ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
––––––––––––––––––
NGUYỄN THỊ HƯƠNG
THƠ BÙI THỊ TUYẾT MAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
THÁI NGUN - 2019
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ HƯƠNG
THƠ BÙI THỊ TUYẾT MAI
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN THỊ VIỆT TRUNG
THÁI NGUYÊN - 2019
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Cơng
trình có sự hỗ trợ từ giáo viên hướng dẫn PGS.TS. Trần Thị Việt Trung. Các nội
dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực, khách quan và chưa
từng được ai cơng bố trong bất cứ cơng trình nghiên cứu nào trước đây.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
NGUYỄN THỊ HƯƠNG
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo PGS. TS Trần
Thị Việt Trung đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để tác giả
hoàn thành luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, khoa
Sau đại học trường Đại học Sư phạm- Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp
đỡ tác giả nghiên cứu, học tập và hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn cũng xin chân thành cảm ơn nhà thơ Bùi Thị Tuyết Mai
và gia đình nhà thơ đã tận tình giúp đỡ tác giả về mặt tư liệu để phục vụ cho luận
văn.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tơi hồn
thành luận văn này.
Thái Ngun, ngày 02 tháng 7 năm 2019
Tác giả
Nguyễn Thị Hương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii
MỤC LỤC............................................................................................................iii
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 8
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 9
7. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 9
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................. 10
Chương 1: THƠ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ NỮ NHÀ THƠ DÂN TỘC
MƯỜNG- BÙI THỊ TUYẾT MAI ..................................................................... 10
1.1. Vài nét khái quát về thơ nữ dân tộc thiểu số thời kỳ hiện đại .................... 10
1.2. Nữ nhà thơ dân tộc Mường- Bùi Thị Tuyết Mai ........................................ 18
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ....................................................................................... 28
Chương 2: NHỮNG CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG THƠ BÙI THỊ
TUYẾT MAI ...................................................................................................... 30
2.1. Khái niệm Cảm hứng và Cảm hứng chủ đạo trong thơ .............................. 30
2.2. Cảm hứng đầy tự hào viết về quê hương, cuộc sống, con người xứ Mường........ 31
2.2.1. Quê hương xứ Mường với vẻ đẹp đầy huyền tích, huyền thoại ............. 31
2.2.2. Con người miền núi: mộc mạc, chân thành nhưng cũng rất lãng mạn............ 36
2.3. Cảm hứng viết về bản sắc văn hóa Mường với niềm yêu mến và tự hào .......... 41
2.3.1. Bản sắc văn hóa Mường qua những phong tục tập quán ....................... 41
2.3.2. Tự hào về vốn văn hóa truyền thống của tộc người Mường ................... 48
2.4. Cảm hứng viết về cái tôi cá nhân người phụ nữ Mường thời kỳ hiện đại ...... 51
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Cơng nghệ thông tin – ĐHTN
2.4.1. Cái Tôi cá nhân mang vẻ đẹp truyền thống ............................................ 52
2.4.2. Cái tôi cá nhân - người phụ nữ trí thức Mường thời kỳ hiện đại ............ 57
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ....................................................................................... 62
Chương 3: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT NỔI BẬT TRONG THƠ
BÙI THỊ TUYẾT MAI ....................................................................................... 64
3.1. Hình ảnh thơ, biểu tượng thơ mang đậm màu sắc Mường ......................... 64
3.1.1. Hình ảnh thơ đậm màu sắc Mường ......................................................... 64
3.1.2. Những biểu tượng thơ mang đậm bản sắc Mường .................................. 70
3.2. Ngôn ngữ thơ .............................................................................................. 75
3.2.1. Ngôn ngữ thơ mộc mạc, hồn nhiên, giàu hình ảnh mang màu sắc ngôn
ngữ dân gian dân tộc Mường ................................................................... 75
3.2.2. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, giàu tính tạo hình .................................... 78
3.3. Giọng điệu thơ ............................................................................................ 83
3.3.1. Giọng thơ trữ tình, hồn nhiên, trong sáng, nồng nàn mà sâu lắng .......... 84
3.3.2. Giọng thơ giàu chất suy tư, triết lí ......................................................... 89
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ....................................................................................... 92
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 92
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 98
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Hơn nửa thế kỉ qua, văn học hiện đại các dân tộc thiểu số (DTTS) nói
chung, thơ ca hiện đại của các dân tộc thiểu số nói riêng đã được khẳng định là
một bộ phận văn học có vẻ đẹp riêng, có sắc thái riêng, in đậm dấu ấn tâm hồn
và giàu bản sắc văn hóa các dân tộc anh em, với những cá tính sáng tạo độc đáo.
Riêng trong lĩnh vực thơ ca, các nhà thơ dân tộc ít người đã đóng góp vào nền
thơ ca Việt Nam hiện đại một mảng mầu riêng biệt, sinh động, đặc sắc với những
gương mặt thơ mới, với những giọng điệu thơ mang nét đặc trưng dân tộc và
miền núi. Một trong số các gương mặt thơ nữ DTTS có giọng điệu riêng, phản
ánh rõ bản sắc văn hóa tộc người khá tiêu biểu và rõ nét là nhà thơ dân tộc Mường
Bùi Thị Tuyết Mai.
1.2. Là nữ nhà thơ dân tộc Mường (thuộc dạng hiếm hoi), Bùi Thị Tuyết
Mai đã để lại dấu ấn trong lòng người đọc với một giọng thơ trong trẻo, hồn
nhiên với những hình ảnh thơ mang đậm nét đặc trưng của khơng gian Mường,
của văn hóa Mường, rất truyền thống nhưng cũng rất hiện đại. Bắt đầu sáng tác
từ năm 1993 đến nay, chị đã cho ra đời 05 tập thơ, 01 cuốn tiểu luận, phê bình
văn học nghệ thuật; 01 cuốn hồi ký. Chị đã được nhận một số giải thưởng về văn
học như: Giải B (khơng có giải A) Giải thưởng VHNT các dân tộc thiểu số Việt
Nam cho tập Mưa trong nhà (1998), Giải C Cuộc vận động sáng tác Văn học
Nghệ thuật Báo chí tỉnh Hịa Bình 10 năm Đổi mới (1991-2000) cho tập Trầu
đỏ môi ai (1999). Giải C văn học nghệ thuật các DTTS Việt Nam cho tập thơ
Nơi cất rượu (2004), Giải A VHNT tỉnh Hịa Bình 5 năm (2001-2006) cho tập
Mường trong (2005), Giải C VHNT các DTTS Việt Nam cho tập thơ Binh
boong (2008), Giải Tư Thơ về Hà Nội 2008-2010, nhân dịp Đại lễ Kỷ niệm
1000 năm Thăng Long - Hà Nội; Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật
Trung ương cũng đã Tặng thưởng Giải khuyến khích cho cuốn sách: Tiểu luận,
phê bình văn học nghệ thuật của chị với Chùm 4 bài viết: “Dân ca ví, giặm
trong âm nhạc Nguyễn Tài Tuệ”; “Mấy vấn đề về văn học nghệ thuật các
dân tộc Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế”; “Mấy vấn đề bồi dưỡng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Cơng nghệ thông tin – ĐHTN
tác giả văn học nghệ thuật trẻ người dân tộc thiểu số”; “Dịch văn học bằng
tiếng mẹ đẻ ra tiếng phổ thơng”, (năm 2016).
Có thể thấy rằng: Bùi Thị Tuyết Mai thực sự là một nữ nhà thơ DTTS đã
có những đóng góp, đã có những thành tựu đáng ghi nhận trong lĩnh vực sáng
tác. Chị xứng đáng được trân trọng và ghi nhận bởi người đọc và những người
làm nghiên cứu phê bình. Tuy nhiên, cho tới nay việc nghiên cứu, phê bình về
những sáng tác của chị cịn rất khiêm tốn, chưa xứng đáng với những gì chị đã
làm được, đã cống hiến cho văn học DTTS nói chung, cho thơ ca DTTS nói
riêng. Chính vì vậy chúng tôi đã lựa chọn những sáng tác thơ của chị làm đề tài
nghiên cứu, nhằm mục đích: chỉ rõ những đặc điểm nổi bật, những sáng tạo độc
đáo, cũng như những đóng góp của nữ nhà thơ trong việc làm đa dạng, phong
phú hơn cho thơ ca DTTS Việt Nam hiện đại.
1.3. Qua việc nghiên cứu thơ Bùi Thị Tuyết Mai- một nhà thơ nữ DTTS
khá tiêu biểu thời kì hiện đại, chúng tơi muốn được đóng góp thêm một tiếng nói
vào việc khẳng định những thành tựu cùng những nét đặc sắc của các nhà thơ nữ
DTTS trong sự phát triển đa dạng, phong phú của thơ nữ Việt Nam thời kỳ hiện
đại nói riêng, cũng như đối với sự vận động phát triển của thơ ca DTTS Việt
Nam nói chung.
1.4. Từ kết quả nghiên cứu trên, chúng tơi mong rằng sẽ có thêm một tài
liệu mới góp phần khẳng định giá trị, vẻ đẹp của bộ phận văn học DTTS Việt
Nam, để bổ sung vào chương trình giảng dạy Văn học địa phương ở các trường
Phổ thông khác nhau thuộc khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam- nơi chúng tơi
đang thực hiện chương trình giảng dạy này.
2. Lịch sử vấn đề
Bùi Thị Tuyết Mai là một nhà thơ nữ DTTS khá tiêu biểu, chị đã có nhiều
tập thơ, bài thơ đạt Giải thưởng Trung ương và Địa phương. Thơ chị là tiếng nói
của một người con gái, một người phụ nữ Mường rất truyền thống và cũng rất hiện
đại. Vì thế, thơ của chị đã thu hút được sự chú ý cũng như những tình cảm yêu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Cơng nghệ thơng tin – ĐHTN
mến của người đọc. Chính vì vậy, trong khoảng hơn 20 năm qua, thơ của chị đã
có khá nhiều bài viết giới thiệu, phê bình và trong nhiều cơng trình nghiên cứu
chung về văn học dân tộc nhắc tới, điểm tới. Bước đầu khảo sát, chúng tơi nhận
thấy có một số bài, một số nhận xét cụ thể về thơ chị như sau:
2.1.Trong các cơng trình trình nghiên cứu chung về văn học DTTS Việt Nam
hiện của các nhà nghiên nhà nghiên cứu, lí luận phê bình như: Lâm Tiến, Trần Thị
Việt Trung, Phạm Quang Trung, Hồng An, Lộc Bích Kiệm, Cao Thị Hảo... khi viết
khái quát về thơ ca các DTTS đều đã nhắc đến cây bút thơ dân tộc Mường- Bùi Thị
Tuyết Mai với những lời trân trọng, đều khẳng định chị là một trong các nhà thơ
DTTS trẻ tiêu biểu thế hệ 7x, có giọng điệu thơ riêng đậm chất Mường.
- Tác giả Lâm Tiến trong bài nghiên cứu chung về Thơ văn dân tộc thiểu
số sáu năm đầu thế kỷ XXI, khi nhận định về tập thơ Ngược gió năm 2006 của
nhà thơ Y Phương đã khẳng định những sáng tạo mới của nhà thơ và đã nhắc tới
nhà thơ Bùi Thị Tuyết Mai như một sự gặp gỡ về sự đổi mới tư duy trong sáng
tác của hai nhà thơ này: “ Với thể thơ tự do, ông đã đưa vào những suy tưởng
mới về con người, cuộc sống, về nhân tình thế thái. Có thẻ thấy tư duy mới đó ở
cây bút trẻ Bùi Thị Tuyết Mai” [45;555].
- Tác giả Trần Thị Việt Trung trong cuốn Nghiên cứu, lí luận phê bình
Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại- Diện mạo và đặc điểm
đã nhận định: “Bùi Thị Tuyết Mai (Hịa Bình) là nhà thơ nữ dân tộc Mường đầu
tiên, với các tập thơ: Mưa trong nhà, Trầu đỏ môi ai, Nơi cất rượu… với phong
cách mới có hơi thở Thường, Rang, Bộ, Mẹng” [52;207] .
- Tác giả Lộc Bích Kiệm trong cuốn Văn học các dân tộc thiểu số một
bộ phận đặc thù của văn học Việt Nam cũng đã viết: “Nhà thơ Bùi Tuyết Mai
với cảm xúc về cội nguồn luôn thường trực, cháy bỏng, da diết khiến trong thơ
chị luôn chứa đựng một không gian sinh hoạt Mường. Không gian Mường luôn
ám ảnh chị để rồi mỗi bài thơ, tứ thơ, câu thơ đều thấm đẫm tình Mường”
[35;60].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Cơng nghệ thông tin – ĐHTN
- Phạm Quang Trung trong cuốn Hồn cây sắc núi nhận định: “Mai đã
vươn lên đứng ở hàng đầu những nhà thơ trẻ Việt Nam dầy triển vọng. Mai lại
có cái nhiều nhà thơ trẻ khác khơng có điều kiện có: chất dân tộc và miền núi
của mình” [50;146].
2.2. Trong các bài viết trực tiếp về tác giả Bùi Thị Tuyết Mai và các tác
phẩm của chị. Có các bài viết của Phạm Tiến Duật, Nguyễn Quang Thiều, Mai
Liễu, Nguyễn Thị Thu Hiền, Lady Borton, Nguyên Bình, Thiếu Khanh ... Cụ thể
như: Trong lời tựa tập thơ Nơi cất rượu của Bùi Thị Tuyết Mai nhà thơ Phạm
tiến Duật đã trân trọng giới thiệu sự có mặt của nữ nhà thơ DTTS trẻ tuổi này:
“Thế là kho tàng thơ của các nhà thơ hiện đại Việt Nam lại có thêm một tập thơ
hay và đội ngũ các cây bút người dân tộc thiểu số có thêm một nhà thơ nữ với
rất nhiều hứa hẹn của một chặng đường đóng góp” [22;7]. - Trong lời giới thiệu
cho tập Mưa trong nhà (NXB Văn hóa dân tộc 1998) nhà thơ Nguyễn Quang
Thiều viết: “Thơ Bùi Tuyết Mai có ba phẩm chất nổi trội và quan trọng. Đó là
sự thảng thốt, Tính ý tưởng và trí tưởng tượng, và một phẩm chất đương nhiên
mà dù chị khơng cố tình phơ bày, nó cứ nằm trong nhiều câu thơ, đơi khi chi phối
tồn bộ bài thơ. Đó là cách cảm, cách nghĩ và thổ ngữ của dân tộc Mường của
chị” [20;6]. - Nhà thơ Mai Liễu khi đọc bài thơ Hi vọng của Bùi Thị Tuyết Mai
đã phát hiện: “Thơ Bùi Tuyết Mai độc đáo ở sự suy tư, một hiện tượng ít gặp ở
các tác giả thơ nữ dân tộc thiểu số. Cũng nói về nỗi cơ đơn, về tình u tan vỡ,
thơ chị không ủy mỵ, cũng không man mác buồn đau mà luôn lấp lánh những kỉ
niệm, hồi ức và hy vọng, Đó là một tính cách mạnh mẽ tự tin, biết chấp nhạn và
cũng dám dâng hiến” [56]. -Tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền trong bài Văn học
hiện đại dân tộc Mường: Những khn mặt đã có những nhận xét: “Còn trẻ
về cả tuổi đời và tuổi nghiệp, Bùi Thị Tuyết Mai không rụt rè như phần lớn phụ
nữ dân tộc thường kín đáo đến rụt rè. Vẫn là cơ gái Mường thuần khiết và ý nhị,
chị luôn hướng sự tìm tịi mới mẻ đến táo bạo trong thơ.” [57]- Trần Vũ Long
đã viết về thơ Bùi Thị Tuyết Mai với một giọng điệu dầy khẳng định, ngợi ca:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
“Bùi Thị Tuyết Mai đã chinh phục người đọc bằng một giọng thơ trong trẻo, mới
lạ, hồn nhiên, giàu hình ảnh, trữ tình, mềm mại, mang đậm bản sắc văn hóa
Mường nhưng vẫn hiện đại. Với tình u văn hóa dân tộc, bằng cách cảm cách
nghĩ tinh tế và nhuần nhị, chị đã dẫn dắt người đọc bước vào không gian văn
hóa đậm đà bản sắc Mường” [58]. - Tác giả Ngun Bình Trong bài Nhà thơ
Bùi Tuyết Mai: Tơi sinh ra giữa vũ trụ Mường đã đưa ra một số nhận xét,
nhận định rất chính xác về đặc điểm thơ Bùi Thị Tuyết Mai: “Thơ của chị đậm
chất Mường. Một chất Mường vừa nguyên sơ vừa hiện đại. Chất Mường ấy thể
hiện ở mọi phương diện, từ thi liệu tới giọng điệu, từ hình ảnh đến lối cảm, lối
nghĩ… có ý kiến từng nhận xét: thơ của chị rất lạ; lạ vì trong trẻo; lạ vì cái chất
sống hồn nhiên, tuy phải va chạm với thành thị; và lạ vì có một khơng khí núi đồi
nương rẫy phủ lên ngôn từ thi ca” [59]. - Thu Huyền trong bài Bùi Thị Tuyết
Mai đến với phố phường thi ca bằng vị chanh non đã chỉ ra nét đặc sắc riêng
của thơ Bùi Thị Tuyết Mai: “Thơ chị ăm ắp sự sống của người vùng cao, nhưng
không thô mộc mà lại nên thơ, tươi tắn; bởi thế nó đi vào lịng người đọc một
cách tự nhiên. Ấn tượng về thơ chị không đến từ cái âm hưởng của sự táo bạo,
quyết liệt như một số nhà thơ nữ trước và cùng kì như Dư Thị Hồn, Vi Thùy
Linh … mà đến từ cái “vị chanh non” thơm mát, từ cái duyên dáng của con nai
nhỏ nơi núi rừng Hịa Bình q chị” [60]. - Nhà phê bình Thiếu Khanh trong bài
Binh Boong- một cung điệu lạ đã nhận định: “Thơ Bùi Tuyết Mai mang đậm
tinh thần văn hóa Mường. Đó là điều hiển nhiên. Và có lẽ tinh thần văn hóa độc
đáo đó đã thấm nhuần vào tâm hồn và máu thịt chị làm nên sự khác biệt và độc
đáo trong thơ của chị.” [61]. - Tác giả Nguyễn Chí Hồn cũng đã viết: “Nghệ
thuật của Bùi Thị Tuyết Mai khi biểu đạt những tình u ấy có thể nói gọn trong
hai chữ “tự nhiên”, nương theo một khía cạnh hồn nhiên tự bản chất của con
người truyền thống vùng sơn cước. Nhưng đó là một sự hồn nhiên lắng đọng và
chắt lọc trên ngôn từ, bằng thứ ngôn ngữ đặc trưng của thơ ca. Năm mươi bảy
bài thơ trong vòng một trăm trang sách. Hầu hết là những bài thơ ngắn mà âm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
vang, thực sự âm vang như tiếng chiêng Mường” [62]. - Phúc Vĩnh trong bài viết
“Người đẹp trên núi” làm thơ có nhận định: “Cánh đồng thi ca Việt Nam thỉnh
thoảng lại phát lộ đôi ba “hương lá” lạ đến từ rẻo đất miền cao. Không chỉ là
“người đẹp trên núi” làm thơ, những áng thơ của Bùi Tuyết Mai thực sự là tiếng
nói tâm tình của người Mường” [63]. - Nguyên Bình trên trang dongvan.gov.vn
nhận định: “... “Tất cả nội lực văn hố, ngơn ngữ đó của dân tộc Mường in đậm
lên hồn thơ Bùi Thị Tuyết Mai, làm cho thơ chị vừa hiện đại, vừa đậm đà bản
sắc dân tộc”[64] - Trúc Thông đánh giá về bài Mưa Xuân Trong cuốn Tuyển
tập Văn học dân tộc và miền núi như sau: “Những cảm giác, những rạo rực
nguyên sơ, nguyên bản (chưa bị văn minh hiện đại đánh bóng, làm lì) thức dậy
trong những âm thanh, hình ảnh, qua những dạng thức của con người và thiên
nhiên” [54;288]. - Nhà thơ Hữu Thỉnh trong cuốn Nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ cuộc
đời và tác phẩm đã nhận định về nhà thơ Bùi Thị Tuyết Mai như sau : “Tác giả
Bùi Tuyết Mai là nhà thơ đang nổi của dân tộc Mường, chị rất có ý thức về giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc” [27;11]. - Tác giả Dương Thanh Tùng
trong bài viết Tiếng “gà Mường” giữa phố cổ Hội An – Tác giả Bùi Thị Tuyết
Mai có viết: “Hồn nhiên, trắc ẩn. Thơ Bùi Tuyết Mai có hơi thở của núi rừng
cao chín tầng mây, có mùi khét khê của đám nương vừa đốt và có tiếng hát của
con gà mái Mường Mừ, cứ lảnh lót trong đêm trăng rằm phố Hội…” [65]- Theo
Lady Borton (Xuân Oanh dịch) trong Tuyển tập song ngữ- Bilingual
anthology, Thơ nữ Việt Nam từ xưa đến nay nhận định: “Bài “Mời rượu”
của Bùi Thị Tuyết Mai có tiếng gọi quyến rũ vươn tới mọi nền văn hóa”[55;85].
Qua những nhận định, đánh giá trên, chúng ta nhận thấy: Hầu hết các tác
giả đều khẳng định Bùi Thị Tuyết Mai là một nhà thơ DTTS tiêu biểu đã có những
đóng góp đáng trân trọng vào việc phản ánh và thể hiện sinh động bản sắc văn hóa
dân tộc Mường trong đời sống thơ ca DTTS thời kỳ. Các sáng tác của chị đã thể
hiện một tâm hồn tha thiết, tự hào về vẻ đẹp quê hương con người miền núi và bản
sắc văn hóa Mường; một cái Tơi cá nhân mang vẻ đẹp của người phụ nữ dân tộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
truyền thống kết hợp với cá tính và bản lĩnh của người phụ nữ DTTS hiện đại. Với
những tác phẩm thơ đậm sắc Mường của mình, chị đã đóng góp thêm một hương
sắc lạ làm phong phú thêm cung điệu và màu sắc của thơ nữ DTTS nói riêng, thơ
nữ Việt Nam thời kì hiện đại nói chung.
Tuy nhiên, đây mới chỉ là những nhận xét đánh giá, những bài viết riêng
lẻ chưa có tính hệ thống và tồn diện. Vì vậy, nhằm làm sáng tỏ những nét đặc
sắc, những giá trị, những đóng góp đáng trân trọng, có ý nghĩa của Bùi Thị Tuyết
Mai cho văn học DTTS nói chung, với thơ nữ DTTS nói riêng thì cần thiết phải
có một cơng trình nghiên cứu có tính hệ thống, nghiên cứu một cách khá đầy đủ
và thấu đáo hơn về thơ Bùi Thị Tuyết Mai- để chỉ ra những đặc điểm về nội dung
và nghệ thuật, những nét đặc sắc, những giá trị nhiều mặt về thơ Bùi Thị Tuyết
Mai. Vì những lý do đó, chúng tơi đã lựa chọn nghiên cứu Thơ Bùi Tuyết Mai
để làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Những cảm hứng chủ đạo và
một số đặc điểm nghệ thuật nổi bật trong thơ Bùi Thị Tuyết Mai.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu: Cảm hứng chủ đạo và đặc điểm nghệ
thuật trong 05 tập thơ của Bùi Thị Tuyết Mai.
1- Mưa trong nhà (thơ), Nxb Văn hóa dân tộc, 1998.
2- Trầu đỏ mơi ai (thơ), Nxb Văn hóa dân tộc, 1999.
3- Nơi cất rượu (thơ), Nxb Văn học, 2003.
4- Mường trong (thơ), Nxb Hội Nhà văn, 2005.
5- Binh boong (thơ), Nxb Lao động, 2008.
- Ngồi ra trong q trình nghiên cứu chúng tôi sẽ tiến hành, khảo sát một
số sáng tác của một số nhà thơ DTTS khác để so sánh, đối chiếu với thơ Bùi Thị
Tuyết Mai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát, nghiên cứu khái quát về thơ nữ DTTS Việt Nam thời kỳ
hiện đại.
- Tìm hiểu về con người, sự nghiệp và quan niệm sáng tác thơ Bùi Thị
Tuyết Mai.
- Làm rõ những đặc điểm cơ bản, những nét đặc sắc về nội dung và nghệ
thuật của thơ Bùi Thị Tuyết Mai (qua những cảm hứng chủ đạo và một số đặc
điểm nghệ thuật nổi bật trong thơ Bùi Thị Tuyết Mai).
- Chỉ ra những đóng góp tiêu biểu và khẳng định vị trí của nữ nhà thơ
Mường trong bộ phận thơ nữ DTTS nói riêng, thơ ca các DTTS Việt Nam nói
chung.
- Qua việc nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ hơn về vẻ đẹp, nét đặc sắc
của thơ ca DTTS nói chung và thơ ca nữ DTTS nói riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đã lựa chọn
những phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê phân loại (thống kê tần số xuất hiện các hình ảnh,
tính chất, đặc điểm… của người phụ nữ trong sáng tác của nhà thơ Bùi Thị Tuyết
Mai)
- Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại (ứng dụng vào
việc phân tích các tác phẩm thơ ở hai phương diện (cảm hứng chủ đạo và một số
đặc điểm nghệ thuật).
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (có sử dụng kiến thức về văn hóa
học, dân tộc học để phục vụ cho việc nghiên cứu về tâm lí, tính cách, văn hóa
của con người miền núi).
- Phương pháp so sánh đối chiếu (đặt thơ Bùi Thị Tuyết Mai trong trường
so sánh với các nhà thơ nữ DTTS khác để thấy được tính truyền thống và hiện
đại trong thơ chị).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
- Phương pháp vận dụng Thi pháp học (luận văn đã sử dụng một số thao tác
nghiên cứu của Thi pháp học như: nghiên cứu về giọng điệu, ngôn ngữ, hình ảnh
thơ của Bùi Thị Tuyết Mai để chỉ rõ những đặc điểm đặc sắc trong thơ chị).
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu khá hệ thống và toàn diện ở cả hai
phương diện: Những cảm hứng chủ đạo và một số đặc điểm nghệ thuật nổi bật
trong thơ Bùi Thị Tuyết Mai. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần khẳng định những
nét đặc sắc, đóng góp cụ thể của thơ Bùi Thị Tuyết Mai đối với thơ ca dân tộc
thiểu số Việt Nam hiện đại. Đồng thời, góp phần bổ sung tài liệu tham khảo cụ thể
về các sáng tác của một trường hợp nhà thơ DTTS cụ thể trong mảng văn học dân
tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, phục vụ công tác học tập, giảng dạy về văn học
DTTS Việt Nam trong nhà trường.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, danh mục Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần
Nội dung chính của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát về Thơ nữ dân tộc thiểu số và nữ nhà thơ dân tộc
Mường- Bùi Thị Tuyết Mai.
Chương 2: Những cảm hứng chủ đạo trong thơ Bùi Thị Tuyết Mai.
Chương 3: Một số đặc điểm nghệ thuật nổi bật trong thơ Bùi Thị Tuyết
Mai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
THƠ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ NỮ NHÀ THƠ DÂN TỘC MƯỜNGBÙI THỊ TUYẾT MAI
1.1. Vài nét khái quát về thơ nữ dân tộc thiểu số thời kỳ hiện đại
Thơ ca các DTTS đã tạo cho mình một màu sắc riêng biệt trong đời sống
thơ ca Việt Nam hiện đại, trong số đó có sự góp mặt của khá nhiều các nhà thơ
nữ DTTS. Họ là các nhà thơ nữ thuộc các DTTS khác nhau. Ví dụ như: Nơng
Thị Ngọc Hịa, Đồn Ngọc Minh, Hồng Diệu Tuyết (Tày); Dư Thị Hoàn (Hoa);
Nga Rivê (H’rê); Chu Thùy Liên (Hà Nhì); Cầm Thị Lả, Sầm Nga Di (Thái),
Hà Thị Cẩm Anh, (Mường)...
Các nhà thơ nữ Việt Nam đã xuất hiện trong đời sống thi ca dân tộc từ thời
trung đại, phong kiến, nhưng đến những năm 80 của thế kỷ XX, thì các cây bút
nữ DTTS mới xuất hiện trong đời sống thơ ca dân tộc. Tuy nhiên, mặc dù xuất
hiện khá chậm, muộn hơn trong nền thơ ca dân tộc nói chung, thơ ca dân tộc
miền núi nói riêng nhưng họ đã có sự phát triển nhanh chóng và mau lẹ về đội
ngũ, về số lượng và chất lượng tác phẩm của họ cũng đã được dư luận độc giả
đánh giá cao.
Từ năm trước và sau 1986 những nhà thơ nữ mới chỉ được biết đến qua
các tác giả như: Vi Thị Thu Đạm, Hoàng Thị Cấp, Trần Thị thu Nhiễu, Nơng Thị
Ngọc Hịa,Hồng Diệu Tuyết (Tày); Dư Thị Hoàn (Hoa); Nga Rivê (H’rê); Chu
Thùy Liên (Hà Nhì).... nối tiếp là Thu Bình, Hồng Kim Dung, Tạ Thu Huyền
(Tày); Cầm Thị Lả, Sầm Nga Di (Thái); và đặc biệt là sự có mặt của thế hệ các
nhà thơ trẻ như Bế Phương Mai, Đinh Thị Mai Lan, Hà Thị Hải Yến, Nơng Thị
Hưng, (Tày), Tịng Thị Hân, ... Đây có thể coi là giai đoạn thơ nữ dân tộc thiểu
số phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng nhất về đội ngũ sáng tác (tuy nhiên một số
dân tộc vẫn chưa có nhà thơ nữ của dân tộc mình).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Cơng nghệ thơng tin – ĐHTN
Song song với sự phát triển nhanh và mạnh về đội ngũ, số lượng, chất
lượng tác phẩm của các nhà thơ nữ ngày càng nhiều và được nâng cao hơn. Nếu
như thế kỉ XX của những năm 90 chúng ta biết đến Lối nhỏ (1998) của Dư Thị
Hoàn, một vài tập thơ nhỏ lẻ của Vi Thị Thu Đạm, Hoàng Thị Cấp, Trần Thị Thu
Nhiễu, Nơng Thị Ngọc Hịa... thì đến những năm cuối cùng của thế kỷ này đã
xuất hiện nhiều tập thơ của các tác giả đại diện cho các dân tộc khác nhau. Có
thể kể đến một số tập thơ của các tác giả như Chu thùy Liên với Lửa sàn hoa
(1998); Đóa hoa rừng của Hơ-vê; của Dư Thị Hồn; Sơng ngàn lau (2002) của
Đồn Ngọc Minh; Bế Mai Phương với Bài thơ cho cha (2003), Nơng Thị Ngọc
Hịa với Nước hồ mãi xanh (2004); Hồng Thanh Hương có Tự cảm (2005); Đinh
Mai Lan với Tiếng đàn đêm (2005); Nơi cất rượu (2005); Mường Trong (2006)
của Bùi Thị Tuyết Mai; Lời cầu hôn của rừng (2008); Mùa trăng (2008) của
Nơng Thị Tơ Hường; Hồng Kim Dung với Khúc giao mùa (2008); Tạ Thu
Huyền với Đầy vơi (2008); Phùng Thị Hải Yến với Thơ với bạn thơ (2012)...
Khoảng 30 năm trờ lại đây với sự phát triển mau lẹ, thơ DTTS đã tạo cho
mình một mảng màu riêng biệt, một vẻ đẹp riêng độc đáo, góp phần làm phong
phú thêm, đa dạng cho đời sống thơ ca dân tộc thiểu số, cho thơ nữ Việt Nam
thời kì hiện đại. Đến thế kỉ XX xuất hiện nhiều tập thơ của các nhà thơ nữ dân
tộc thiểu số ra mắt độc giả và có khá nhiều tập thơ được nhận Giải thưởng cao
trong đời sống văn học Việt Nam. Điều này khẳng định sự đóng góp đáng quý
và vị trí của nhưng cây bút nữ DTTS trong nền văn học DTTS Việt Nam thời
kỳ hiện đại. Các tác phẩm được nhắc đến như Đóa hoa rừng của Hơ- vê (đạt Giải
B của Hội nhà văn Việt Nam 1998); Bùi Thị Tuyết Mai có Mưa trong nhà (đạt
Giải B của hội VHNT các DTTS Việt Nam 1998); Trầu đỏ môi ai (đạt Giải C
của Văn học Hịa Bình 10 năm đổi mới); Đầy vơi của Tạ Thu Huyền (giải B giải
thưởng VHNT Lào Cai 2001), giải Khuyến khích Giải thưởng Phan Si Păng
2002), Sơng ngàn lau của Đồn Ngọc Minh (đạt Giải Khuyến khích của hội
VHNT các DTTS Việt Nam 2002); Nơng Ngọc Hịa với Trước gương (đạt giải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
C của hội VHNT các DTTS Việt Nam 1998, giải A của hội VHNT Phú Thọ
1995- 2000); Lời của lá (được tặng - giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam
2001, giải A của Hội VHNT Phú Thọ 2000- 2005); Vườn duyên đạt giải C Hội
VHNT các DTTS Việt Nam 2002; Men qua cõi thiền Giải A của Hội VHNT các
DTTS Việt Nam 2009; Tiếng đàn đêm của Đinh Thị Mai Lan (được giải B của
Hội VHNT các DTTS Việt Nam 2007); Lời cầu hơn của rừng của Hồng Thanh
Hương (đạt giải B (khơng có giải A) của Hội VHNT các DTTS Việt Nam 2009
và giải C của Hội VHNT Lào Cai 2005- 2010) ...
Nội dung chính trong sáng tác mà các cây bút nữ DTTS thời kì hiện đại
đề cập tới là: Phản ánh chân thành, sinh động hình ảnh thiên nhiên, cuộc sống và
con người đồng bào DTTS vùng cao qua từng giai đoạn lịch sử với những biến
cố và thăng trầm của đất nước cùng với lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc trong
thời đại mới.
Điều đầu tiên mà chúng ta nhận thấy trong các sáng tác của họ chính là
tình u q hương, đất nước, niềm tin tưởng và lòng trung thành và tuyệt đối
vào sự lãnh đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Nhắc đến điều này
khơng thể khơng kể đến cây bút người Mông- Vừ Thị Dư đã có những câu thơ
chân thật, tự nhiên khi ca ngợi lãnh tụ như: Nhờ mặt trời cộng với ánh trăng/ Soi
sáng đất nước đêm ngày/ Nhờ Chính phủ và Hồ Chí Minh/ Lãnh đạo các dân
tộc chúng mình/ Có mâm thịt đầy lại ca ngợi Đảng (Nhớ đến Chính Phủ). Nếu
như nhà thơ Hoàng Diệu Tuyết (Tày) thể hiện sự biết ơn đối với Đảng đã đem
lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xóa bỏ cách sống du mục của người dân: Nhà
nhà vui no ấm/ Người người sống sum vầy/ Hạnh phúc trong tầm tay/ Bản định
canh đổi mới/ Nhớ ơn Đẩng suốt đời (Thung lũng màu xanh) thì nhà thơ Bàn
Thị Cúc (Dao) lại khẳng định vai trò to lớn của Đảng đã loại bỏ những hủ tục lạc
hậu đeo bám trong cuộc sống hàng ngày của họ dó là hủ tục bắt con gái cạo trọc
tóc (Mái tóc em) Hay Niê Phương (Ba Na) lại thể hiện sự xúc động trước tình
cảm chân thành, gần gũi của các chiến sĩ bộ đội đã dạy họ cách đối đầu với kẻ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
thù khi bn làng có giặc tới : Họ được cụ Hồ cho cái đầu nở hoa sung/ Cái đầu
ấy bày cho dân làng trồng khoai/ Thì khoai mau lớn/ Bày phụ nữ ni gà/ thì gà
lợn mau to/ Cái đầu ấy chỉ dân làng cầm giáo đánh Tây/ Thì thằng Tây chạy trốn
(Thương người cộng sản)...
Bên cạnh đó các cây bút nữ còn tập trung khắc họa bức tranh thiên nhiên
hoang sơ, hùng vĩ và hiểm trở nhưng cũng rất thơ mộng, trữ tình cùng với vẻ đẹp
tâm hồn con người miền núi mang đậm bản sắc văn hóa vùng miền. Vậy điều gì
đã thơi thúc các cây bút nữ hướng ngịi bút của mình để tạo nên những câu thơ
hay về những cảnh sắc thiên nhiên và cuộc sống con ngời mang đậm vẻ đẹp của
miền sơn cước như vậy? Phải chăng đó chính là tình u tha thiết đối với quê
hương, xứ sở? Đúng vậy, nguồn cảm hứng mãnh liệt trong các sáng tác của các
cây bút nữ đó chính là viết về q hương xứ sở- nơi họ được sinh ra và lớn lên,
gắn bó máu thịt với núi rừng, nương rẫy, sông suối...thân yêu, đồng thời họ đã
thể hiện được niềm tự hào, lòng tự tơn dân tộc và ý thức bảo tồn gìn giữ phát huy
những giá trị truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa miền núi vào trong các
trang thơ của mình. Dù đi đâu, về dâu thì q hương ln là nguồn cảm hứng bất
tận trong mỗi trái tim của mỗi nhà thơ, để họ có thể hát lên những khúc ca về q
hương u dấu của mình. Ví dụ như Nơng Thị Ngọc Hịa với những câu thơ: Bậc
ruộng ngơ lúa xanh non/ Nhà sàn ra vào khơng cúi/ Thống đãng bốn bề gió
thổi/ Cho rừng cho núi mơ trăng (Bậc thang); hay trong bài Mùa hoa mận của
Chu Thùy Liên: Cành mận bung trắng muốt Nhà trình tường ủ hương xôi nếp/
Giục lửa hồng nở hoa trong bếp/ Cho người đi xa nhớ lối trở về; Hoặc những
câu thơ tràn đầy hương vị miền núi của Phùng Thị Hải Yến: Con về.../ Bập bùng
bên bếp lửa dáng mế yêu/ Dấu hỏi oằn in trên vách nứa/ Mùi cá nướng cơm lam
vừa chín/ Vị q hương hóa mặn/ Hay giọt nước mắt con lăn trên núi quê mình
(Vị Quê).
Bên cạnh đó, hình ảnh con người miền núi cũng đã đi sâu vào trong các
sáng tác với những phẩm chất tốt đẹp mang tính truyền thống của các DTTS
như: hiền lành, thơ mộc, cả tin, nhưng cũng rất tài hoa, mạnh mẽ, dũng cảm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
Họ là ai? Họ chính là những người cha, người mẹ miền núi luôn lo toan, vất vả,
chịu thương, chịu khó khơng quản gian khó để chăm ni gia đình với những
đứa con: Bóng mế cịng lưng trảy ngơ/ Cỗi cằn dốc đá/ Gùi lúa chín trên lưng/
Chở bao nhiêu mồ hôi nước mắt/ (Vị quê- Phùng Hải Yến); Vết chai tay dày
thêm/ lưng cha thì cịng xuống/ Đường cày thì phẳng/ Đời cha gập ghềnh (Lời
cha- Bàn Kim Quy); Ngủ đi/ Đôi chân quen leo dốc ngược (Ru con- Bùi Thị
Tuyết Mai); Họ cịn là những cơ gái xinh đẹp, dịu hiền, đảm đang, tháo vát
mang vẻ đẹp khỏe khoắn đầy tính phồn thực: Lũ con gái ngực như quả núi
(Bụng ta đỏ lửa- Sầm Nga Di); Bàn tay ta ngày ngày/Vun vén chồng con/ Đệm
ấm chăn êm/ Rau mềm cơm rẻo/ Mặn mà như suối (Thuổi chéo -Tòng Thị
Hân)...
Có thể thấy, với tình cảm u mến và lịng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc
của những người phụ nữ thì thiên nhiên và cuộc sống con người miền núi được
phản ánh sinh động và rõ nét qua sáng tác của các cây bút nữ trong thời đại mới.
Qua các sáng tác, họ đã góp phần lưu giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống mang đậm bản sắc vùng cao; đồng thời họ cũng đã thể hiện những
tâm tư, tình cảm, những khát khao, những niềm vui, nỗi buồn của người phụ
miền núi. Dường như chất dân tộc luôn in rõ trên từng trang viết, từng câu thơ
của họ. Ta có thể bắt gặp nhiều bài thơ như thế: Chợ tình, Dặn con ngày đi làm
dâu, Hoa hạ (Hoàng Thanh Hương); Tiếng mẹ (Thu Bình); Chiếc khèn tình, lá
bùa yêu (Phùng Hải Yến); (Bụng ta đỏ lửa- Sầm Nga Di;, Lửa sàn hoa, Chiều
Nậm Rốn (Chu Thùy Liên); Chàng trai đa tình (Nơng Thị Tơ Hường); Tiếng
bọng, Phiên chợ rẻo cao (Đồn Ngọc Minh); Có một miền q, Tìm lại tuổi thơ
(Nơng Thị Ngọc Hịa); Mường trong, Nương q tơi,Mùa u, Những người
đàn bà (Bùi Thị Tuyết Mai); Hoàng Kim Dung với Thêu áo, Khèn lá và Con
trai bản Sài, Nơi ấy sắc chàm (Mã Thị Hà)...
Một đặc điểm nữa không thể không nhắc đến trong các sáng tác của các
nhà thơ nữ, đó chính là mảng thơ viết về chủ đề tình u. Tình u trong thơ nữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
DTTS được thể hiện với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau song họ đều có điểm
chung là sự khao khát được yêu; và khi yêu- họ đã yêu một cách chủ dộng, mãnh
liệt, nồng nàn, cháy bỏng và hết mình cho tình yêu. Họ khao khát vượt qua cái
hữu hạn của trời đất, của đời người để đi đến tận cùng hạnh phúc tình yêu. Cũng
giống như thơ tình yêu của các nhà thơ nữ nói chung đó là những mối tình đẹp
nhưng dang dở, chia li; Họ hay viết về những hồi niệm, kí ức và ước mơ về một
tình yêu chung thủy, hạnh phúc; cùng với những dự cảm, ám ảnh về sự phai tàn
đổ vỡ của tình yêu theo thời gian... Tuy nhiên điều làm nên một hương vị khác
trong thơ tình yêu của các cây bút nữ DTTS chính là sự chủ động, táo bạo, mạnh
mẽ, quyết liệt mang tính bản năng với những cảm xúc tự nhiên, chân thực, mãnh
liệt, không dấu giếm cảm xúc... trước người đàn ơng của đời mình. Điều đó được
thể hiện sinh động từ tình u lứa đơi cho đến tình cảm vợ chồng với những cảm
xúc riêng tư mãnh liệt nhất đều được thể hiện một cách rất hồn nhiên, tự nhiên:
Ấy ơi cho ta leo ngược dốc/ Cho ta về làm con ngựa tốt nhà em (Ấy ơi- Nơng Thị
Ngọc Hịa); Có phải em giận anh?/ Tim cồn cào im lặng/ anh có hay trong mắt/
Ngọn lửa khát khao tình (Tự tình với hoa- Bế Phương Mai; Đó là sự chủ động
dâng hiến, nồng nàn cháy bỏng khi trao gửi yêu thương cho nhau : Ta sẽ dâng
hiến cho mình sự căm thù/ Bằng vị ngọt ấm mềm/ Dịu dàng bóng tối và trinh
trắng ban mai/ Ta sẽ trao mình thuốc độc và gai/ Trọn đơi bầu ngọc (Khi mỗi
đau nằm xuống- Bùi Thị Tuyết Mai); Tình yêu thường gắn liền với nỗi nhớ khi
xa cách, tuy nhiên nỗi nhớ đó được thể hiện một cách mộc mạc, tự nhiên có
thể đong, đo, đếm được theo cách cảm, cách nghĩ của người miền núi: Em nhớ
đầy cả đêm/ Em thương sáng cả ngày/ Nhiều như cái sao, cái lá/ Cao như cái
núi, cái đồi (Thương nhớ lắm- Nga Rivê); Ngoài ra trong các sáng tác của các
cây bút nữ dân tộc thiểu số trong thời gian gần đây đã có nhiều sáng tạo cùng
với những cảm nhận mới lạ, táo bạo về đề tài tình yêu như thơ của Hoàng Thanh
Hương, Đinh Thị Mai Lan, Bế Phương Mai, Bùi Thị Giáng Hương, Hà Thị Hải
Yến, Đàm Thị Hải Yến, Mã Thị Hà... Ví dụ như những câu thơ sau: Em/ Người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
đàn bà hóa diệm sơn/ Yêu và sống nhiệt cuồng như mai là tận thế (Em- Hoàng
Thanh Hương); Đêm của riêng trai gái/ Tìm nhau mắt bỏng như than/ Bị phụ
tình con gái tim lá ngón/ Có tiếc chăng mùa xuân (Xa- Mã Thị Hà); Đã trùm
áo/ đã hơi bén hơi/ Mình đi dâu ta di theo đấy/ Mình làm núi, ta làm hang/
Mình làm tơ, ta làm kén/ Mình làm trăng, ta làm mây quấn (Người đứng trôngBùi Thị Giáng Hương)....
Ngồi ra, các nhà thơ nữ DTTS ln có ý thức khẳng định vai trị, vị trí
của mình trong quá trình hội nhập của dân tộc mình trong đời sống thời hiện đại
của đất nước ngày hôm nay. Trước hết đó là q trình hội nhập với cộng đồng
dân tộc Việt Nam, với xã hội Việt Nam thời hiện đại. Các cây bút nữ khơng
tách rời mình ra khỏi cuộc sống của người miền xuôi (kể cả cuộc sống khi đơ
thị mở cửa). Điều đó được thể hiện trong nhiều bài thơ của các nhà thơ trẻ. Nếu
trong bài thơ Phố (Niê Phương) đã thơi thúc mình và những người cùng thế hệ
dũng cảm, mạnh dạn bước vào cuộc sống thời hội nhập: Đi đi em/đi đi/ Mang
hình em vào phố/ Chìa cả bàn tay em sần sùi vào phố/ Và lớn lên cùng phố/
Phố không muốn nuốt chửng em đáu/ Bởi phố trú dưới vòm trời rộng lắm/ Mà
ở đâu dưới vịm trời cũng có mái nhà cho cả em, anh. Thì Bùi Thị Tuyết Mai
xuống phố nhẹ nhàng mùi hương hoa sữa, bóng chim xanh, bóng chú mèo yểu
điệu và hoài niệm về một thời đã xa: Một mùi thơm hoa sữa thoảng qua/ Tóc
thơm xưa trân phố/.../ Bóng con chim xanh đi về ngoại ơ (Trân phố). Họ thực
sự chủ động đón nhận cái mới bằng cách tự vươn lên để hòa nhập vào cuộc
sống mới văn minh hiện đại mà không đánh mất bản sắc riêng vốn có của dân
tộc mình- nếu như khơng muốn bị bỏ lại. Họ đã nhập cuộc thành công vào cuộc
sống hiện đại, mở của hơm nay. Chính vì thế, thơ của họ khơng cịn “quanh
quẩn” ở các đề tài về bản làng nữa mà thực sự đã “rất phố” rồi!
Một phương diện nữa phải kể đến đó là phương diện nghệ thuật trong các
sáng tác của các cây bút nữ. Thơ của họ vừa có tính hiện đại (trong cách diễn
đạt, trong lối tư duy) vừa vẫn giữ được những nét riêng, mang đậm bản sắc dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
tộc, nên nó “vừa lạ, vừa quen”, vừa truyền thống- vừa hiện đại, vừa mộc mạc,
giản dị nhưng cũng mới mẻ, sâu sắc. Ngồi ra họ cịn rất sáng tạo trong việc sử
dụng ngơn ngữ nghệ thuật trong thơ. Đó là thứ ngôn ngữ vừa mộc mạc, giản dị,
gần gũi, giàu chất biểu cảm, giàu chất tạo hình nên đã tạo nên một nét riêng, độc
đáo, lôi cuốn và hấp dẫn độc giả. Các nhà thơ nữ DTTS đã sử dụng khéo léo các
từ ngữ giàu giá trị biểu cảm (như các từ tượng thanh, tượng hình, từ láy…); đã
vận dụng hiệu quả các biện pháp tu từ (so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ…). Vì thế, họ
đã xây dựng được những hình ảnh thơ mới lạ, bất ngờ, giản dị mà tinh tế. Có thể
nhắc đến một số câu thơ như: Nội tơi/ Cổ thụ cao ngun/ Rễ cây xịe nếp trán/
(Nụ cười của đá- Phùng Hải Yến); Hay Hoa mận trắng hay mây bay xuống chợ/
Mùa mưa dầm thấp thỏm bước chân trâu (Có một miền q- Nơng Thị Ngọc
Hòa); Em nhớ anh/ Cứ nhấp nha nhấp nhổm/ Như có kiến cắn tim/ Như có lửa
đốt bụng (Thương lắm nhớ nhiều- Hơ-vê); Ơ này con gái Mường Bi/ Da trắng
của bơng, tóc dài của núi/ Dáng thon mềm chuốt tiếng chng ngân (Nhớ
Mường - Tạ Thu n)…
Tóm lại, qua những khảo sát về những đặc điểm của thơ nữ DTTS thời kỳ
hiện đại, chúng tôi nhận thấy thơ của họ dường như cũng mang những đặc điểm
của thơ ca DTTS nói chung, nhưng họ cịn có lối suy nghĩ, lối diễn đạt riêng của
phái nữ. Họ thiết tha, ý nhị, kín đáo, khơng tả nhiều, cũng khơng nói đến những
vấn đề mang tầm vóc lớn lao của đất nước- mà chỉ đề cập tới những điều nhỏ bé,
đời thường nhưng lại chạm được vào trái tim của độc giả. Các sáng tác của các
nhà thơ nữ DTTS thời kì hiện đại cũng có những điểm khác nhất định so với thơ
của các nhà thơ nữ người Kinh. Nếu các tác giả thơ người Kinh chiếm ưu thế và
thành công với những bài thơ tình ngọt ngào, sâu lắng, với lối diễn đạt sâu sắc,
ý nhị, kín đáo thì khi đọc các bài thơ của các cây bút nữ miền sơn cước thì ta lại
bắt gặp nét mộc mạc, giản dị, hồn nhiên trong từng câu thơ; đặc biệt là cách cảm,
cách nghĩ, cách diễn đạt của người miền núi đã đem lại sức hấp dẫn riêng cho
người đọc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
Riêng một số nhà thơ nữ DTTS trẻ chịu ảnh hưởng của các xu hướng thơ
hiện đại và hậu hiện đại nên đã có những nét phá cách và có nhiều thể nghiệm
mới mẻ. Thơ của họ là tiếng nói của thế hệ mới- với những tận hiến và tận hưởng
những vang âm của đời sống. Họ không muốn chỉ là người biểu hiện cuộc sống
trên trang viết mà còn muốn tạo dựng, phơi mở một thế giới khác trong chính thế
giới hiện thực hơm nay. Tâm hồn thi ca của họ ln rung lên những nhịp cảm
xúc nóng bỏng, rất riêng tư với những khao khát đời thường. Họ đang cố gắng
tạo dựng cho mình một phong cách mới, khẳng định vai trị, vị trí của mình trong
dịng chảy của thơ ca dân tộc thiểu số nói riêng và thơ ca hiện đại Việt nam nói
chung (ví dụ trường hợp thơ Vi Thị Thùy Linh), nhưng đây không phải là xu thế
chung của các nhà thơ trẻ DTTS . Hầu hết họ vẫn là những nhà thơ đại diện cho
tiếng nói tam hồn của những những người phụ nữ miền núi: hiền lành mà mạnh
mẽ; mộc mạc, chân thật mà ý nhị, duyên dáng; đảm đang, khéo tay nhưng cũng
rất lãng mạn, bay bổng.
1.2. Nữ nhà thơ dân tộc Mường- Bùi Thị Tuyết Mai
Trong những năm qua, văn học nghệ thuật dân tộc Mường nói riêng, văn
học nghệ thuật dân tộc thiểu số nói chung, đã có những góp đáng kể vào sự
nghiệp phát triển chung của văn học nghệ thuật các dân tộc Việt Nam. Từ những
chất liệu văn hóa văn học dân gian phong phú của người Mường như: sử thi Đẻ
đất đẻ nước, truyện thơ Út Lót- Hồ Liêu, Nàng Nga- Hai Mối hay các bài mo,
các bài dân ca (xường, rang, ví dúm...) đã có sức ảnh hưởng lớn đến các sáng tác
của các nhà văn nhà thơ người Mường hiện nay. Các nhà thơ Vương Anh, Hà
Trung Nghĩa, Hà Thị Cẩm Anh, Bùi Thị Tuyết Mai... đã có những sáng tác phản
ánh chân thực, sinh động cuộc sống, con người vùng cao với những nét văn hóa
đậm bản sắc Mường. Nhà thơ Bùi Thị Tuyết Mai là một trong các nhà thơ Mường
tiêu biểu đó.
Nhà thơ Bùi Tuyết Mai tên đầy đủ là Bùi Thị Tuyết Mai dân tộc Mường,
sinh năm 1971, tại Yên Thủy, tỉnh Hịa Bình. Là người con của dân tộc Mường,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Cơng nghệ thông tin – ĐHTN
sinh ra và lớn lên trên mảnh đất miền núi cao hùng vĩ hoang sơ nhưng cũng rất
thơ mộng và trữ tình- chính mảnh đất đó đã ươm mầm và nuôi dưỡng hồn thơ
Bùi Thị Tuyết Mai. Từ nhỏ chị đã được sống trong bầu văn hóa của dân tộc mình:
từ nhừng làn điệu xường, rang, những áng sử thi đồ sộ, cùng với cảnh sắc thiên
nhiên thơ mộng, trữ tình, hùng vĩ, tươi đẹp của núi non trùng điệp đã bồi đắp cho
chị một hồn thơ trong trẻo, mới lạ, hồn nhiên, tươi tắn, giàu hình ảnh, trữ tình,
mềm mại, mang đậm bản sắc văn hóa Mường nhưng vẫn hiện đại và đó cũng
chính là nguồn cảm hứng vơ tận trong các sáng tác của chị. Vì thế dù có đi đâu
thì xứ Mường vẫn ln gắn bó với cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của chị. Không
chỉ có vậy, Hịa Bình cũng từng là khu căn cứa địa cách mạng trong những năm
kháng chiến. Bản thân gia đình nhà thơ Bùi Thị Tuyết Mai cũng là gia đình cách
mạng và có truyền thống văn chương, sớm được giác ngộ nên một lòng tin vào
sự lãnh đạo của Đảng, theo Đảng và Bác Hồ. Trong thời bình như hiện nay chị
và gia đình khơng ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên để xây dựng quê hương tươi
đẹp. Là nữ trí thức dân tộc thiểu số, một nhà thơ (thuộc dạng hiếm hoi) của dân
tộc Mường, hơn ai hết, Bùi Thị Tuyết Mai là người thấu hiểu những giá trị lớn
lao mà Đảng và nhà nước đã dành cho q hương và dân tộc mình để có được
cuộc sống n bình, ấm no như hơm nay. Vì vậy các tác phẩm của chị còn là
tiếng hát ngợi ca, tin tưởng vào Đảng, vào Bác Hồ và chế độ xã hội mới.
Sau khi tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm chị nhận cơng tác tại Trường Đảng
(nay là Trường Chính trị) tỉnh Hồ Bình đến năm 2009 chị chuyển cơng tác về
Ban Tuyên giáo, Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương, Hà Nội. Là một người
yêu thích văn chương do được ni dưỡng và bồi đắp từ nguồn văn hóa dân gian
của dân tộc mình từ bé cộng với sự tỉ mỉ thu lượm vốn hiểu biết của mình qua
hàng loạt cuốn sách kim cổ Đông Tây của ông nội chị để có thể sở hữu một vốn
kiến thức cơ bản, sâu rộng phục vụ cho nghiệp văn sau này của chị. Hiện nay
ngồi cơng việc chính, chị rất tích cực sáng tác thơ và làm văn. Chị là hội viên
Hội nhà văn Việt Nam, Hội viên hội VHNT các DTTS Việt Nam.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN