Quản trị tài chính: Vay nợ thắt chặt gọng kìm
kinh tế
Một số công ty khổng lồ có nguồn vốn tư nhân đang phải đối mặt với sự cạn kiệt
tài chính sau khủng hoảng. Và điều này lại xảy ra đồng thời với thời điểm người
tiêu dùng thắt chặt chi tiêu. Nhưng hãy nhớ rằng: "trong trường hợp xấu nhất lại
vẫn thường mang một viễn cảnh tốt nhất".
Mua lại và sáp nhập (M&A): cuộc chơi theo trào lưu
Các công ty cổ phần bằng nguồn vốn tư nhân đã tham gia vào cuộc chơi lớn nhất
trong lịch sử các công ty trong gần ba năm, sử dụng tiền vay để chiếm hữu những
mảng công nghiệp lớn và một phần các công ty lớn như Neiman Marcus, Metro-
Goldwyn-Mayer and Toys “R”Us.
Với những lợi nhuận khổng lồ, các công ty
đua nhau sử dụng tiền vay để chiếm hữu các
công ty khác đang trên bờ vực phá sản
Những ông chủ mới sau đó đẩy trách nhiệm lên những công ty này với món nợ
hàng tỷ đô la vay mượn để mua lại chúng. Nhưng giờ đây, rất nhiều các khoản nợ
và trái phiếu đã được bán ra, nhằm cung cấp tài chính cho những vụ mua bán như
vậy chuẩn bị đáo hạn tại thời điểm tồi tệ nhất có thể.
Vì vậy, giống như những chủ nhà với tỷ lệ thế chấp có thể điều chỉnh (tỷ lệ này
mới tăng lên), một số công ty khổng lồ có nguồn vốn tư nhân đang phải đối mặt
với sự cạn kiệt tài chính. Và điều này lại xảy ra đồng thời với thời điểm người tiêu
dùng thắt chặt chi tiêu.
Trong năm nay, những nhà bán lẻ lớn được hỗ trợ bởi nguồn vốn tư nhân như
Linens’n Things, Mervyn’s và Steve & Barry’s lần lượt phá sản.
Các nhà phân tích dự đoán một loạt các công ty có nguồn vốn tư nhân, bao gồm
những khu nghỉ dưỡng như Harrah’s Entertainment và những nhà tín dụng như
GMAC, hay cánh tay tài chính của General Motors sẽ phải đối mặt với nhiều áp
lực hơn, khi lợi nhuận thu hẹp và các nhà đầu tư thì đến gõ cửa đòi nợ.
Josh Lerner, Giáo sư môn Đầu tư Ngân hàng tại trường Kinh doanh Harvard nói:
“Chắc chắn sẽ còn có nhiều tổn thất xảy ra. Vấn đề là các công ty làm thế nào để
hồi sinh sau tình trạng hỗn loạn.”
Các công ty cổ phần bằng nguồn vốn tư nhân (vốn dĩ được quản lý lỏng lẻo)
thường sử dụng tiền đầu tư để mua lại những công ty đại chúng mất giá và tư hữu
chúng. Những khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn của các công ty được mua
lại bởi những công ty có nguồn vốn tư nhân có thể có nhiều ảnh hưởng đến nền
kinh tế.
Những người làm việc cho những công ty thuộc sở hữu của các công ty có nguồn
vốn tư nhân có thể mất việc, khi các công ty cắt giảm chi phí để chi trả cho các
khoản nợ. Và những công ty như Apollo Management (sở hữu Harrah’s và
Linen’s Things) phải đối mặt với sự mất giá trầm trọng của cổ phiếu công ty họ.
Các quỹ lương hưu và quỹ khuyến học đầu tư vào những nguồn vốn này trong
mấy năm gần đây hy vọng thu được lợi nhuận cao hơn sẽ gặp phải tình cảnh tương
tự. Và những khoản đầu tư tương tự có thể phải đối mặt với sự cạn kiệt tiền mặt,
khi họ bắt buộc phải bám chặt vào những khoản đầu tư này trong nhiều năm cho
đến khi nền kinh tế phục hồi.
“Vấn đề khó khăn tương tự cũng chuẩn bị xảy ra” - Jeffrey A. Sonnenfeld, Phó
Hiệu trưởng của trường quản lý Yale nói.
Tối mắt vì lợi nhuận: Hậu quả khôn lường
Khi nền kinh tế bùng nổ, các công ty thu được lợi nhuận lớn bằng việc cắt giảm
chi phí tại các công ty mới mua lại, nâng cao hoạt động rồi bán lại. Theo số liệu
của Dealogic (một công ty phân tích dữ liệu tài chính, có trụ sở tại London), vào
năm 2007, tại thời gian đỉnh điểm, tổng trị giá những thương vụ như vậy lên đến
796 tỷ đô la, tương đương hơn 16% tổng giá trị tất cả các thương vụ giao dịch toàn
cầu năm đó.
Những gì mà các công ty như Blackstone Group và Kohlberg Kravis Roberts &
Company phải đối mặt trong thời điểm nóng bỏng vì các khoản đền bù lớn và
chính sách thuế lợi tức là có thể tưởng tượng được, nhưng lợi nhuận của họ vẫn
cao đến mức các nhà đầu tư như quỹ lương hưu cũng nhập cuộc. Hiện tại, các
công ty này (vốn được xây dựng trên những món nợ khổng lồ) đang có nguy cơ
buộc phải quay lại thị trường tài chính ngay cả khi những thị trường này gần đóng
băng.
Theo kinh nghiệm từ lịch sử, thì trường hợp xấu nhất có thể vẫn chưa xảy ra.
Steven N. Kaplan, Giáo sư Trường đại học kinh tế tổng hợp (thuộc trường đại học
Chicago) chỉ ra rằng: Gần 30% các thương vụ mua bán lớn từ công ty đại chúng
sang sở hữu tư nhân trong những năm 1986 đến 1989 không trả nợ được. Sau đó,
những nhà nhà đầu tư tư nhân thực hiện những thương vụ đó phải giải trình trước
Quốc hội và những bộ phim được ưa thích như “Wall Street” và “Other People’s
Money” đã mô tả những nhà tư bản tài chính như những kẻ tội pham tham lam.
Chắc chắn nhiều công ty không bị mua lại bởi những công ty có nguồn vốn tư
nhân cũng gặp phải nhiều khó khăn. Circuit City - một công ty cung cấp điện tiêu
dùng lâu đời cũng đang cố gắng để không bị phá sản. Và những hãng sản xuất ô tô
được mua lại công khai như General Motors cũng đang khó khăn (G.M. muốn sáp
nhập với Chrysler, là một hãng thuộc sở hữu tư nhân.)
Nhiều nhà sản xuất và các nhà phân tích cho rằng các công ty được hỗ trợ bằng
nguồn vốn tư nhân sẽ không phải hứng chịu những tác động nhiều như trong
những năm 80, vì các công ty đã có điều kiện tài chính tốt hơn cho phép họ duy trì
sản xuất cho dù họ không thể trả được nợ.
Ví dụ, khi nỗ lực tiết kiệm tiền mặt, các công ty con thuộc Apollo gồm Claire’s
Stores, Harrad’s và Realogy đã tuyên bố rằng họ sẽ trả một phần lãi suất vay nợ
bằng việc phát hành thêm trái phiếu.
Cổ phần hóa: cơ hội cho những nhà đầu tư tư nhân
Ông Kaplan cho biết, ông tin rằng trong “hoàn cảnh không có gì khá hơn” thì các
thương vụ hiện nay “ít bị tổn thương hơn và sử dụng ít đòn bẩy hơn”. Ông khẳng
định rằng “trên cơ sở có liên quan đến đầu tư ngân hàng và các quỹ đầu tư thì việc
cấp vốn tư nhân thông qua cổ phần đang ở thời điểm tốt”, bởi vì nó có trọng tâm
lâu dài.
Stephen A. Schwarzman, Chủ tịch tập đoàn Blackstone vẫn tin vào việc cấp vốn tư
nhân thông qua cổ phần. Ông nói: “Những người ủng hộ sự sụp đổ của việc cấp
vốn tư nhân thông qua cổ phẩn sẽ phải thất vọng. Trong khi một số công ty có thể
gặp phải khó khăn, nhiều công ty khác lại có thể thoát ra cuộc suy thoái kinh tế
Cổ phần hóa: có thực sự là cơ hội
cho những nhà đầu tư tư nhân?