Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nghiên cứu ứng dụng hệ thống đun nước nóng bằng năng lượng mặt trời sử dụng ống chân không tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (775.04 KB, 8 trang )

NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG HỆ THỐNG ĐUN NƯỚC NÓNG BẰNG NĂNG
LƯỢNG MẶT TRỜI SỬ DỤNG ỐNG CHÂN KHÔNG TẠI VIỆT NAM
Nguyễn Hiếu Nghĩa*, Nguyễn Thế Bảo**
TÓM TẮT
Bài viết trình bày việc xây dựng chương trình tính mô phỏng tạo ra các chuỗi kết quả như:
bức xạ lên mặt phẳng nghiêng (It), nhiệt lượng hữu ích thu được (Qu), hiệu suất bộ thu (η), nhiệt độ
trung bình của bình chứa phân tầng nhiệt (ts1, ts2, ts3 ), tỉ số mặt trời (fR) của hai hệ thống đun nước
nóng bằng năng lượng mặt trời loại bộ thu tấm phẳng và loại bộ thu ống chân không cho bất kỳ
giờ/ngày/tháng nào hoặc cả năm theo điều kiện tự nhiên tại Việt Nam. Qua đó, người sử dụng có
thể đánh giá các thông số ảnh hưởng đến hiệu quả của bộ thu ống chân không.
RESEARCH OF THE SOLAR HOT WATER SYSTEM USED THE EVACUATED TUBES
IN VIETNAM
SUMMARY
This article describes the way to build the simulation program to generate the sequenced
results such as: Radiation on sloped serfaces (It), useful energy gain (Qu), collector efficiency (η),
stratified tank temperature (tS1, tS2, tS3), solar fraction (fR) of two solar hot water systems, namely
Flate Plate Collector and Evacuated Tube Collector for any hour/day/month or all year abide by
the weather data in Viet Nam. Thereby, the user can evaluate the parameters affecting the efficiency
of the Evacuated Tube Collector.
1. Định nghĩa và ký hiệu
I, It - cường độ bức xạ trên mặt phẳng ngang và
mặt phẳng nghiêng, J/m2.h;
Q - nhiệt lượng trung bình vào mỗi ống, W/m2;


m - lưu lượng nước đối lưu tự nhiên qua mỗi
ống, kg/s;
D - đường kính trong ống hấp thu, m;
μ - độ nhớt động lực học của nước, kg/m.s
Red - hệ số Reynolds
θ - góc nghiêng của ống so với trực đứng


L - chiều dài nhận nhiệt của ống, m;
Pr - hệ số Prandtl
Nud - hệ số Nusselt
Grd - hệ số Grashof

Grd* - hệ số Grashof phụ
βn - hệ số giãn nở nhiệt của nước, K-1;
*

Kn - độ dẫn nhiệt của nước, W/m.K;
υ - độ nhớt động học, m2/s;
Qu - năng lượng hữu ích, W;
tout - nhiệt độ nước ra khỏi ống, oC;
tin - nhiệt độ nước vào ống, oC;
AS-Tube - diện tích nhận bức xạ của mỗi ống, m2;
NTubes - số lượng ống
qw
t out =
+ t in

C p.m
η - hiệu suất bộ thu
Aa - diện tích nhận bức xạ của bộ thu, m2;
G - cường độ bức xạ mặt trời, W/m2;
t - nhiệt độ trung bình nước trong bộ thu, oC;
Ta - nhiệt độ môi trường, oC;
fR - tỉ số mặt trời

ThS, Khoa Nhiệt lạnh, Trường Đại học Công nghiệp TPHCM
TS, Khoa Cơ khí, Trường Đại học Bách khoa – Đại học Quốc gia TPHCM


**

40


Tạp chí Đại học Công nghiệp

2. Tổng quan tình hình sử dụng năng
lượng mặt trời đun nước nóng tại Việt Nam
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt
đới. Thời gian chiếu sáng trung bình trong một
năm từ 2000 đến 2600 giờ. Ở các tỉnh phía
Nam, số giờ nắng trung bình trong ngày khoảng
6,5 giờ, cường độ tổng lượng bức xạ trung bình
ngày trong 12 tháng đạt 5 kWh/m2/ngày. Từ
mùa khô chuyển sang mùa mưa, tổng lượng bức
xạ trung bình giảm khoảng 20%. Ở các tỉnh phía
Bắc, số giờ nắng trung bình chỉ đạt 4,1 giờ/ngày
và cường độ bức xạ trung bình khoảng 4
kWh/m2 ngày, lượng bức xạ trung bình tương
đối cao. Đây là nguồn năng lượng dồi dào nhất
và sạch nhất. Có thể kết luận rằng bức xạ mặt
trời là nguồn tài nguyên lớn của Việt Nam. Tuy
nhiên, việc tận dụng nguồn năng lượng này còn
hạn chế. Hiện chỉ có khoảng vài ngàn bộ thu
năng lượng mặt trời được lắp đặt so với hơn
100.000 bộ đun nước nóng điện trở được lắp đặt
ở thành phố Hồ Chí Minh.
Nhiều trường đại học đã và đang nghiên

cứu về hệ thống đun nước nóng bằng năng
lượng mặt trời, như: Trường Đại Học Bách
Khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa Đà
Nẵng, Trường Đại học Bách khoa TPHCM,
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCM
(nhãn hiệu HELIO).
Trong khi đó, tại Trung Quốc việc ứng
dụng hệ thống đun nước nóng bằng năng lượng
mặt trời rất phát triển. Đặc biệt là loại bộ thu
ống chân không, chiếm 65% tổng số diện tích
lắp mới, trung bình khoảng 6 triệu m2/năm [4].
Bộ thu ống chân không hoạt động tốt hơn bộ thu
tấm phẳng ở chế độ nhiệt độ cao nhờ giảm sự
trao đổi nhiệt đối lưu do có lớp chân không [3].
Thành công nhất là bộ thu ống chân không gắn
trực tiếp vào bình trữ nhiệt nằm ngang [2]. Tại
Việt Nam, Trung tâm Tiết kiệm năng lượng
thuộc Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM phối
hợp với một số đơn vị đang thực hiện chương
trình hỗ trợ người tiêu dùng sử dụng máy nước

nóng năng lượng mặt trời. Nhưng trên phạm vi
cả nước, việc ứng dụng hệ thống nước nóng
năng lượng mặt trời còn rất ít, đặc biệt là chưa
có phần mềm tính toán cho hệ thống nước nóng
mặt trời loại bộ thu ống chân không đối lưu tự
nhiên với bình trữ nhiệt nằm ngang.
3. Lý thuyết tính toán hệ thống đun
nước nóng bằng năng lượng mặt trời sử
dụng ống chân

Sự truyền nhiệt xảy ra khi nước tuần hoàn
tự nhiên trong ống nhận nhiệt bức xạ mặt trời,
nổi lên và đi vào bình chứa. Nước lạnh hơn từ
bình chứa chảy vào ống thế chỗ cho lượng nước
lạnh đó. Lưu lượng nước tuần hoàn phụ thuộc
vào cường độ bức xạ mặt trời và nhiệt độ nước
phân phối trong bình, nhiệt độ hoạt động của bộ
thu và cách thiết kế bộ thu (đường kính ống,
chiều dài ống, độ cong của tấm phản xạ, góc
nghiêng bộ thu) vì thế nó sẽ thay đổi liên tục
theo ngày[2]. Mối quan hệ của lưu lượng nước
đối lưu tự nhiên trong ống chân không được
trình bày ở hình 1. Các hệ số Red, Nud, Grd, Grd*
phụ thuộc vào đường kính ống; chọn ao, a1, n
lần lượt là hệ số quan hệ thứ 1, 2 và 3 (ao =
0,1914, a1 = 0,4084, n = 1,2) [1], [3]; ηo =
0.536, a = 0.824, b = 0.0069[1].
Lúc bắt đầu mô phỏng, nhiệt độ nước vào
ống bằng nhiệt độ tại tầng nước ngang miệng ống
nếu độ nghiêng ống nhỏ và bằng nhiệt độ của lớp
cao hơn nếu độ nghiêng ống nhiều hơn. Nhiệt
lượng hữu ích của bộ thu ống chân không tính từ
cường độ bức xạ và nhiệt độ môi trường [1].
Biểu thức cân bằng năng lượng trong bộ thu phải
thỏa mãn ở bước mô phỏng này bằng phương
pháp lặp. Từ nhiệt lượng trung bình dự tính (q)
vào mỗi ống thông qua hệ số Reynolds với biểu
thức (Nu*Gr) tìm lưu lượng đối lưu trong ống
(m). Nhiệt độ trong bình chứa, các thông số vật
lý (βn, Kn, υ, μ, Pr, Cp) được cặp nhật lại liên tục

bởi sự tổn thất nhiệt và trao đổi nhiệt đối lưu giữa
các tầng sau mỗi bước lặp cho đến khi bộ thu đạt
được sự cân bằng năng lượng.

41


Nghiên cứu ứng dụng hệ thống đun nước nóng bằng…

Hình 1. Mô hình mô phỏng dòng đối lưu tự nhiên của nước trong ống chân không
Sau khi hệ thống đạt cân bằng, ta có được
nhiệt lượng hữu ích và nhiệt độ nước ra khỏi bộ
thu theo từng giờ. Thực tế, nhiệt độ khối nước
tăng dần khi nhận được cường độ bức xạ liên
tục. Để mô phỏng quá trình này, tác giả chia
lượng nước được tăng nhiệt độ đó thành 10
phần nhỏ và cho nó từ từ đi vào bình chứa trong
suốt một giờ đó. Việc làm này đảm bảo cho
chương trình mô phỏng được sự tăng nhiệt độ
của bình chứa đúng với thực tế. Đặc biệt là khi
có tải sử dụng thì quá trình tăng nhiệt độ vẫn
chính xác.
Tổn thất nhiệt của hệ thống chủ yếu từ
bình chứa. Khối lượng nước chứa trong các ống
chiếm khoảng 15% lượng nước của hệ thống
nên phải cộng thêm vào thể tích bình chứa và
phải điều chỉnh lại hệ số tổn thất nhiệt cho phù
hợp với sự tăng diện tích bề mặt bình. Vào ban
ngày, phần trên của bình chứa bị trộn, vì thế số
điểm phân lớp nhiệt không ảnh hưởng đến hệ

thống nhiều [1].

42

Nhiệt độ của lưu chất là thông số quan
trọng ảnh hưởng tới tốc độ tuần hoàn giữa bình
chứa và bộ thu [2]. Lượng nước tải lấy ở phía
trên (lớp 1) của bình, nước cấp lại ở đáy bình
(lớp 3). Bình chứa được chia thành 3 lớp nhiệt
không bằng nhau, lớp 1 chiếm 3/7, lớp 2 chiếm
2/7 và lớp 3 chiếm 2/7 thể tích bình.
Tính tỉ số mặt trời fR: khi có tải theo từng
giờ thì tính được tỉ số mặt trời cho hệ thống theo
từng giờ. Giả sử lượng nước cứ tải đều trong
một giờ, thì đúng một giờ sẽ tải đúng lượng
nước yêu cầu trong giờ đó. Để chương trình mô
phỏng đúng thực tế, tác giả cũng chia nhỏ lượng
nước đó ra làm 10 phần. Việc làm này đảm bảo
cho lượng nước trích ra, cũng như nạp lại được
đều đặn mô phỏng đúng với thực tế.
4. Chương trình mô phỏng
Dựa vào cơ sở lý thuyết để lập chương
trình mô phỏng bằng ngôn ngữ Matlap. Dưới
đây là giao diện của hai hệ thống bộ thu tấm
phẳng và bộ thu ống chân không.


Tạp chí Đại học Công nghiệp

Dữ liệu đầu ra có thể xuất dạng bảng và dạng đồ thị

5. Kết quả và bình luận
Bộ thu ống chân không và bộ thu tấm
phẳng có lần lượt diện tích là 2,8 m2, 2,6 m2;
tổng lượng nước là 194 kg, 175 kg. Lượng nước
tải là 144 lít/ngày đều đặn vào các giờ: 10, 11,
12 và 14, 15, 16 (24 lít/giờ) với lượng nước cấp
lại vào bình ổn định ở 30oC, nhiệt độ nước yêu
cầu là 60oC. Ngoại trừ hiệu suất bộ thu có tính
so sánh giữa hai hệ thống còn các đồ thị khác
chỉ có tính tham khảo.
Xuất một ngày bất kỳ được chọn là ngày
26 tháng 4. Các ô vuông và các ô tròn lần lượt
biểu thị cho bộ thu tấm phẳng và bộ thu ống
chân không.

Ở hình 2, nhiệt lượng hữu ích (Qu,MJ) của
loại bộ thu ống chân không cao hơn loại bộ thu
tấm phẳng theo từng giờ tùy theo diện tích nhận
bức xạ cao hơn tương ứng của loại bộ thu ống
chân không là 2,8 m2 và của loại bộ thu tấm
phẳng là 2,6 m2 thể hiện bằng hai đường màu
xanh tổng cả ngày Qu: 23,19>16,73 MJ; còn
đường màu đỏ nằm phía dưới là lượng bức xạ
lên 1m2 mặt phẳng nghiêng (tổng cả ngày It =
15,48 MJ).

Hai đồ thị sau thể hiện hoạt động của bộ
thu ống chân không và bộ thu tấm phẳng tại TP.
Hồ Chí Minh.


Hình 3. Hiệu suất ngày 26/04

Hình 2. It và Qu ngày 26/04

Hình 3 thể hiện hiệu suất (η, %) của cả hai
hệ thống theo từng giờ trong ngày. Vào giữa
trưa, hiệu suất của bộ thu tấm phẳng tăng cao vì
nhận được lượng bức xạ lớn hơn so với buổi
sáng và buổi chiều. Còn đối với bộ thu ống chân
43


Nghiên cứu ứng dụng hệ thống đun nước nóng bằng…

không thì hiệu suất khá ổn định suốt ngày và
cao hơn bộ thu tấm phẳng. Hiệu suất trung bình
cả ngày của bộ thu ống chân không đạt 53,44%
cao hơn của bộ thu tấm phẳng đạt 41,57%. Dưới
đây là các đồ thị của hai loại bộ thu ống chân
không và bộ thu tấm phẳng của cả năm.

tháng cũng không chênh lệch nhau nhiều và có
giá trị khá lớn nên tỉ số mặt trời trung bình cả
năm cao (fsolar = 0,8785). Miền Trung và miền
Bắc chênh lệch bức xạ theo mùa là lớn và lượng
bức xạ trung bình của cả năm không cao bằng ở
miền Nam nên tỉ số mặt trời trung bình năm ở
miền Trung và miền Bắc lần lượt là 0,78; 0,757.
6. So sánh độ tin cậy - chương trình tính &
thực nghiệm


6.1 So sánh chương trình eva_connect1 với
thực nghiệm

Hình 4. Hiệu suất BTOCK & BTTP theo năm
Hình 4: hiệu suất của bộ thu ống chân
không theo từng tháng luôn lớn hơn của bộ thu
tấm phẳng, trung bình cả năm hiệu suất hai bộ
thu đạt 51,6%; 42,545%.

Hình 5. Tỉ số mặt trời BTOCK theo năm
Hình 5: ba vị trí khác nhau ở Việt Nam
được chọn tính trong mô phỏng hệ thống nước
nóng là Hồ Chí Minh (Φ = 10,8oN), Đà Nẵng (Φ
= 16,02oN), Hà Nội (Φ = 21,02oN) trong các mô
phỏng, các bộ thu đều có diện tích không đổi và
góc đặt trùng với góc vĩ độ để tỉ số mặt trời có
thể đạt cực đại. Nhìn chung, bức xạ mặt trời
tăng lên từ miền Bắc vào miền Nam dẫn tới kết
quả quan sát được là tỉ số mặt trời ở miền Nam
cao hơn miền Bắc. Khu vực miền Nam chỉ có
hai mùa mưa, nắng nhưng lượng bức xạ từng
44

Các đồ thị lần lượt thể hiện độ chính xác
của chương trình tính với đo đạc theo từng giờ
của từng 3 ngày liên tiếp từ hệ thống bộ thu ống
chân không theo sự thay đổi của tải và các lớp
nhiệt của bình chứa với nước cấp vào bình chứa
tại nhiệt độ cố định là 30oC, nhiệt độ lúc bắt đầu

mô phỏng khác nhau.

Hình 6. Nhiệt độ lớp 1, 3 ngày 17 tới 20/6/2008
Hình 6 thể hiện độ chính xác của nhiệt độ
bình chứa phân tầng nhiệt theo từng giờ từ ngày
17 tới 20/06/2008 với mức tải đều đặn là 144
lít/ngày vào lúc 10, 11, 12 và 14, 15, 16 giờ
hằng ngày (24 lít/giờ). Lớp 1 sai số giữa nhiệt
độ đo đạc và nhiệt độ tính được từ chương trình
theo từng giờ là từ 0,19oC tới 3,89oC hay theo
nhiệt độ trung bình của cả 3 ngày khoảng 3,2%
hoặc 1,78 oC. Lớp 3 sai số giữa nhiệt độ đo đạt
và nhiệt độ tính được từ chương trình theo từng
giờ là từ 0,0387oC tới 6,29oC hay theo trung


Tạp chí Đại học Công nghiệp

chạy không tải. Tại lớp 1 sai số từ 0,12oC tới
4,7oC hay theo trung bình của cả 3 ngày cao
khoảng 4% hoặc 2,33oC. Tại lớp 3 sai số từ
0,2642oC tới 3,28oC hay theo trung bình nhiệt
độ của cả 3 ngày cao khoảng 3,35% hoặc 1,7oC.
Nhiệt độ chênh lệch trung bình của lớp 1 và 3
theo chương trình là 6,56oC.

bình nhiệt độ của cả 3 ngày khoảng 4,23% hoặc
1,84oC. Nhiệt độ chênh lệch trung bình của lớp
1 và 3 theo chương trình là 12 oC.


6.2 So sánh chương trình eva_connect1
với Chương trình F-Chart
So sánh chương trình eva_connect1 viết
cho bộ thu ống chân không với chương trình FChart với dữ liệu thời tiết ở TP. Hồ Chí Minh.
Bộ thu ống chân không có diện tích 2,8 m2,
lượng nước sử dụng là 150 lít/ngày, nhiệt độ
nước yêu cầu là 55oC, nhiệt độ nước cấp trở lại
là 30oC.

Hình 7. Nhiệt độ lớp 1, 3 ngày 26 tới
28/6/2008
Hình 7: từ ngày 26 tới ngày 28/06/2008
với mức tải đều đặn là 144 lít/ngày nhưng tải
theo giờ thay đổi: vào lúc 10, 11 giờ tải là 48
lít/giờ và 14, 15 giờ tải là 24 lít/giờ hằng ngày.
Lớp 1 sai số từ 0,266oC tới 4,94oC hay theo
trung bình nhiệt độ của cả 3 ngày khoảng 3,34%
hoặc 1,73 oC. Lớp 3 sai số từ 0,176oC tới 5,5oC
hay theo trung bình nhiệt độ của cả 3 ngày cao
khoảng 4,18% hoặc 1,78oC. Nhiệt độ chênh lệch
trung bình của lớp 1 và 3 theo chương trình là
9,93oC.

Tỉ số mặt trời trung bình năm tại TP. Hồ
Chí Minh của bộ thu ống chân không có sai số
trung bình năm là 0,01.

nhiet do trung binh lop 1, 3 cua binh chua tu ngay 4-6 thang 7
80
t1,t3: thuc nghiem co mau do


75
70

Hình 9. Tỉ số mặt trời (fR)

65

7. Phân tích kinh tế - kỹ thuật

nhiet do, C

60
55
50
45
40
35
30

0

10

20

30

40
gio


50

60

70

Hình 8. Nhiệt độ lớp 1, 3 ngày 4 tới 6/7/2008
Hình 8 dùng để kiểm tra độ chính xác của
nhiệt độ từ chương trình tính với nhiệt độ đo đạc
theo từng giờ từ ngày 4 tới ngày 6/07/2008,

80

Bộ thu ống chân không gồm 18 ống nói
trên với lượng nước sử dụng mỗi ngày là 144
lít, trung bình năm có tỉ số mặt trời là 0,863 tại
TP. Hồ Chí Minh, năng lượng mặt trời cung
cấp cho nước nóng đã sử dụng cả năm là
tongQ = 1584,4 kWh của bộ thu. Vốn đầu tư
ban đầu của hệ thống là 6,3 triệu đồng nếu so
sánh với máy đun nước nóng bằng điện có vốn
đầu tư ban đầu là 2 triệu đồng. Nếu chỉ tính
tiền điện (với giá điện 1500 đồng/kW, mức lạm
phát hằng năm I = 10%, mức chiết khấu hằng
45


Nghiên cứu ứng dụng hệ thống đun nước nóng bằng…


năm d = 13%) ta có đồ thị thời gian hoàn vốn
như sau:

So với chỉ dùng điện đun nước tắm do
không tốn phí đầu tư ban đầu nên thời gian hoàn
vốn khoảng 2,1 năm, đến năm thứ 16 sẽ sinh lợi
hơn 36,58 – 4,9 = 31,68 triệu đồng (lợi hơn
7,465 lần).
8. Kết luận

4

4

do thi thoi gian hoan von

x 10

3.5
Sinh loi
3

tien. VND*103

may dung dien
2.5
2
1.5
1
nuoc nong mat troi

0.5
0

0

2

4

6

8
nam

10

12

14

16

Hình 10. Đồ thị thời gian hoàn vốn
So với máy đun nước nóng bằng điện thì
chỉ 1 năm 10 tháng sử dụng sẽ hoàn vốn, năm
thứ 16 sẽ sinh lợi là 33,2– 4,9 = 28,3 triệu
đồng (lợi 6,77 lần) và còn hơn thế do tuổi thọ
của hệ thống bộ thu ống chân không là từ 15
năm trở lên.


46

Các nghiên cứu trên bước đầu đã giúp
người tiêu dùng hiểu biết về thiết bị. Các nội
dung này là những ý kiến tư vấn rõ ràng, xác
thực về mặt kỹ thuật, chất lượng sản phẩm và
hiệu quả kinh tế của hệ thống nước nóng sử
dụng bằng năng lượng mặt trời. Cụ thể là 3
chương trình thiết thực: connect1.m viết cho hệ
thống tấm phẳng, eva_connect1.m viết cho thế
thống ống chân không, economic.m dùng tính
kinh tế cho hệ thống nước nóng bằng năng
lượng mặt trời.
Hiệu suất bộ thu ống chân không cao
hơn tấm phẳng từ 5 tới 10%.
Tỉ số mặt trời tại Hồ Chí Minh 0,878 cao
hơn tại Đà Nẵng 0,78, Hà Nội 0,757 vì thế khả
năng ứng dụng là rất tốt.
Hệ thống ống chân không nhận nhiệt đều
đặn hơn loại tấm phẳng nên sẽ cung cấp nước
nóng đều hơn. Đặc biệt, khi nhiệt độ hệ thống
tăng cao thì hiệu suất bộ thu giảm rất ít so với
bộ thu tấm phẳng.
Thời gian hoàn vốn nhanh (khoảng 2
năm) nên cho phép giảm gánh nặng điện lưới
quốc gia phục vụ dân sinh.


Tạp chí Đại học Công nghiệp


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]

I. Budihardjo*, G. L. Morrison and M. Behnia (2002), Performance of a Water-in-Glass
Evacuated Tube Solar Water Heater, School of Mechanical and Manufacturing Engineering,
University of New South Wales, Sydney 2052 Australia.

[2]

I. Budihardjo, G.L. Morrison and M. Behnia (2003), Development of TRNSYS Models for
Predicting the Performance of Water-in-Glass Evacuated Tube Solar Water Heaters in
Australia, School of Mechanical and Manufacturing Engineering, The University of New
South Wales, Sydney 2052 AUSTRALIA

[3]

I. Budihardjo1, G.L. Morrison and M. Behnia ,(2004), Performance of single-ended

1

2

1

evacuated Tube solar water heaters, School of Mechanical and Manufacturing Engineering,
2

University of New South Wales, Sydney 2052, University of Sydney, Sydney 2006
AUSTRALIA ,
[4]


I.Budihardjo and G.L.Morrison (2005), Performance of Water-in-Glass Evacuated Tube
Solar Water Heaters, School of Mechanical and Manufacturing Engineering, University of
New South Wales, Sydney 2052, AUSTRALIA

[5]

Graham L. Morrison, Indra Budihardjo and Masud Behnia, Heat Transfer in Evacuated
Tubular Solar Collectors, School of Mechanical and Manufacturing Engineering,University
of New South Wales, Sydney 2052 Australia

[6]

Graham L. Morrison & Byard D. Wood, Packaged Solar Water Heating Technology Twenty
Years Of Progress

[7]

Jean Philippe PRAENE, François GARDE, Franck LUCAS, Dynamic Modelling And
Elements Of Validation Of Solar Evacuated Tube Colletors, Laboratoire de Génie Industriel,
Equipe Génie Civil Thermique de l’Habitat, IUT de Saint-Pierre, Université de La Réunion,
40 avenue de Soweto, France

[8]

Masud BEHNIA and Graham MORRISON, Flow Visualization and Heat Transfer in Solar
Hot Water Systems

[9]


Meeting Report, Annex 3, Analysis And Explanation Of Theconversion Factor For Solar
Thermal Collectors

[10] Duffie, J.A. and Beckman, W.A. (1991), Solar Engineering of Thermal Processes, Wiley,
New York.
[11] Nguyễn Công Vân (2005), Năng lượng mặt trời (Quá trình nhiệt và ứng dụng), Nhà xuất bản
Khoa học Kỹ thuật.
[12] Hoàng Đình Tín (2001), Truyền nhiệt & Tính toán thiết bị trao đổi nhiệt, Nhà xuất bản Khoa
học Kỹ thuật.

47



×