SKKN: Làm thế nào để học sinh nói tốt trong phân môn Tập làm văn.
I/ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là một trong những tư tuởng quan trọng trong
chiến lược dạy học các môn ngôn ngữ ở trường phổ thông nói chung cũng như môn
Ngữ văn nói riêng. Hiện nay các nước trên thế giới rất coi trọng quan điểm này, lấy hoạt
động giao tiếp làm một trong những căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động
ngôn ngữ mà cụ thể là nghe, đọc, nói,viết cho người học.
Nếu như nghe, đọc là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông tin thì
nói và viết là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền được thông tin cần
được rèn luyện và phát triển trong Nhà trường.
Luyện nói trong nhà trường là giúp học sinh có thói quen trong những môi trường
giao tiếp khác nhau. Nó được thực hiện một cách có hệ thống theo chủ đề nhất định gắn
với những vấn đề quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày, đảm bảo những yêu cầu cơ
bản về ngôn ngữ và phi ngôn ngữ ( Ví dụ như: lời, mạch lạc, liên kết, nghi thức lời nói,
các quy tắc hội thoại, cử chỉ, nét mặt, âm lượng, sức hấp dẫn,…). Luyện nói tốt sẽ giúp
cho người học có được một công cụ giao tiếp hiệu quả trong học tập,cuộc sống và xã
hội.
Thực tế học tập của học sinh THCS nói chung và đặc biệt là học sinh vùng khó
cũng như miền núi nói riêng, việc diễn đạt ngôn ngữ tốt là rất yếu.
Thực tế cho thấy rằng, hằng ngày việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy và học
ngày càng nhiều, đó là một sự phát triển đi lên. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn xảy ra sự
hạn chế của nó, đó là coi trọng cung cấp kiến thức mà quên đi việc rèn luyện kĩ năng
nói và viết, đặc biệt là kĩ năng nói. Nếu chúng ta không kết hợp được một cách song
song thì chắc chắn học sinh ngày càng gặp khó khăn khi muốn trình bày một vấn đề
trước tập thể.
Trước vấn đề đó, làm thế nào để phát huy khả năng diễn đạt cho học sinh được tốt?
Trong phân môn Tập làm văn đã có những tiết luyện nói nhằm giúp cho học sinh luyện
cách nói hay, nói tốt, nhưng thực tế học sinh chưa có cơ hội được nói nhiều. Một số tiết
học cũng chưa được lôi cuốn thật sự. Với kinh nghiệm và thực tế giảng dạy cùng với
việc áp dụng sáng kiến này qua nhiều năm học qua, bản thân tôi đã đúc rút được những
kinh nghiệm về những mặt được và chưa được. Và để hoàn thiện, đạt kết quả cao hơn
cho những tiết dạy luyện nói tiếp theo, đó là điều mà tôi tiếp tục thực hiện, bổ sung cho
sáng kiến “ Làm thế nào để học sinh có thể nói tốt, nói hay trong phân môn Tập làm
văn?”.
GV thực hiện: Nguyễn Thị Thu Vân. Trường THCS Triệu Nguyên
1
SKKN: Làm thế nào để học sinh nói tốt trong phân môn Tập làm văn.
II/ PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Bao gồm các tiết luyện nói trong chương trình Ngữ văn THCS.
• Lớp 6: - Luyện nói kể chuyện.
- Luyện nói quan sát tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn miêu tả.
• Lớp 7: - Luyện nói văn biểu cảm về sự vật, con người.
- Luyện nói phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học.
- Luyện nói bài văn giải thích một vấn đề.
• Lớp 8: - Luyện nói theo ngôi kể kết hợp với miêu tả và biểu cảm.
• Lớp 9: - Luyện nói tự sự kết hợp vơi nghị luận và miêu tả nội tâm.
- Luyện nói nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ.
Đối tượng là học sinh THCS, học sinh miền vùng khó khăn nói chung và học sinh
Trường THCS Triệu Nguyên nói riêng.
III/ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Loài người khác với loài vật là nhờ tiếng nói. Nhờ có tiếng nói mà loài người có thể
hiểu nhau, liên kết với nhau để tổ chức thành một xã hội. Xã hội con người càng phát
triển, những thành tựu văn minh ngày càng lớn cũng bởi là có tiếng nói.
Một người muốn thành đạt trong công việc hay trong sự nghiệp rất cần khả năng nói
tốt, nói hay. Nói hay là làm cho người khác hiểu điều mình nói, làm người khác tin
mình, làm theo mình và bị cuốn hút bởi nội dung mình nói. Khả năng nói một phần là
do bẩm sinh nhưng phần lớn là do sự khổ luyện.
Trước khi đi vào ví dụ cụ thể, bài viết xin dẫn ra một vài ví dụ chứng minh cho sự
khổ luyện để thành người hùng biện giỏi:
Xô- crát là người sống ở thời cổ đại Hy Lạp. Ông vốn là người nói lắp, nói ngọng,
nhưng có tư duy rất thông thái. Nhưng những điều thông thái của ông không mấy người
biết đến và nể phục bởi ông không diễn đạt được chúng một cách trôi chảy và rõ ràng.
Để khắc phục nhược điểm ấy ông đã ra bờ biển để luyện tập. Cứ thế cuối cùng ông trở
thành nhà hùng biện, một người nổi danh, thành đạt bởi tư duy triết học uyên bác.
Hoặc Tô Tần, người nước Chu thời cổ đại Trung Hoa, bỏ việc làm ăn đi hành nghề
du thuyết. Nhưng thất bại và ông đã trở về, đồng thời bị mọi người chê cười. Sau đó
ông lại quyết tâm đóng cửa nghiên cứu thuật thuyết phục người đọc. Lúc này Trung
Hoa chưa thống nhất và nhờ tài hùng biện nên ông đã thuyết phục được các nước Sở,
Yên, Hàn, Tề chống lại nước Tần và ông đã lừng danh hiển đạt.
GV thực hiện: Nguyễn Thị Thu Vân. Trường THCS Triệu Nguyên
2
SKKN: Làm thế nào để học sinh nói tốt trong phân môn Tập làm văn.
Nói như vậy để chúng ta thấy rằng mọi cái đều có thể làm được nếu như rèn luyện.
Và đối với học sinh THCS, đặc biệt là ở vùng khó thì để học sinh nói tốt một vấn đề
trước tập thể là cả một quá trình chuyên tâm chuẩn bị của cả giáo viên và học sinh.
Nói là một trong những kĩ năng rất quan trọng trong giao tiếp hằng ngày. Trong
thực tiễn dạy học môn văn và tiếng Việt trước đây, môn Ngữ văn hiện nay không phải
khi nào cả bốn kĩ năng nghe, đọc, nói, viết đều được chú trọng và phát triển đồng thời.
Thông thường đối với môn Ngữ văn thường chú trọng đến việc cung cấp tri thức hoặc
vấn đề đọc diễn cảm, đọc hiểu hay chú trọng đến viết mà lướt qua việc nghe, nói.Vì thế
mà thực tế có học sinh khi ra trường không biết lắng nghe và thấu hiểu, không biết nói
ra những điều mình nghĩ, không truyền đạt được chính xác một thông tin hoặc không
nói đúng theo nguyên tắc giao tiếp. Cũng không biết viết những văn bản tối thiểu phục
vụ cho cuộc sống hằng ngày, không biết đọc hiểu chính xác một văn bản…
Theo kết quả điều tra về thực trạng triển khai SGK THCS mới cũng như việc triển
khai đề tài này từ các năm trước đã đưa lại kết quả rất khả quan. Tuy nhiên như đã đặt
vấn đề ở trên thì đây là một công việc luôn luôn không ngừng thực hiện, rút kinh
nghiệm, bổ sung để ngày càng hoàn thiện trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn.
Thực tế cho thấy tâm lí chung của giáo viên dạy môn Ngữ văn là rất ngại các tiết
luyện nói. Nguyên nhân cơ bản là do sự mâu thuẫn giữa thời gian luyện nói mà yêu cầu
luyện tập thì không đơn giản. Bên cạnh đó còn có nguyên nhân tương đối quan trọng
như: học sinh chưa có kĩ năng nói trước tập thể; lớp học chưa được thiết kế theo kiểu
đàm thoại, đối thoại, thảo luận; Giáo viên còn nhiều lúng túng khi tổ chức một giờ
luyện nói; những vấn đề lí thuyết cũng như đúc rút thực tiễn về kĩ năng luyện nói trong
nhà trường phổ thông chưa được nghiên cứu và phổ biến tới các giáo viên đứng lớp…
Trong tình hình hiện tại, để nâng cao chất lượng giờ luyện nói, bản thân giáo viên nên
chủ động phát huy kinh nghiệm của cá nhân và đồng nghiệp, phải linh hoạt vận dụng
các hình thức đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập
của học sinh, vận dụng sáng tạo lí thuyết giao tiếp vào các giờ luyện nói cũng như luyện
nói cho học sinh trong các giờ học khác.
Với mục đích nâng cao tính ứng dụng trong quá trình học tập môn Ngữ văn trong nhà
trường, nhằm giúp học sinh có thể nói và giao tiếp tốt, việc luyện nói cho học sinh cần
phải tiến hành thường xuyên trong các giờ học Ngữ văn và phải được rèn luyện kết hợp
với các kĩ năng khác. Theo kinh nghiệm phần lớn giáo viên Ngữ văn cho rằng hiệu quả
của việc luyện nói cho học sinh cao hơn nếu như được quan tâm khi học sinh phát biểu
miệng trong các giờ học và trả lời bài cũ. Rèn luyện cho các em phải suy nghĩ trước khi
nói, nói đúng vấn đề cần trao đổi, khi nói cần bình tĩnh, tự tin, nói đúng nghi thức và
nguyên tắc hội thoại,biết vận dụng các yếu tố phi ngôn ngữ để lời nói thêm thuyết phục.
GV thực hiện: Nguyễn Thị Thu Vân. Trường THCS Triệu Nguyên
3
SKKN: Làm thế nào để học sinh nói tốt trong phân môn Tập làm văn.
IV/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để thực hiện đề tài trên giáo viên đã thực hành các tiết dạy luyện nói, dự giờ các tiết
dạy của giáo viên có liên quan.
- Phát phiếu thăm dò tâm lí học sinh khi được học các bài luyện nói.
- Dùng bài tập trắc nghiệm đối với học sinh và giáo viên cùng bộ môn.
- Trao đổi, đúc rút kinh nghiệm qua các giáo viên đã gjiảng dạy.
V/ NỘI DUNG:
1, Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nói:
Trong quá trình giao tiếp (hội thoại), không phải lúc nào người nói cũng nói đúng
những điều mình nghĩ, hoặc nói để người nghe hiểu đúng ý mình. một ngôn bản nói
muốn hoàn thiện được chức năng giao tiếp phải phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản như:
nhân vật giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp.
- Nhân vật giao tiếp gồm người nói và người nghe. Hiệu quả giao tiếp không phụ
thuộc vào người nói mà phụ thuộc vào người nghe. Trong thực tiễn giao tiếp người
nghe có khi là một, lớn hơn một và nhiều khi lớn hơn rất nhiều. Vì thế nói sao cho
người nghe hiểu là một vấn đề rất quan trọng.. Người nói khi đã chuẩn bị được nội
dung thì sẽ tìm cách bộc lộ truyền đạt thông tin tới người nghe qua ngôn ngữ nói.
Người nghe tiếp xúc với yếu tố ngôn ngữ mà người nói phát ra, giải mã để tiếp
nhận đúng thông tin. Cuộc giao tiếp giữa người nói và người nghe bao giờ cũng nhằm tới
một mục đích nhất định với ba loại tác động về nhận thức- tình cảm – hành động. Các mức
trên đạt mức càng cao thì hiệu quả giao tiếp càng lớn.
- Đối tượng giao tiếp chính là mảng thực tế được nói tới trong cuộc hội thoại. Nó có
thể là một sự kiện, một vấn đề tư tưởng, tình cảm…, thuộc các lĩnh vực khác nhau
nhưng nhiều khi người nói không thể thực hiện đúng hoặc không thể thực hiện được
những điều cần nói và điều này sẽ tạo nên một khoảng cách “ ngôn bản dự
kiến”( điều định nói) và “ngôn bản thực” ( lời nói đã nói).
- Nhân tố thứ ba ảnh hưởng trực tiếp đến việc nói chính là hoàn cảnh giao tiếp như:
thời gian, không gian, hình thức giao tiếp, điều kiện xung quanh…Tuỳ theo mỗi vấn
đề mà người nói cần phải ứng xử linh hoạt, làm chủ hoàn cảnh giao tiếp.
- Bên cạnh đó người nói cần phải nắm vững nguyên tắc hội thoại như: quy tắcthương
lượng hội thoại ( tức là sự thoả thuận giữa người cùng tham gia giao tiếp về đề tài,
nội dung, vị thế giao tiếp được tiến hành thuận lợi); Quy tắc luân phiên lượt lời ( nói
và nghe, biết trao lời, đáp lời, nhường lời, tiếp lời để việc giao tiếp diễn ra được liền
mạch, không bị ngắt quãng).; Quy tắc liên kết hội thoại về nội dung và hình thức để
cuộc hội thoại diễn ra tốt đẹp, đúng đề tài, tránh “ông nói gà, bà nói vịt”; Quy tắc
cộng tác hội thoại giữa người nói và người nghe.
GV thực hiện: Nguyễn Thị Thu Vân. Trường THCS Triệu Nguyên
4
SKKN: Làm thế nào để học sinh nói tốt trong phân môn Tập làm văn.
2, Thực tế tình hình luyện nói trên tất cả các lớp ở bậc trung học
cơ sở:
a, Thuận lợi:
- Học sinh có vốn từ vựng phong phú và không ngừng trau dồi thông qua yêu cầu của
các tiết học tiếng Việt cũng như từ thực tế cuộc sống.
- Học sinh được học tập và rèn luyện nhiều về kiến thức và kĩ năng nói trong các tiết
tiếng Việt và Giảng văn.
- Với việc áp dụng phương pháp dạy học đổi mới, tạo điều kiện cho học sinh chủ động,
tích cực, tự giác nên trên nhiều tiết học với phương pháp hoạt động nhóm, học sinh đã
có điều kiện luyện nói một vấn đề trước tập thể.
b, Khó khăn:
- Thời gian ít nhưng số lượng học sinh đông nên khó tạo điều kiện để cho tất cả học
sinh trong lớp đều được nói.
- Học sinh chuẩn bị bài nói chưa tốt, chưa chủ động và chưa tự tin khi nói trước đám
đông.
- Còn nhiều giáo viên đang lúng túng khi tổ chức một giờ luyện nói.
- Sách giáo viên chưa có định hướng cho giáo viên chú trọng rèn luyện và phát triển kĩ
năng nói trong từng giờ học.
- Hệ thống bài tập rèn luyện và phát triển kĩ năng nói chưa được phong phú và đa dạng.
- Thực tế của việc bùng nổ thông tin cùng với việc áp dụng công nghệ thông tin trong
dạy học nên nhiều giáo viên chỉ chú trọng đến việc cung cấp kiến thức thông tin cũng
như học sinh thì lĩnh hội những kiến thức mới mẻ và hấp dẫn mà quên đi việc rèn luyện
cách nói, cách trình bày kiến thức.
Mỗi bậc, khối thì việc luyện nói được nâng cao hơn. Vì vậy chúng ta phải biết tạo
tâm thế cho học sinh từ đầu, đó là phải giải thích cho học sinh trình bày một vấn đề
khác với đọc:
Đọc là học thuộc lòng rồi nhớ lại hoặc là cầm tài liệu rồi đọc. Còn nói là từ những
kiến thức đã có, vận dụng lời nói cử chỉ, điệu bộ nét mặt để thể hiện cuón hút người
nghe, phải có lời giới thiệu, dẫn dắt và kết thúc.
* Những vấn đề cần chú ý cũng như các ví dụ vận dụng:
1/ Yêu cầu học sinh chuẩn bị bài nói ở nhà theo chủ đề cho trước:
Việc này yêu cầu giáo viên phải dành nhiều thời gian cho phần dặn dò ở tiết học
trước.
- Giáo viên có thể cho học sinh chuản bị tự do hoặc là tự tìm nhóm để chuẩn bị. Phát
cho học sinh nội dung giáo viên đã chuẩn bị ( đối với lớp 6) hoặc là chủ đề ( đối với
các lớp 7,8,9).
GV thực hiện: Nguyễn Thị Thu Vân. Trường THCS Triệu Nguyên
5