Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Thiết kế trò chơi môn Toán 2 giải C -Thành phố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.28 MB, 39 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................2

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:..............................................................................2
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :.....................................................................3
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU :.........................................3
NỘI DUNG...................................................................................4

1. CƠ SỞ LÝ LUẬN:.......................................................................................4
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN:..................................................................................6
3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM THIẾT KẾ TRÒ CHƠI NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ TRONG DẠY HỌC TOÁN CHO HỌC SINH LỚP 2...7
3.1 Các nguyên tắc thiết kế trò chơi:..........................................................7
3.1.1 Nguyên tắc vừa sức, dễ thực hiện :...........................................8
3.1.2 Nguyên tắc lựa chọn thời điểm hợp lý:......................................8
3.1.3. Nguyên tắc khai thác và thực hành :......................................10

3.2. Cấu trúc một trò chơi học tập:...........................................................11
3.3 Cách thức tổ chức trò chơi học tập:....................................................12
4. MỘT SỐ TRÒ CHƠI HỌC TẬP MÔN TOÁN 2...................................13
4.1. Các trò chơi có nội dung về số học:....................................................13
4.2 Các trò chơi có nội dung về đại lượng, đo lường...............................23
4. 3 Các trò chơi có nội dung về hình học.................................................27
4. 4 Các trò chơi có nội dung giải toán....................................................30
4. 5 Các trò chơi qua câu đố vui................................................................33
5. KẾT QUẢ ..................................................................................................36
KẾT LUẬN..................................................................................36


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:


Những năm gần đây, Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến việc phát triển
toàn diện con ngừời. Xây dựng và bồi dưỡng một thế hệ mới có tri thức vững
vàng, có sức khoẻ tốt và kinh nghiệm dồi dào để bắt kịp với trình độ khoa học
thế giới – Từ đó xây dựng đất nước hùng mạnh hơn.
Nhiệm vụ quan trọng ấy được giao cho các ngành, các cấp đặc biệt là
ngành GDĐT. Trong Chương trình giáo dục Tiểu học hiện nay, môn Toán cùng
với các môn học khác trong nhà trường Tiểu học có những vai trò góp phần
quan trọng đào tạo nên những con người phát triển toàn diện.
Toán học là môn khoa học tự nhiên có tính lôgic và tính chính xác cao, nó
là chìa khoá mở ra sự phát triển của các bộ môn khoa học khác.
Muốn học sinh Tiểu học học tốt được môn Toán thì mỗi người Giáo viên
không phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong Sách giáo
khoa trong các sách hướng dẫn và thiết kế bài giảng một cách dập khuôn, máy
móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động. Nếu chỉ dạy học như vậy thì
việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ
không cao. Nó là một trong những nguyên nhân gây ra cản trở việc đào tạo các
em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo sẵn sàng thích ứng với
những đổi mới diễn ra hàng ngày.
Đổi mới phương pháp dạy học môn toán ở bậc Tiểu học là: “Phát huy tính
tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trên cơ sở khai thác triệt để các đặc
điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học ”. Một trong những biện pháp chủ yếu
để đạt được mục đích trên là gây cho học sinh hứng thú học tập, tạo niềm tin,
niềm vui bằng cách lôi cuốn các em vào những trò chơi toán học hấp dẫn, phù
hợp với trình độ nhận thức, đặc điểm lứa tuổi các em trong giờ học toán, đặc
biệt là ở các lớp đầu cấp.
Đã nhiều năm dạy học tôi cứ luôn trăn trở với suy nghĩ: Làm thế nào để
học sinh của mình năng động sáng tạo hơn, tạo được hứng thú trong học tập, tiết
2



học bớt căng thẳng, bớt áp lực, học sinh được học mà chơi chơi mà học ? Cần
phải gì để gây được hứng thú học tập cho học sinh, lôi cuốn các em tham gia
vào các hoạt động học tập một cách tích cực, chủ động nhất ? Và tôi nghĩ rằng ở
lứa tuổi các em thì trò chơi học tập chính là hoạt động mà các em hứng thú nhất.
Thông qua các trò chơi các em sẽ lĩnh hội những tri thức toán học một cách dễ
dàng, được phát triển về trí tuệ, thể lực, nhân cách, được củng cố, khắc sâu kiến
thức một cách vững chắc, tạo cho các em niềm say mê, hứng thú trong học tập,
trong việc làm. Khi chúng ta đưa ra được các trò chơi toán học một cách thường
xuyên, khoa học thì chắc chắn chất lượng dạy học môn toán sẽ ngày một nâng
cao.
Vì vậy tôi đã thiết kế các trò chơi trong giờ học toán lớp 2, đưa vào giờ
học toán ngay từ đầu năm và thấy kết quả học tập của các em tiến bộ hẳn lên.
Đến giờ học toán các em không còn cảm thấy căng thẳng nên kết quả học tập
cao hơn. Với thời gian thử nghiệm vừa qua, tôi thấy việc thiết kế trò chơi trong
giờ học toán để góp phần đổi mới phương pháp dạy học toán 2 là rất quan trọng
và thiết thực. Tôi xin được trình bày sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh
nghiệm thiết kế trò chơi nhằm nâng cao hiệu quả trong dạy học toán 2 ”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
- Tìm hiểu hệ thống nội dung , phương pháp , hình thức tổ chức dạy học
toán lớp 2 . Tìm hệ thống bài tập có thể thiết kế thành trò chơi .
- Tìm hiểu những thuận lợi khó khăn của giáo viên và học sinh khi thiết
kế, sử dụng trò chơi trong giờ học toán .
- Giúp HS học toán thông qua các trò chơi góp phần đổi mới phương pháp
dạy học ở Tiểu học.
- Ứng dụng các kiến thức và kỹ năng về môn toán vào giải quyết các tình
huống thường gặp trong cuộc sống hàng ngày.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
- Thời gian: từ tháng 9/2014 đến hết tháng 3/2015.

3



- Đối tượng: Học sinh lớp 2, trường Tiểu học Láng Thượng, quận Đống
Đa, Hà Nội. Năm học 2014 - 2015.

NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Học sinh Tiểu học luôn luôn hiếu động, ham chơi, thích cái mới lạ nhưng
lại chóng chán. Vì thế, trò chơi nói chung và trò chơi học tập nói riêng rất phù
hợp với đặc điểm tâm lý tuổi thơ và rất cần thiết trong từng giờ học. Đối với trẻ
trò chơi là một phát hiện mới, kích thích tò mò, muốn tìm hiểu, khám phá. Do
vậy quan điểm “ Thông qua hoạt động vui chơi để tiến hành hoạt động học tập.”
là phù hợp với trường Tiểu học .
Trong nhà trường Tiểu học trò chơi học tập là trò chơi có luật, trong đó
có nội dung tri thức gắn liền với nội dung bài học, giúp học sinh khai thác vốn
kinh nghiệm của bản thân để chơi. Thông qua chơi, học sinh được củng cố, vận
dụng các kiến thức, nội dung đã học vào tình huống của trò chơi và do đó trẻ
được học. Trò chơi học tập có tác dụng cả về mặt rèn luyện trí tuệ lẫn thể chất
và phẩm chất đạo đức.
Một trò chơi nói chung, trò chơi học tập nói riêng chỉ trở thành trò chơi
thực sự khi những người chơi thực hiện được hành động chơi. Do đó, nếu hành
động chơi đòi hỏi những kiến thức, kỹ năng mà học sinh chưa có thì trò chơi đó
không có tác dụng đối với các em.
- Trò chơi toán học là trò chơi mà trong đó có chứa đựng một yếu tố toán
học nào đó.
- Trò chơi có thể phân loại theo số người chơi: trò chơi tập thể, trò chơi cá
nhân. Trò chơi có thể là trò chơi vận động, có thể là trò chơi
trí tuệ cũng có thể kết hợp vận động với trí tuệ.
- Vì là một trò chơi, trò chơi toán học mang đầy đủ các đặc điểm của trò
chơi nhưng trò chơi toán học khác với trò chơi “ phi toán học ” ở chỗ ít nhiều

phải chứa trong đó một yếu tố kiến thức toán học nào đó.

4


Trò chơi toán học cũng có thể là trò chơi tập thể hoặc cá nhân, thường là
kết hợp cả vận động lẫn trí tuệ. Đối với các lớp dưới, trò chơi toán học nặng về
vận động, càng lên lớp cao tính trí tuệ càng phải cao hơn.
- Trong nhà trường, trò chơi toán học có thể tổ chức như một hoạt động dạy
toán. Cơ sở tâm lý và sinh lý khẳng định hoạt động dạy học toán dưới dạng trò
chơi toán học rất phù hợp với lứa tuổi Tiểu học. Thực tế cho thấy hình thức tổ
chức của trò chơi toán học rất dễ được học sinh hưởng ứng và tích cực tham gia.
- Xét về mục đích phục vụ dạy học nói chung, trò chơi toán học có thể là:
+ Trò chơi nhằm dẫn dắt hình thành tri thức mới.
+ Trò chơi nhằm củng cố kiến thức, luyện tập kỹ năng.
+ Trò chơi nhằm ôn tập, rèn luyện tư duy trong giờ học ngoại khoá.
- Nếu phân loại theo các mạch kiến thức của toán học, ta có thể nói tới,
chẳng hạn:
+ Trò chơi tính toán.
+ Trò chơi hình học ( vẽ hình, đếm hình, cắt, ghép hình....)
+ Trò chơi gắn với hoạt động đo đại lượng....
+ Trò chơi về giải toán, giải đố.
+ Trò chơi về rèn luyện trí thông minh...
Trong quá trình học toán ở Tiểu học, sử dụng trò chơi toán học có nhiều
tác dụng như :
- Giúp học sinh thay đổi loại hình hoạt động trong giờ học, làm cho giờ
học bớt căng thẳng, tạo cảm giác thoải mái, dễ chịu. Học sinh tiếp thu kiến thức
nhẹ nhàng, gây hứng thú học tập.
- Kích thích sự tìm tòi, tạo cơ hội để học sinh tự thể hiện mình.
- Thông qua trò chơi, học sinh vận dụng kiến thức năng nổ, hoạt bát,

kích thích trí tưởng tượng, trí nhớ. Từ đó phát triển tư duy mềm dẻo, học tập
cách sử lý thông minh trong những tình huống phức tạp tăng cường khả năng
vận dụng trong cuộc sống để dễ dàng thích nghi với điều kiện mới của xã hội.
- Ngoài ra thông qua hoạt động trò chơi các em biết tự kiềm chế, giúp các
em phát triển được nhiều phẩm chất đạo đức như tình đoàn kết, thân ái, lòng
5


trung thực, tinh thần cộng đồng trách nhiệm. Trò chơi không chỉ là phương tiện
mà còn là phương pháp giáo dục. Vì vậy trò chơi toán học rất cần thiết trong giờ
học toán ở Tiểu học.
Tóm lại, trò chơi nói chung, trò chơi học tập cũng như trò chơi toán học
nói riêng giúp cho học sinh phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Trò
chơi làm cho học sinh phát triển toàn diện các năng lực một cách tự nhiên, giúp
cho các em trao đổi kinh nghiệm, tương tác lẫn nhau, từ đó các em tiếp thu kiến
thức một cách dễ dàng.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Môn Toán từ xưa đến nay được xem là khô khan hóc búa, mang tính trừu
tượng cao. Vì vậy, việc lĩnh hội tri thức toán học là rất khó khăn đối với học sinh
tiểu học. Điều này cũng dể hiểu vì: để lĩnh hội được tri thức toán học thì học
sinh cần phải biết so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá và khái quát hoá
mà chức năng trừu tượng hoá và khái quát hoá ở trẻ còn chưa phát triển đầy đủ.
Thêm vào đó là lượng kiến thức môn toán đưa vào chương trình ngày
càng nhiều đã dẫn tới sự quá tải, làm cho học sinh phải tiếp thu tri thức rất vất
vả, các em luôn cảm thấy sợ, cảm thấy không khí căng thẳng, nặng nề mỗi khi
bắt đầu giờ học…
Ngoài ra, việc tìm hiểu trên thực tế còn cho thấy: bản thân giáo viên –
những người truyền thụ kiến thức cũng gặp phải một số khó khăn sau:
- Thời gian dành cho một tiết học toán là 40 phút thì phần truyền thụ
những kiến thức mới phải chiếm từ 20 – 25 phút. Số thời gian ít ỏi còn lại giáo

viên chưa biết cách tổ chức để thay đổi hình thức hoạt động giúp học sinh vừa
ôn tập củng cố, vừa giảm bớt căng thẳng sau một thời gian học tập căng thẳng.
- Theo sự chỉ đạo của chuyên môn thì phần trọng tâm là kiến thức trong
sách giáo khoa mà chưa chú ý đến phần gây hứng thú cho học sinh, nhiều khi
giáo viên không dẫn dắt, lý giải cho các em con đường hình thành kiến thức mới
mà chỉ bắt các em phải công nhận, tiếp nhận kiến thức một cách thụ động.

6


- Hiện nay, trò chơi toán học còn rất đơn lẻ, nghèo nàn, ít được phổ biến
và nhiều giáo viên hầu như không biết nhiều đến trò chơi vì có ít tài liệu tham
khảo vấn đề này.
- Một thực trạng nữa là đa số giáo viên rất ngại tổ chức trò chơi phục vụ
học tập toán do ngại tìm tòi, sưu tầm, thiết kế hay do không biết hoặc không có
thời gian.
Qua tìm hiểu một số giáo viên dạy lớp 2, tìm hiểu học sinh trường mình,
tôi nhận thấy: Các đồng chí giáo viên đã bước đầu có ý thức đưa trò chơi học
toán vào giảng dạy song chưa áp dụng đều đặn, thường xuyên tập trung chủ yếu
trong những giờ thao giảng, chuyên đề. Sở dĩ có tình trạng trên là do một phần
các đồng chí giáo viên chưa nhận thức được hết tác dụng của trò chơi trong giờ
học toán, một phần còn ngại thiết kế, thời gian tổ chức cho học sinh tham gia
vào các hoạt động trên còn hạn chế. Vì vậy mà giờ học toán còn trầm học sinh
còn thụ động trong học tập , một số học sinh yếu kém còn ngại học toán, đến giờ
học toán các em không hứng thú dẫn đến kết quả học tập không cao. Tất cả
những điều này nếu không sớm được khắc phục thì sẽ tạo ra những khó khăn
khác cho học sinh trong quá trình học tập.
Năm nay tôi được phân công dạy lớp 2. Lớp tôi chủ nhiệm có một số em
giao tiếp còn hạn chế, không mạnh dạn tự ti. Vì vậy ngay từ đầu năm tôi đã vạch
ra kế hoạch phải làm sao cho lớp mình hoạt động sôi nổi hơn trong giờ học, đặc

biệt là trong giờ học toán. Tôi thiết kế các trò chơi trong giờ học toán và đưa vào
áp dụng, không khí học tập khác hẳn, các em học tập tích cực, những em chậm
chạp cũng năng động hơn. Những em có tính tự ti hoà nhập với các bạn hơn.
Nói tóm lại, dựa trên những căn cứ lý luận và thực tiễn nêu trên, bản thân
tôi thấy việc tăng cường tổ chức các trò chơi học tập để khắc phục tình trạng
trên nhằm gây hứng thú học tập cho các em và nâng cao hiệu quả giờ học là vô
cùng cần thiết cần phải làm ngay.
3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM THIẾT KẾ TRÒ CHƠI NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ TRONG DẠY HỌC TOÁN CHO HỌC SINH LỚP 2.
3.1 Các nguyên tắc thiết kế trò chơi:
7


3.1.1 Nguyên tắc vừa sức, dễ thực hiện :
Mỗi trò chơi học tập nói chung đều nhằm mục đích củng cố những kiến thức, kỹ
năng cụ thể hoặc có những tri thức cụ thể hoặc có những tri thức tổng hợp như giải toán,
phối hợp nhiều nội dung tri thức hình học, số, phép toán...(Có thể là kiến thức cần
kiểm tra bài cũ, kiến thức bài mới, kiến thức thực hành, luyện tập)
Căn cứ để thiết kế trò chơi học tập trong môn toán chính là sự kết hợp giữa
các yếu tố cấu thành một trò chơi phổ biến trong sinh hoạt đời sống của học sinh
với nội dung kiến thức học sinh sẽ được học trong từng bài, từng chương của
môn toán trong chương trình tiểu học.
Chương trình toán 2 được chia thành 5 mạch kiến thức: Số học và yếu tố đại
số, đại lượng và đo đại lượng, yếu tố hình học, yếu tố thống kê, các dạng toán
giải. Các trò chơi được xây dựng từ các dạng bài tập có chọn lọc của các tiết học
trong 5 mạch kiến thức trên, nhưng có thể mang những cái tên gợi cảm, gây
hứng thú, góp phần hình thành, củng cố hoặc hệ thống kiến thức .
- Một trò chơi phải có luật chơi, hành động chơi, chơi phải có tính thi đua giữa
những người chơi ( tức là có thắng, có thua ).
- Các trò chơi phải giúp học sinh rèn luyện kỹ năng toán học, phát huy trí tuệ,

óc phân tích, tư duy sáng tạo .
- Trò chơi phải phù hợp với quỹ thời gian (Sử dụng trong giờ học từ 5 đến 10
phút), thích hợp với môi trường học tập.
- Trò chơi có sức hấp dẫn, thu hút được sự chú ý, tham gia của học sinh, tạo
không khí vui vẻ, thoải mái .
- Trò chơi cần phải gần gũi, sát thực, phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh lớp
2. Tổ chức trò chơi không quá cầu kỳ, phức tạp.
3.1.2 Nguyên tắc lựa chọn thời điểm hợp lý:
Thời gian mỗi tiết học chỉ khoảng 35 phút. Vì thế giáo viên cần cân nhắc
lựa chọn thời điểm thích hợp để đưa trò chơi sao cho gây hứng thú đối với học
sinh và có hiệu quả nhất.
a) Đưa trò chơi để tạo hứng thú, dẫn dắt vào bài
Mục đích: Gây hứng thú cho học sinh ngay từ đầu giờ .
8


Ví dụ: Khi học về bài: Số hạng - Tổng:
Giáo viên cho HS chơi trò chơi: “ Đi tìm ẩn số”. GV chuẩn bị trên bảng
phụ các ô số và phiếu bốc thăm, mời 3em lên bảng bốc thăm câu hỏi và trả lời.
Bản thân khi dạy bài này tôi đã soạn bài giảng điện tử, màn hình có các ô số, khi
HS chọn ô nào GV kích chọn để hiện câu hỏi để HS trả lời.

Trò chơi: ĐI TÌM ẨN SỐ

1

Ô số 1: 5 + 3 = ?

2


Ô số 2: 9 = ? + 2

3

Ô số 3 : 6 + ? = 8

Sau khi 3 HS trả lời và nhận xét xong, GV giới thiệu: “ Các con đã tìm
được đáp án rất nhanh. Trong các phép cộng trên, kết quả phép tính được gọi là
tổng. Còn các số khác trong phép cộng được gọi là gì ? Bài học hôm nay cô sẽ
giới thiệu với các con về thành phần tên gọi của phép tính cộng: Số hạng - Tổng.
b) Đưa trò chơi sau khi hình thành kiến thức mới
Mục đích: Tạo hứng thú, giúp HS củng cố ngay nội dung kiến thức vừa học
Ví dụ: Trò chơi “ Truyền điện ” giáo viên sẽ tổ chức cho học sinh chơi khi học
sinh học thuộc bảng nhân ( áp dụng cho tất cả các tiết của bảng nhân, bảng chia
2, 3, 4, 5 và các tiết Luyện tập liên quan đến các bảng nhân, bảng chia như sau :
Các em học sinh ngồi ( hoặc đứng ) thành một vòng tròn. Bắt đầu từ một
em nào đó, ví dụ em A. Em A nêu to một số trong phạm vi 10, chẳng hạn “ năm
” và cầm tay em B ( ở bên phải em A ) để “truyền điện”. Lúc này, em B phải nói
tiếp, chẳng hạn : “ nhân 2 ” rồi cầm tay em C ( ở bên phải em B ) để “truyền
điện”. Thì em C phải nói tiếp : “ bằng 10 ”.
Nếu em C nói đúng thì C được quyền đưa ra một số khác như em A,
chẳng hạn : “ bảy ” và nắm tay bạn bên phải để “ truyền điện ” tiếp...
Cứ làm như vậy... Nếu bạn nào nói sai hoặc làm tính sai thì bị phạt
9


“ đi kiểu người lùn ” một vòng. Sau khi bị phạt, bạn đó lại được quyền đưa ra
một số khác để tiếp tục chơi.
c) Đưa trò chơi ở phần Củng cố kiến thức - kết thúc tiết học:
Thông thường sau mỗi tiết học Toán đơn điệu, căng thẳng học sinh sẽ rất

hào hứng và thích thú khi được tham gia vào các trò chơi. Vì vậy tổ chức trò
chơi trong phần Củng cố có ý nghĩa rất tích cực.
- Mục đích: Tạo hứng thú, giúp HS củng cố, nắm chắc nội dung kiến thức cả
bài học.
Ví dụ:

Sau khi học xong bài: " Tìm một số hạng trong một tổng" – bài giảng

điện tử, GV tổ chức cho HS cả lớp chơi tham gia chơi : “Rung chuông vàng”.

Luật chơi: HS thi lần lượt từng câu, ghi đáp án của mình vào bảng con, mỗi câu
suy nghĩ trong 10 giây. Hết thời gian quy định em có đáp án đúng được chơi
tiếp. Em sai mất quyền chơi. Người chiến thắng là người trả lời đúng tất cả sẽ
được "Rung chuông vàng." và được nhận phần thưởng.
3.1.3. Nguyên tắc khai thác và thực hành :

10


Khi thiết kế trò chơi trong tiết học trên cơ sở nắm chắc yêu cầu, nội dung
kiến thức của bài học, người giáo viên phải nắm chắc mục đích của mỗi trò chơi
từ đó có kế hoạch chuẩn bị và hướng dẫn HS chuẩn bị cho trò chơi hợp lý. GV
cần sử dụng triệt để đồ dùng, phương tiện có sẵn của môn học ( bộ Đồ dùng dạy
học Toán 2, đồ dùng của giáo viên, học sinh, tranh ảnh ...).
- Các đồ dùng tự làm của giáo viên khai thác từ những vật liệu gần gũi xung
quanh ( Từ các phế liệu như : Vỏ hộp bánh kẹo, đầu gỗ, đầu nứa, nắp chai, giấy
bìa) sao cho đồ dùng vừa đảm bảo tính khoa học, tính giáo dục, tính thẩm mỹ
nhưng ít tốn kém.
Từ các nguyên tắc trên, tôi đã căn cứ vào nội dung kiến thức trong sách giáo
khoa, căn cứ vào thời gian, mục tiêu đề ra ở mỗi tiết học cũng như đối tượng học

sinh, môi trường học tập ở trường (*), nơi tôi đang công tác để thiết kế các trò
chơi sử dụng trong giờ học toán lớp 2.
3.2. Cấu trúc một trò chơi học tập:
Một trò chơi được viết theo cấu trúc sau:
+ Mục đích : nêu rõ mục đích của trò chơi nhằm ôn luyện, củng cố kiến
thức, kỹ năng nào.
Ví dụ : Củng cố kỹ năng thực hiện phép cộng, phép trừ...
Mục đích của trò chơi quy định hành động chơi được thiết kế trong trò chơi.
+ Luật chơi : chỉ rõ các quy định đối với người chơi, quy định thắng thua
trong trò chơi.
+ Chuẩn bị : nêu rõ đồ dùng, dụng cụ, phương tiện,... được sử dụng trong
trò chơi. Ví dụ : xúc xắc, bàn cờ, hình, lá cờ...
+ Số người tham gia chơi : chỉ rõ số người tham gia chơi, những trò chơi
có thể tổ chức cho nhiều người chơi, chẳng hạn 2, 3 hoặc 4 người chơi... cần
được chỉ rõ.
+ Cách phát triển trò chơi : chỉ ra số cách biến thể trò chơi . Dựa vào hình
thức, cách chơi và luật chơi của trò chơi có sẵn, ta có thể thay thế các trò chơi

11


một cách linh hoạt tạo nhiều trò chơi phù hợp với đối tượng học sinh, phù hợp
với nội dung kiến thức củng cố ôn luyện .
3.3 Cách thức tổ chức trò chơi học tập:
* Các trò chơi được tổ chức theo nhóm hoặc cả lớp ở ngay trong lớp học với
thời gian từ 5 đến 10 phút.
Việc chuẩn bị các trò chơi đơn giản, dễ làm, dễ tìm ( bảng phụ, bảng con,
bìa lịch cũ được dán, mẩu dây thép, sợi dây, bông hoa giấy, hình... )
* Giáo viên phải hướng dẫn cụ thể cách chơi rồi sau đó các nhóm tự đánh
giá, giám sát lẫn nhau. Ngoài ra giáo viên phải có nhận xét, khích lệ, củng cố

không nên để thời gian chơi quá dài ảnh hưởng đến giờ học.
* Một trò chơi học tập thường được tiến hành :
- Giới thiệu trò chơi :
+ Nêu tên trò chơi.
+ Hướng dẫn cách chơi. Vừa mô tả, vừa thực hành.
+ Phân nhóm chơi.
+ Chơi thử ( nếu cần )
+ Nhấn mạnh luật chơi, nhất là những lỗi lầm thường gặp ở phần chơi thử.
+ Chơi thật, xử “ phạt ” những người vi phạm luật chơi.
- Người chủ trò : là người tổ chức trò chơi được gọi là ngừơi “ chủ trò ”
hoặc người “ đầu trò ”. Trò chơi học tập thường do giáo viên làm chủ trò, khi
học sinh đã chơi qua thì giáo viên có thể giao cho học sinh.
- Người tổ chức chương trình cần :
+ Hăng hái, gây hứng thú cho một người.
+ Có khả năng lôi kéo, thu hút.
+ Kiên nhẫn, nói rõ ràng, vui vẻ.
- Thưởng – Phạt :
+ Thưởng – phạt phải công minh, đúng luật sao cho người chơi chấp
nhận thoải mái và tự giác, làm cho trò chơi thêm hấp dẫn, kích thích hứng thú
học tập của học sinh.

12


+ Thưởng những học sinh, nhóm học sinh tham gia nhiệt tình, đúng
luật và “ thắng ” trong trò chơi .
+ Phạt những học sinh vi phạm luật chơi bằng hình thức đơn giản,
như : chào các bạn thắng cuộc, kể chuyện vui, hát một bài ( một câu ), múa hoặc
nhảy lò cò...
4. MỘT SỐ TRÒ CHƠI HỌC TẬP MÔN TOÁN 2

4.1. Các trò chơi có nội dung về số học:
*Trò chơi 1: Ong tìm mật
a/ Mục đích :
+ Củng cố kỹ năng tính toán
+ Rèn tính đoàn kết, tinh thần tập thể.
b/ Chuẩn bị :
+ 5 bông hoa, nhụy hoa có ghi các phép tính trừ như hình dưới.
+ 5 chú ong, mỗi chú ong gắn kết quả 1 phép tính

c/Cách chơi :
+ Chọn 2 đội, mỗi đội 4 em
+ Giáo viên chia bảng làm 2, gắn mỗi bên bảng một bộ 5 bông hoa và 5 chú ong
xếp ở dưới không theo trật tự.
13


Giới thiệu cách chơi: Cô có 5 bông hoa, ở nhụy hoa có ghi các phép tính,
còn những chú Ong có nhiệm vụ lấy mật, chú ong nào mang kết quả đến đúng
phép tính thì sẽ được hút mật. Nhưng các chú Ong không biết phải tìm như thế
nào, các chú muốn nhờ các con giúp, các con có giúp được không ?
- 2 đội xếp thành hàng. Khi nghe hiệu lệnh “bắt đầu” thì lần lượt từng bạn
lên chuyển các chú ong đến các phép tính với số thích hợp. Bạn thứ nhất ghép
xong phép tính đầu tiên về chỗ cho bạn thứ 2 lên, cứ như vậy cho đến hết các
phép tính. Trong vòng 1 phút, đội nào ghép đúng và nhanh hơn là đội chiến thắng.
Lưu ý: Trò chơi trên nếu soạn Bài giảng điện tử, GV sẽ mời 5 HS chơi lần lượt,
mỗi em chọn 1 chú ong bất kỳ và nêu phép tính phù hợp với kết quả. Nếu HS
nói đúng cả lớp thưởng một tràng pháo tay, nếu nói sai GV mời HS khác chơi.
d/ Trò chơi được áp dụng vào dạy các bài: Các bảng cộng, trừ, nhân, chia
Cụ thể Tiết 61 : 14 trừ đi một số : 14 - 8
Tương tự như trò chơi trên nhưng để giúp HS hứng thú hơn trong mỗi tiết

học GV có thể thay đổi tên gọi và hình thức trò chơi như: Gà về chuồng, Hái
quả, Hái nấm, Thỏ bít ăn cà rốt, Tìm nhà cho các con vật...
Trò chơi: “Tìm nhà cho các con vật” đã áp dụng trong bài dạy :
6 cộng với một số: 6 + 5 – SGK, trang 34

* Trò chơi 2: Họa sĩ tài ba
a) Mục đích: - Củng cố về cộng, trừ các số trong phạm vi 20.
14


- Rèn luyện đôi tay khéo léo, tính cẩn thận.
b) Chuẩn bị: Giáo viên ghi các số, các phép tính vào các hình bảng phụ như hình
1, hình 2, hình 3

H×nh 1

15


Hình 2
c) Cách chơi:
+ Với hình vẽ 1 và hình vẽ 2. Bốn tổ mỗi tổ gọi 3 học sinh lên tô màu
Những quả có giá trị số < 10 tô màu xanh (quả xanh)
Những quả có giá trị số = 10 tô màu vàng (quả gần chín)
Những quả có giá trị số > 10 tô màu đỏ (quả chín)Một em tô lá cây màu
xanh cốm, một em tô thân cây màu nâu. Một em tô các quả theo yêu cầu. Tổ nào
tô nhanh đúng và đẹp sẽ thắng cuộc.
d/Trò chơi được ứng dụng trong bài: Ôn tập về phép cộng và phép trừ SGK Toán
Trang 82.


Hình 3
+ Với hình 3: Bốn tổ mỗi tổ 2 học sinh đại diện lên tô màu vào các cánh hoa sao
cho: Tổng hai cánh hoa cùng màu bằng số ở nhụy hoa. Tổ nào tô nhanh, đúng và
đẹp hơn là người thắng cuộc.
d) Trò chơi được ứng dụng trong bài : Luyện tập về phép cộng – SGK Toán
trang 29.

* Trò chơi 3: Tính nhanh nối đúng
a/ Mục đích: - Rèn cho HS kĩ năng tính cộng nhanh các số trong phạm vi 20
16


b/ Chuẩn bị: Chuẩn bị 4 bảng phụ ghi nội dung
c/ Cách chơi: Bốn tổ mỗi tổ lấy ra 2 học sinh đại diện lên thi nối. Ai nối đúng và
nhanh hơn sẽ thắng cuộc.
d/ Trò chơi được ứng dụng trong các tiết dạy:
- Bài: 6 cộng với một số: 6 + 5 – SGK Toán Trang 34.
* Trò

chơi 4 : Bác mặt nạ thông thái
a/Mục đích : - Giúp học sinh củng cố lại thứ tự thực hiện phép tính trong

biểu thức .
- Rèn luyện kỹ năng quan sát, khả năng diễn đạt thành thạo, tự tin .
b/Chuẩn bị : Giáo viên chuẩn bị 4 biển hình mặt nạ, một bên có hình mặt
cười một bên có hình mặt mếu, 4 bảng con. Chọn 3 đội chơi, mỗi đội chơi
khoảng 3 em. Chọn ban thư ký, ban giám khảo, các em còn lại là cổ động
viên .
c/Cách chơi : Chơi thi đua giữa các đội
- Giáo viên lần lượt xuất hiện từng bảng con. Trên mỗi bảng con có ghi cách

thực hiện 1 dãy tính .
Ví dụ:
3 x 4 + 2
= 12 + 8
=

20

3 x 4 + 2
=3x6
=

18

0 : 4 + 6

0 : 4 + 6

= 0 + 10

=

0 + 6

=

=

6


10

Mỗi lần giáo viên xuất hiện một bảng con, các đội quan sát nội dung. Khi
giáo viên có tín hiệu nếu đội nào thấy thực hiện đúng thì giơ mặt cười nếu
thấy là thực hiện sai thì giơ mặt mếu. Giáo viên có thể nêu câu hỏi chấp vấn
thêm để các em nhớ lại thứ tự thực hiện phép tính trong một biểu thức như vì
sao đội em cho là đúng ? Hoặc căn cứ vào đâu mà đội em cho là sai ?
17


- Giáo viên cũng đưa ra đáp án bằng cách quay mặt nạ .
- Ban thư ký tổng hợp điểm sau một cuộc chơi : Mỗi lần trả lời đúng, quay mặt
nạ đúng thì được10 điểm, nếu quay mặt nạ đúng xong chưa trả lời được câu hỏi
phụ của giáo viên thì bị trừ đi 1- 2 điểm . Đội nào nhiều điểm nhất đội đó sẽ
thắng cuộc được thưởng .
d/ Trò chơi được ứng dụng khi dạy tiết: Luyện tập ( SGK – tr 100), Luyện tập
( SGK – tr 102), Luyện tập chung (SGK – tr 105), Luyện tập chung (SGK – tr
136)
* Trò chơi 5 : Đôminô - Tìm x
a/ Mục đích: Củng cố quy tắc tìm x đã học
b/ Chuẩn bị: Vài bộ “Đôminô”, mỗi bộ 15 quân bằng bìa như sau:

Hiệu

=
-

Thừa số
chưa biết


=
+

Số hạng
đã biết

Số
bị trừ

Số trừ

Tích

Số
chia

:

Hiệu

=

Thừa số
đã biết

-

+

Số

bị trừ

Số
bị trừ

Số trừ

Số hạng
chưa biết

=

Thương

=

Số
trừ

=

Hiệu

Số
bị chia

=

Tổng


c/ Cách chơi: Mỗi lần ba nhóm chơi, mỗi nhóm 3 em. Giáo viên phát cho mỗi
nhóm 1 bộ quân “Đôminô” đã được xáo trộn thứ tự các quân. Sau hiệu lệnh của
cô giáo các nhóm bắt đầu chọn quân để sắp xếp thành một hàng ngang nối tiếp
nhau biểu thị 6 quy tắc tìm x đã học.
Thương

x

Số
chia

Thừa số
chưa biết

=

=

Tích

Số
bị chia

Thừa số
đã biết
18

Số Số hạng
chưa
trừ


:


Nhóm nào xếp nhanh, đẹp nhất là nhóm thắng. Sau đó mời các nhóm khác lên
chơi với nhau.
Lưu ý: Khi viết quân “ Đôminô” giáo viên cần xáo trộn thứ tự các quy tắc. Tránh
viết 3 bộ giống hệt nhau để học sinh các nhóm này không thể nhìn nhóm kia mà
bắt chước được.
d/ Trò chơi được sử dụng trong bài : Tìm số bị trừ - Tiết dạy 127
* Trò

chơi 6: Nối nhau tính tài

a/ Mục đích: - Luyện tập các phép cộng và trừ trong phạm vi 100.
b/ Chuẩn bị : - Giáo viên chia bảng đen thành hai phần và vẽ sẵn mỗi phần bảng
một hình như sau :

+
(1)

(2)

+
(3)

(4)

+
(5)


=

100

(6)

- Giáo viên chuẩn bị sẵn hai bộ thẻ, mỗi bộ gồm 9 thẻ trên đó có ghi các
chữ số từ 1 đến 9.
c/ Cách chơi :
Hai tổ cùng chơi dưới sự điểu khiển của giáo viên. Mỗi tổ cử một đội 6
người. Khi giáo viên ra lệnh “ bắt đầu ” thì người số 1 của mỗi đội lên nhận cờ
và bốc thăm hai chữ số lập thành một số có hai chữ số ( chữ số hàng chục bắt
trước, chữ số hàng đơn vị bắt sau )và viết số đó vào ô số ( 1 ) rồi nhanh chóng
trao cờ cho người số 2. Sau khi nhận được cờ, người số 2 chạy lên bảng viết một
số có hai chữ số ( tuỳ theo ý mình ) vào ô số ( 2 ) và làm nhẩm phép tính cộng
rồi ghi kết quả lên phần trên của ô đó, sau đó nhanh chóng trao cờ cho người số
3. Người số 3 viết tiếp một số có hai chữ số ( tuỳ theo ý mình ) vào ô số ( 3 ) và
làm nhẩm phép tính trừ rồi ghi kết quả lên phần trên của ô số ( 3 ), sau đó lại
nhanh chóng trao cờ cho người số 4v. v... Cứ như thế cuối cùng người số 6 phải
tìm ra số sao cho khi viết vào ô số ( 6 ), thì phép cộng cuối cùng có kết
19


quả đúng bằng 100.
Đội nào làm đúng và về đích trước thì tổ của đội đó thắng cuộc và được
giáo viên cho điểm cao.
Sau đó hai tổ khác tiếp tục chơi . Cuối cùng các tổ được xếp hạng theo số
điểm mà đội của mỗi tổ đã nhận được.
d/ Trò chơi được sử dụng trong các tiết toán :

- Tiết 67 : Luyện tập.
- Tiết 74 : Luyện tập chung.
- Tiết 81, 82 hoặc 83 : Ôn tập về phép cộng, phép trừ.
- Tiết 88 : Luyện tập chung.

* Trò chơi 6: Kẻ tung, người hứng
a/ Mục đích :
- Giúp học sinh học thuộc bảng nhân, chia. Kết hợp rèn luyện mắt, tay, chân
nhanh nhẹn, khéo léo.
b/ Chuẩn bị :
- Một sọt màu xanh đựng khoảng 20 quả bóng nhựa, trên mỗi quả bóng có
ghi một phép nhân, chia trong bảng nhân ( chia ) 2, 3, 4, 5.
- Một sọt màu đỏ để trống.
c/ Cách chơi:
Hai đội chơi, mỗi đội 10 em. Đội trưởng ( của mỗi đội ) đứng cạnh sọt đựng
bóng. Toàn đội xếp một hàng thẳng cách sọt bóng 3 m. Đội trưởng nhặt bóng
trong sọt tung cho bạn đứng thứ nhất ( của đội mình ). Bạn này chạy lên bắt
bóng rồi nhanh chóng làm tính và hô to lên, chẳng hạn : “ 2 x 5 = 10 ”. Nếu bạn
này tính đúng thì được bỏ bóng vào sọt đỏ rồi chạy xuống cuối hàng. Đội trưởng
tiếp tục tung quả bóng thứ hai. Bạn thứ hai chạy lên bắt bóng và làm tính ....
Bạn nào không bắt được bóng thì chạy xuống cuối hàng. Đội nào có
bạn bắt được bóng nhưng tính sai thì không được chơi tiếp nữa.
Trong 3 phút, đội nào bỏ được nhiều bóng vào sọt màu đỏ hơn thì đội đó
thắng cuộc.

20


Ghi chú : Trọng tài có thể là giáo viên hoặc một học sinh giỏi của lớp. Khi
một học sinh tính đúng thì trọng tài giơ “ găng tay xanh ” để đội đó được chơi

tiếp. Khi một học sinh tính sai thì trọng tài giơ “ găng tay đỏ ” và đội ấy phải
ngừng chơi.
d/ Trò chơi được sử dụng trong các tiết toán:
- Tiết 101 : Luyện tập ( các bảng nhân 2, 3, 4, 5.)
Trên mỗi qủa bóng giáo viên chỉ ghi các phép tính nhân đã học.
- Tiết 122 : Luyện tập ( các bảng chia 2, 3, 4, 5. )
- Tiết 123 : Luyện tập chung.
*Trò chơi 7: Chinh phục đỉnh OLYMPIA
a/ Mục đích : Luyện kĩ năng tính trong các bảng nhân, chia, đã học
b/ Chuẩn bị : + Phấn màu hoặc bút dạ
+ 2 bảng phụ hoặc 2 tờ bìa cứng ghi nội dung như sau:
90 : 3 =
0x5=

4:1=
5x5=

3x9=
20 : 4 =

4x8=
10 : 2 =

5x4=
2x3=

3x2=

c/ Cách chơi :
+ Chọn 2 đội chơi . Mỗi đội 5 em lên bảng, có nhiệmvụ điền kết quả vào các

phép tính. Khi nghe hiệu lệnh “ Bắt đầu “ 2 đội bắt đầu nhẩm nhanh rồi ghi kết
quả vào từng phép tính một, em này điền xong thì lại đến em khác, từ dưới lên:
cứ như vậy đội nào leo lên dốc “ 90: 3” trước là đội đó thắng cuộc.
+ Nếu đội leo lên đỉnh trước mà làm không đúng hết thì ta tính số bậc ( làm
phép đúng) của cả hai đội để lựa chọn.
+ Đội thắng cuộc được thưởng 1 tràng pháo tay. Đội thua cuộc thì phải hát tặng
các bạn 1 bài hát.
21


d/ Trò chơi này có thể áp dụng với : Tiết 131 – Luyện tập chung và trong các
tiết khác tương tự chỉ cần thay các phép tính phù hợp là được.
Giáo viên có thể linh hoạt cho HS làm tập dưới hình thức trò chơi. Ví dụ: Khi
dạy bài 26 + 5(SGK – 35) , phần bài tập 2 tôi đã tổ chức cho HS chơi “Chinh
phục đỉnh Olympia”

* Trò chơi 8 : Xếp hàng thứ tự.
a/ Mục đích chơi : Giúp học sinh củng cố cách so sánh và sắp xếp các số theo
thứ tự từ bé đến lớn và ngược lại .
b/ Chuẩn bị chơi :
- GV chuẩn bị 2 lá cờ hiệu ( Cờ giấy nhỏ, 2 lá có màu khác nhau )
- Học sinh – mỗi đội 5 bảng con trong mỗi bảng có ghi các số .

106

108

103

105


107

c/ Cách chơi :
- Mời 2 đội chơi, mỗi đội 5 em; các em tự đặt tên cho đội mình ( Ví dụ : tên gọi
tương ứng với màu sắc của cờ hiệu như đội Xanh, đội Đỏ )

22


- Hai đội trưởng lên nhận bảng con của đội mình và phát cho mỗi bạn một bảng
con. Giáo viên yêu cầu hai đội quan sát, tự so sánh các số vừa nhận trong nhóm
với nhau (trong 1, 2 phút )
- Quy ước : Khi cô giáo hô hiệu lệnh và giơ 2 lá cờ trên 2 tay về hai phía( sang
ngang ) yêu cầu các em nghe, giơ biển lên cao và xếp mỗi đội một hàng ngang,
bắt đầu từ cô giáo. Khi cô đưa 2 lá cờ song song về phía trước các em tập hợp
hàng dọc.
- Giáo viên bắt đầu hô các cách khác nhau như : “ Tập hợp theo thứ tự từ bé đến
lớn ” ; “ Tập hợp theo thứ tự từ lớn đến bé ” sau hai ba lần thi thay đổi các biển
giữa hai đội rồi tiếp tục chơi .
- Ban thư ký ghi kết quả và tổng hợp điểm. Mỗi lần xếp hàng đúng thứ tự,
nhanh, không ồn ào, xô lấn, làm lộn xộn, cho 10 điểm. Xếp chậm, không thẳng
hàng, mất trật tự trừ 2 điểm . Đội nào xếp sai không ghi điểm. Sau 5 phút kết
thúc trò chơi đội nào nhiều điểm sẽ thắng cuộc .
d/ Trò chơi có thể sử dụng ở các tiết:
- Các số từ 101 đến 110 ( SGK, tr 143); Các số từ 111 đến 200
- Luyện tập (SGK, tr 149)
- So sánh các số trong phạm vi 100; Ôn tập về các số trong phạm vi 1000 (tiếp
theo) - ( SGK, tr 169)
4.2 Các trò chơi có nội dung về đại lượng, đo lường

* Trò chơi 1: Ai nhanh ai khéo
a/ Mục đích: Củng cố về đơn vị đo độ dài dm
b/ Chuẩn bị: 4 sợi len dài 4dm
c/ Cách chơi: Giáo viên phát cho mỗi nhóm 4 học sinh 1 sợi len dài 4dm. Yêu
cầu học sinh đo để biết sợi len dài bao nhiêu cm, bao nhiêu dm ?
+ Làm thế nào để cắt sợi len thành 3 đoạn, trong đó có 2 đoạn dài 1dm và 1
đoạn dài 2dm ?
- Học sinh thảo luận cách cắt.
Nhóm nào cắt xong đầu tiên và đúng sẽ được thưởng.
d/ Trò chơi được ứng dụng vào bài toán về dm (SGK. tr 7)
23


* Trò chơi 2: Nhanh tay ghép đúng
a/ Mục đích: Rèn kĩ năng ước lượng số đo độ dài.
b/ Chuẩn bị: Hai bộ thẻ, mỗi bộ có 10 tấm thẻ, chẳng hạn:
- 5 tấm thẻ ghi: km, m, dm, cm, mm.
- 2 tấm thẻ ghi:
+ Cầu Thăng Long dài 5...
+ Cột cờ cao 10...
+ Gang tay của bố dài 21..
+ Sách Toán 2 dày 9...
+ Ghế tựa cao 8...
c/ Cách chơi: Hai đội, mỗi đội 10 người thi đua với nhau.
Giáo viên phát cho mỗi đội 1 bộ thẻ. Đội trưởng của mỗi đội phát cho mỗi
đội viên của mình 1 thẻ. Các bạn trong mỗi đội phải tìm cách ghép mỗi thẻ loại
(a) với một thẻ loại (b) tương ứng để được một số đo độ dài hợp lí, chẳng hạn:
Cầu Thăng Long dài 5

km


Cột cờ cao 10

m

Gang tay của bố dài 21

cm

Sách Toán 2 dày 9

mm

Ghế tựa cao 8

dm

Đội nào ghép đúng và nhanh hơn là thắng cuộc.
d/ Trò chơi được ứng dụng trong tiết: Luyện tập về m, km và mm (SGK. tr154)
* Trò chơi 3: Trò chơi tiếp sức
Trò chơi ghép thành số đo, cũng có thể chuyển thành trò chơi tiếp sức.
a/ Mục đích: Rèn kĩ năng ước lượng số đo độ dài
b/ Chuẩn bị: 2 bảng phụ ghi
Viết mm, cm, dm, m hoặc km vào chỗ chấm
+ Cầu Thăng Long dài 5...
24


+ Cột cờ cao 10...
+ Gang tay của bố dài 21...

+ Sách Toán 2 dày 9...
+ Ghế tựa cao 8...
c/ Cách chơi: Hai đội, mỗi đội 5 em, mỗi em viết một đơn vị. Khi giáo viên
hô: “bắt đầu”, em thứ nhất của hai đội lên bảng viết một đơn vị đo độ dài mà
mình cho là đúng vào chỗ chấm, rồi đưa phấn cho em thứ hai. Em thứ hai làm
tương tự... cho đến em thứ năm, đội nào đúng và nhanh hơn là thắng cuộc (giáo
viên quy định thời gian).
d/ Trò chơi được ứng dụng trong tiết::
- Bài Luyện tập (tr 127)
- Bài Mét ( tr 150)
- Bài Mi- li – mét ( tr 153)
- Luyện tập về m, km và mm (SGK.tr154)
*Trò chơi 4 : “ Đồng hồ chạy đúng nhất ”
a/ Mục đích: Củng cố về kĩ năng xem đồng hồ
b/ Chuẩn bị: 4 mô hình đồng hồ (trong bộ thực hành học Toán 2)
c/ Cách chơi: Chia lớp thành 4 đội chơi – 4 tổ theo lớp học
+ Lần 1: gọi 4 em đại diện 4 đội, phát mỗi em 1 mô hình đòng hồ. Khi
nghe giáo viên hô 1 giờ nào thì học sinh phải lập tức quay kim đến đúng giờ đó.
Em nào quay chậm nhất hoặc quay sai bị loại khỏi cuộc chơi.
+ Lần 2: Các đội thay người khác chơi
+ Cứ chơi như vậy 8 – 10 lần. Đội nào còn nhiều thành viên nhất là đội
thắng cuộc.
Lưu ý: Để các em chơi vui và thử phản ứng nhanh giáo viên cần ghi sẵn một
số giờ ra giấy( không mất thời gian nghĩ lâu) để hô: 5 giờ, 14 giờ 15 phút, 4 giờ
30 phút, 8 giờ , 6 giờ rưỡi, 22 giờ, 7 giờ 15 phút, ...
d/ Trò chơi được ứng dụng trong tiết :
- Thực hành xem đồng hồ (SGK. tr 78)
- Luyện tập chung ( tr 81)
- Thực hành xem đồng hồ (SGK. tr 126)
25



×