường
thay vì đứng nhìn hay viết một bài văn hay về bảo vệ môi trường. Tôi sẽ không nói chuyện
lớn tiếng để hạn chế gây ô nhiễm âm thanh ở nơi công cộng. Tôi sẽ không vượt đèn đỏ dù
còn một giây đèn đỏ. Tôi sẽ... Hành động chỉ đơn giản như thế nhưng nó lại tạo ra giá trị và
sự hiệu quả để chúng ta thực sự sống.
[M+B] Theo quan niệm này thì sự sống của con người không được đo lường bằng năm
tháng sống trên đất mà bằng những đóng góp, những cống hiến của con người cho cuộc đời.
Cuộc đời của con người sẽ trở nên vô vị, tẻ nhạt, vô nghĩa, sẽ chỉ là sự tồn tại vô ích nếu con
người không chịu nhận thức ý nghĩa của hành động trong cuộc đời.
Câu 2 (5,0 điểm)
1. Giới thiệu đôi nét về Tô Hoài, Vợ chồng A Phủ và vị trí đoạn trích
- Dửng dưng, vô cảm: Trong những đêm mùa đông tê buốt ấy, Mị trở lại trạng thái tê dại
trong tâm hồn. Mị sống âm thầm như một cái bóng không thiết gì ngoài ngọn lửa, có hôm A
Sử đi chơi về, ngứa mắt đánh, Mị ngã ngay xuống cửa bếp thì hôm sau lặng lẽ, Mị lại ra thổi
lửa, hơ tay hình ảnh héo hắt của người đàn bà của những đêm đông trên núi cao. Mị thấy
A Phủ bị trói đứng từ mấy đêm trước, đôi mắt A Phủ mở trừng trừng chẳng gợi cho Mị điều
gì, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay, A Phủ với Mị cũng xa lạ như mọi thứ trên đời. Để cực
tả sự lạnh lẽo, tê dại trong tâm hồn Mị, nhà văn còn đưa ra giả thiết: Nếu A Phù là cái xác
chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn vô cảm, vẫn sưởi, chỉ biết ngọn lửa.
- Thương mình, thương người cùng cảnh ngộ: Đêm ấy, A Phủ khóc: một dòng nước mắt lấp
lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Giọt nước mắt tuyệt vọng và cay đắng của A Phủ
đã đánh thức tâm hồn Mị thoát khỏi tình trạng vô cảm hằng ngày. Từ giọt nước mắt của
người, Mị nhớ đến giọt nước mắt của mình: Mị chợt nhớ lại đêm năm trước, A Sử trói Mị, Mị
cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không
biết lau đi được. Mị nhận ra mình trong bóng dáng A Phủ bị trói kia, tâm hồn Mị sống trở lại
trong sự tự thương mình.
- Sự thức tỉnh của nhận thức: Từ sự thương xót, Mị nghĩ đến tình cảnh tuyệt vọng của A Phủ
nhận ra cái chết của A Phủ sẽ đau đớn và vô lí làm sao: Chỉ đêm mai là người kia chết,
chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. [...] Người kia việc gì mà phải chết thế. Mị nhớ lại
người đàn bà đã bị trói đến chết trong căn nhà này, lòng căm thù chôn giấu lâu nay bùng
cháy, chúng nó thật độc ác.
- Hành động cứu người: lòng thương một khi đã xuất hiện sẽ lớn lên mạnh mẽ, lấn át cả nỗi
thương thân, làm Mị chiến thắng nỗi sợ hãi: cắt dây trói cứu A Phủ. Mị cứu A Phủ trong ý
thức chấp nhận sự hi sinh về mình, sẵn sàng thế mạng cho anh. Đó là giây phút tuyệt đẹp
trong cuộc đời Mị. Cắt dây trói cứu A Phủ chứng tỏ Mị với sức sống nội tâm mạnh mẽ và
hành động phản kháng quyết liệt đã sống lại.
- Hành động tự cứu mình: giây phút A Phủ vùng lên chạy là lúc Mị hốt hoảng. Vì lòng
thương người đã được giải quyết rồi thì sự thương mình quay trở lại. Mị sợ ở đây chết mất,
cái sợ của người có lại niềm ham sống. Mị vụt chạy ra, băng đi, dẫu trời tối lắm để làm người
tự do, đuổi kịp A Phủ. Hai người lẳng lặng dìu nhau chạy xuống chân dốc, một kết thúc tất
yếu. Số phận đã gắn họ lại với nhau, con đường họ đi không thể khác.
- Ý nghĩa: Cắt dây trói hữu hình quanh A Phủ, Mị cũng đồng thời cắt đứt những dây trói vô
hình đang trói buộc mình trong kiếp sống nô lệ, cứu thoát A Phủ cũng chính là Mị tự quyết
định giải thoát, khát vọng sống của tuổi trẻ đã giải thoát Mị khỏi cảnh chết ngay khi còn đang
sống.
3. Yêu cầu nâng cao: Liên hệ với kết thúc trong tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam):
- Mặc dù là nhà văn lãng mạn nhưng tác phẩm của Thạch Lam vẫn mang đậm dấu ấn hiện
thực. Sau phút bùng lên của đoàn tàu – một nguồn sáng lớn, mạnh mẽ đi qua phố huyện tăm
tối thì bóng tối đã trở lại, dày đặc, bao phủ đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối. Đó là
kết thúc tất yếu của những con người chưa tìm thấy được ánh sáng bền vững và tin tưởng cho
cuộc đời mình.
- Ra đời trong một giai đoạn khác, khi: Nếp rêu con cùng chói lòa ánh sáng/ Khi mặt trời
chân lý rọi hang sâu (Chế Lan Viên), đoạn trích Vợ chồng A Phủ kết thúc bằng chi tiết A Phủ
cùng Mị chạy trốn, tìm đến cuộc đời tự do, và như một lẽ tất yếu, họ tìm đến với cách mạng.
Cuộc đời của họ từ đó đổi thay, không chìm ngập trong tăm tối và bi kịch.
- Hai kết thúc này có sự khác nhau là điều tất yếu bởi chúng ra đời trong những giai đoạn
khác nhau, có ý nghĩa khác nhau trong việc phản ánh hiện thực xã hội, thể hiện sự chuyển
biến về tư tưởng của các nhà văn theo từng giai đoạn của xã hội, trước Cách mạng và sau
Cách mạng.
4. Đánh giá chung
- Đoạn truyện hấp dẫn người đọc bởi lối miêu tả tâm lí nhân vật. Hành động của Mị tuy bộc
phát ngẫu nhiên những không nằm ngoài quy luật tất yếu.
- Đoạn truyện còn thể hiện tư tưởng nhân đạo: Cảnh ngộ bất hạnh cùng vẻ đẹp tâm hồn Mị
bằng tấm lòng thương cảm sâu sắc, khơi gợi niềm cảm thông ở bạn đọc qua đó khẳng định
sức sống tiềm tàng của Mị, dù bị giẫm đạp đè nén đến đâu cũng không chịu mất đi. Chính sức
sống và niềm đồng cảm đã khiến Mị giải thoát cho người và giải thoát cho chính mình. Nhân
danh quyền sống con người, Tô Hoài đã lên án chế độ phong kiến tàn bạo ở miền núi.
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Thế nào là một người sống thứ sinh? Đấy là người sống với mục đích gây ấn tượng với
người khác, lấy sự đánh giá của người khác làm thước đo bản thân.
Mục đích cuộc đời anh ta là gì? Là sự vĩ đại trong mắt người khác. Là danh vọng, sự
ngưỡng mộ, sự ghen tị của người khác, của công chúng. Công chúng quyết định giá trị của
anh ta và anh ta hài lòng với những gì người ta nghĩ là anh ta có. Công chúng là động lực
sống của anh ta, là mối quan tâm lớn nhất của anh ta. Anh ta không muốn giỏi, mà muốn
được nghĩ là giỏi. Anh ta không muốn lao động, mà muốn tỏ vẻ lao động và được người ta
nghĩ là lao động giỏi. Anh ta vay mượn giá trị và ảnh hưởng của người khác để gây ấn tượng
với những người khác nữa. Chính anh ta mới thực sự là kẻ không vị kỷ bởi vì anh ta hoàn
toàn không quan tâm tới mình muốn gì hay nghĩ gì, mà chỉ quan tâm đến người khác nghĩ gì
về anh ta và hành động theo ảo tưởng đó.
Những kẻ sống thứ sinh không hề quan tâm tới sự thật, tới dữ kiện, tới ý tưởng, tới sự
sáng tạo hay lao động. Họ không hỏi “Điều đó có đúng không nhỉ?” Họ hỏi “Không biết mọi
người có nghĩ điều này là đúng không nhỉ?” Họ không bao giờ tự đánh giá, phán xét mà chỉ
lặp lại những gì người khác đánh giá, phán xét. Họ không lao động mà chỉ muốn làm ra vẻ
lao động. Họ không sáng tạo, mà chỉ muốn khoe khoang và gọi tên những thứ trang sức phù
phiếm có thể đánh bóng cho tên tuổi họ. Họ không quan tâm tới năng lực, mà chỉ quan tâm
tới quan hệ. Họ không nghĩ giá trị, mà chỉ quan tâm tới ảnh hưởng. Thế giới sẽ ra sao nếu
chỉ có toàn những kẻ sống thứ sinh, những kẻ không lao động, không tư duy, không sản xuất,
không sáng tạo?
(Tiểu thuyết Suối nguồn, Ayn Rand, NXB Trẻ, 2014)
Câu 1. Đoạn trích trên sử dụng phương thức biểu đạt chính nào?
Câu 2. Chỉ ra 02 phép liên kết trong đoạn văn bản.
Câu 3. Anh/ Chị hiểu như thế nào về những kẻ sống thứ sinh qua nhận xét của tác giả: Họ
không hỏi "Điều đó có đúng không nhỉ?" Họ hỏi "Không biết mọi người có nghĩ điều này là
đúng không nhỉ?"?
Câu 4. Anh/chị có đồng tình với quan niệm của tác giả: Những kẻ sống thứ sinh mới thực sự
là kẻ không vị kỷ? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung văn bản phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày suy nghĩ về câu hỏi của tác giả: Thế giới sẽ ra sao nếu chỉ có toàn những kẻ sống
thứ sinh, những kẻ không lao động, không tư duy, không sản xuất, không sáng tạo?
Câu 2. (5,0 điểm)
Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ chi tiết tiếng sáo là chi tiết đặc sắc được nhà văn Tô
Hoài nhắc lại nhiều lần:
Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại,
thiết tha bổi hổi. Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi... Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi.
Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay
như thổi sáo... Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết
ngày trước ...tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ ngoài đường... Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị
đi theo những cuộc chơi, những đám chơi "Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người
nào, em bắt pao nào"...
(Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017)
Cảm nhận của anh/ chị về tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài qua đoạn trích trên.
Từ đó liên hệ với âm thanh: Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ
mái chèo đuổi cá, tiếng mấy bà đi chợ hỏi nhau… (Truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam
Cao, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017) để bình luận về ý kiến: Chi tiết
nhỏ làm nên nhà văn lớn.
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1. Dạng câu hỏi nhận biết: Học sinh chỉ cần chỉ ra phương thức biểu đạt chính (01) được
sử dụng trong văn bản: Nghị luận
Câu 2. Đây là câu hỏi nhận biết phép liên kết, yêu cầu học sinh cần chỉ ra 02 phép liên kết
trong đoạn trích:
- Phép thế đại từ Họ.
- Phép lặp: Họ, Anh ta.
Câu 3. Đây là dạng câu hỏi thông hiểu về nội dung ý nghĩa câu văn, học sinh cần đặt trong
văn cảnh để hiểu được ý nghĩa của câu. Dưới đây là câu trả lời tham khảo:
Khi tác giả nhận xét về những kẻ sống thứ sinh: Họ không hỏi “Điều đó có đúng không
nhỉ?”, nghĩa là họ không quan tâm đến sự thật, không tự nhận xét, đánh giá, phán xét. Họ hỏi
“Không biết mọi người có nghĩ điều này là đúng không nhỉ?”, nghĩa là họ chỉ quan tâm đến
người khác nghĩ gì, chỉ lặp lại nhận xét, đánh giá của người khác.
Câu 4. Đây là dạng câu hỏi vận dụng, đòi hỏi học sinh bày tỏ rõ ràng quan điểm. HS có thể
đồng ý hoặc không đồng ý hoặc vừa đồng ý vừa không đồng ý nhưng cần đưa ra lí lẽ thuyết
phục. Tham khảo gợi ý dưới đây:
- Đồng ý với ý kiến những kẻ sống thứ sinh "mới thực sự là kẻ không vị kỷ", vì anh ta hoàn
toàn không quan tâm tới mình muốn gì hay nghĩ gì, mà chỉ quan tâm đến người khác nghĩ gì
về anh ta và hành động theo ảo tưởng đó.
- Không đồng ý với ý kiến những kẻ sống thứ sinh "mới thực sự là kẻ không vị kỷ", vì những
thứ mà kẻ thứ sinh theo đuổi thực là một cách họ đánh bóng tên tuổi của bản thân, họ chỉ
chăm chú xây dựng hình ảnh bản thân theo cách mà họ thích.
- Vừa đồng ý vừa không đồng ý: (Kết hợp cả hai ý kiến trên).
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
[Đ] Sống sao có ý nghĩa trong cuộc đời là câu hỏi, là mục đích theo đuổi của tất cả mọi
người. Trong số những người sống biết cống hiến, biết hy sinh, biết hưởng thụ đúng nghĩa
vẫn còn có những người sống thiếu định hướng, ảo tưởng về bản thân. Và thế giới sẽ ra sao
nếu toàn những kẻ sống thứ sinh, những kẻ không lao động, không tư duy, không sản xuất,
không sáng tạo?
G] Trong lịch sử phát triển, loài người không ngừng lao động để cải tạo chính mình. Nhờ
lao động, con người dần hoàn thiện nhân cách trở thành loài thượng đẳng trên trái đất, đạt đến
cuộc sống văn minh như hiện nay. Người không lao động sẽ trở thành kẻ vô công rồi nghề,
không được tôn trọng. Lao động rất cần tư duy, sáng tạo, đó là phẩm chất cần thiết của người
lao động trong xã hội hiện đại. Nó giúp con người có thể vượt qua những ràng buộc của hoàn
cảnh, rút ngắn thời gian để đạt được mục đích đã đề ra nhanh chóng, tốt đẹp. Người làm việc
có tư duy, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, tiên phong, không chấp nhận những gì sẵn có, không
bắt chước, lặp lại những cách thức cũ mà say mê tìm kiếm những cái mới mẻ, hữu ích. [M]
Nếu chỉ toàn những kẻ sống thứ sinh, xã hội sẽ thụt lùi, con người không tạo ra được thành
quả cho bản thân cũng như cho xã hội.
[B] Sống thứ sinh là một kiểu sống đáng phê phán, đó là mầm mống của những hiện
tượng tiêu cực, là rào cản đối với sự phát triển con người và xã hội. Mỗi người cần thiết phải
lao động, nỗ lực tư duy, sáng tạo để khẳng định mình, không nên chạy theo những giá trị ảo,
chạy theo dư luận phù phiếm.
Câu 2. (5,0 điểm)