Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Bài thu hoạch lớp hoàn chỉnh CCCT môn Triết Học Mác Lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.8 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU

Trong lịch sử xã hội loài người, từ khi đấu tranh giai cấp và đấu tranh
dân tộc dẫn đến ra đời nhà nước, vấn đề quyền lực và kiểm soát quyền lực
luôn được đặt ra. Ngày nay, quyền lực và kiểm soát quyền lực là vấn đề lớn,
phức tạp trong đời sống chính trị và pháp lý của các quốc gia, dân tộc. Quyền
lực là "quyền định đoạt và sức mạnh để đảm bảo sự thực hiện", bao gồm
quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước.
Quyền lực nhà nước là vấn đề vô cùng quan trọng, nhưng cũng rất phức
tạp. Việc nắm giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước có hiệu quả sẽ là
điều kiện để thực hiện được những mục đích đã đề ra, mang lại hạnh phúc và
nhiều lợi ích nhất cho nhân dân, đất nước.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền nghĩa là cán bộ, đảng viên nắm các
chức vụ, quyền hạn trong bộ máy lãnh đạo, quản lý ở tất cả các cấp, các lĩnh
vực. Hoàn cảnh đó dễ dẫn đến một bộ phận trong số đó không giữ được phẩm
chất, bản lĩnh và ý chí cần thiết dẫn đến lợi dụng chức, quyền để trục lợi, lạm
quyền, lộng quyền, tha hóa quyền lực và suy thoái về tư tưởng chính trị và
đạo đức, lối sống cùng những tiêu cực khác. Lênin từng cảnh báo về nguy cơ
kiêu ngạo, hối lộ, xa rời nhân dân và phóng túng của cán bộ nắm quyền lực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 17-10-1945 đã nghiêm khắc phê phán những
cán bộ vừa mới nắm giữ chức quyền đã vác mặt quan cách mạng với những
biểu hiện Trái phép, Cậy thế, Hủ hóa, Tư túng, Chia rẽ, Kiêu ngạo.

1


Với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Hội nghị Trung ương
4 khóa XII (10-2016) đã chỉ rõ: “Công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn
chế, khuyết điểm…”; “Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, một số
việc chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra…”; Việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật
của Đảng chưa nghiêm; “Công tác quản lý cán bộ, đảng viên còn thiếu chặt


chẽ. Nguyên tắc tập trung dân chủ ở nhiều nơi bị buông lỏng, nguyên tắc tự
phê bình và phê bình thực hiện không nghiêm…”; Sự buông lỏng đó đã kéo
dài nhiều năm, thậm chí nhiều nhiệm kỳ với quan niệm đổi mới thì mọi việc
“cởi mở”, “thoáng”, đến mức một bộ phận cán bộ, đảng viên coi thường kỷ
luật Đảng và pháp luật Nhà nước, coi thường tổ chức và tập thể dẫn đến
quyền lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý không được giám sát đầy đủ và kiểm
soát chặt chẽ.
Vì vậy, vấn đề kiểm soát và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là
một nhiệm vụ cấp bách trong quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay. Em xin
chọn đề tài: “Cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước ở Việt Nam hiện nay
thực trạng và giải pháp” để viết bài thu hoạch.

2


NỘI DUNG

1. Kiểm soát quyền lực là tất yếu khách quan
1.1. Quan niệm về quyền lực nhà nước
Quyền lực nhà nước là biểu hiện tập trung của quyền lực chính trị và
là trung tâm của quyền lực chính trị, được hình thành thông qua cuộc đấu
tranh chính trị, nhằm giành quyền tổ chức nhà nước và thực hiện chức năng
thống trị xã hội.
Quyền lực nhà nước được thực hiện thông qua tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước, trong đó có việc tổ chức và việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đồng thòi còn được bảo đảm bằng các
phương tiện độc quyền như luật pháp và bộ máy cưỡng chế quân đội, cảnh
sát, nhà tù...
Sự thay đổi vai trò vị trí của các giai cấp trong đời sống sản xuất xã hội
sẽ dẫn tới việc chuyển chính quyền nhà nước từ tay giai cấp này sang tay giai

cấp khác, dẫn tới thay đổi căn bản tính chất của quyền lực nhà nước, phương
thức cầm quyền, các quan hệ chính trị, các thể chế chính trị và hệ thống
chính trị. Các cơ quan nhà nước thực chất là các cơ quan thực thi quyền lực
nhà nước, được các giai cấp và lực lượng xã hội (còn gọi là nhân dân) trao
quyền cho mà thôi. Tuy nhiên, do những hình thức ủy quyền và kiểm soát
quyền lực nhà nước khác nhau, nên nhiều lúc quan hệ giữa người có chủ
quyền và người được ủy quyền bị tha hóa, xuyên tạc.
Quyền lực nhà nước dưới chủ nghĩa xã hội (CNXH) có những điểm
3


khác biệt so với quyền lực nhà nước trong các xã hội trước đó ở chỗ nhả
nước XHCN là nhà nước chuyên chính của giai cấp công nhân. Nhưng lợi ích
căn bản của giai cấp công nhân là thống nhất với lợi ích của đại đa số nhân
dân lao động. Nên quyền lực nhà nước dưới CNXH đã có sự thống nhất giữa
tính giai cấp và tính xã hội, giữa tính chính trị với tính công quyền. Trong các
kiểu nhà nước khác, đặc biệt là nhà nước quân chủ chuyên chế, giữa chức
năng giai cấp đối lập với chức năng xã hội, lợi ích của giai cấp thống trị đối
lập với lợi ích quảng đại quần chúng.
Trong nền dân chủ XHCN, chức năng giai cấp và chức năng xã hội tạo
thành một thể thống nhất, trở thành điều kiện và tiền đề hoàn thiện cho nhau.
Ở Việt Nam, các bản hiến pháp đều nhất quán khẳng định quyền lực
nhả nước thuộc về nhân dân.
Tại Điều 1 Hiến pháp 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã
quy định rõ: "Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt
Nam, không phân biệt nòi giống, gái gai, giàu nghèo giai cấp, tôn giáo". Tư
tưởng nhất quán này đều được thể hiện qua Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980
và Hiến pháp 1992. Tại Điều 2 và Điều 6 Hiến pháp 1992 thì "Nhà nước xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân.
Tất cả quyền lực nhả nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai

cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức", "nhân dân sử dụng
quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ
quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và
chịu trách nhiệm trước nhân dân".

4


Quyền lực nhà nước bao giờ cũng được thực hiện bởi các cơ quan trong
bộ máy, với những con người cụ thể trong bộ máy ấy. Vì vậy, việc thực thi
quyền lực cụ thể phụ thuộc vào phương thức tổ chức bộ máy nhà nước và con
người trong bộ máy ấy. Nếu như người cầm quyền được trao quyền, không
biết thực thi quyền lực cho đúng, hoặc sử dụng quyền lực vì mục đích vụ lợi
thì sức mạnh của quyền lực nhà nước sẽ gây nguy hiểm cho xã hội. Vì thế
muốn có một xã hội tốt đẹp, quyền tự do con người được đề cao, xã hội
không phải gánh chịu những lộng hành sai phạm vô ý thức hoặc có ý thức
của nhà nước thì phải có cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước,
kiểm soát hoạt động của công chức, viên chức nhà nước. Đây là một yêu cầu
tất yếu trong tổ chức và hoạt động của một nhà nước dân chủ, kể cả trong nền
dân chủ XHCN của chúng ta.
1.2. Quan niệm về kiểm soát quyền lực nhà nước
Hiến pháp Việt Nam quy định: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (Điều 2 Hiến pháp 2013).
Vậy, “kiểm soát” giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp (kiểm soát quyền lực nhà nước là như thế nào)?
Nó có sự khác biệt gì so với giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm sát việc thực
hiện quyền lực nhà nước?
Chúng ta đều biết, trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước luôn
phải tiến hành các hoạt động “giám sát”. Thông thường, giám sát là hoạt

động theo dõi, xem xét, đánh giá có tính bao quát của chủ thể bên ngoài hệ
thống đối với khách thể thuộc hệ thống. Trong bộ máy nhà nước, giám sát
5


thường thể hiện chức năng của các cơ quan quyền lực nhà nước đối với hoạt
động của bộ máy nhà nước hoặc của Tòa án nhân dân; các tổ chức xã hội và
công dân đối với hoạt động quản lý nhằm bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, kỷ
luật trong quản lý nhà nước. Chẳng hạn, theo quy định của Hiến pháp năm
2013 thì: Quốc hội giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước (Điều
69); thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, Luật và Nghị
quyết của Quốc hội (Điều 70); Đại biểu Quốc hội chịu sự giám sát của cử tri
(Điều 79); Hội đồng nhân dân giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật
ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân (Điều
113)...
Ngoài việc giám sát, các cơ quan nhà nước còn phải tiến hành “thanh
tra”, “kiểm tra” việc thực hiện quyền lực nhà nước. Hiến pháp quy định:
Chính phủ tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; hướng
dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan
nhà nước cấp trên (Điều 96); Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ tổ chức
thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực
trong phạm vi toàn quốc (Điều 99); Chính quyền địa phương chịu sự kiểm
tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên (Điều 112). Như vậy, “thanh tra”
là sự xem xét từ bên ngoài vào hoạt động của một đối tượng nhất định nhằm
phát hiện, ngăn chặn pháp luật trái với quy định. Thanh tra là hoạt động xem
xét, kiểm tra của cơ quan nhà nước cấp trên hoặc theo sự ủy quyền của cơ
quan nhà nước cấp trên đối với cơ quan nhà nước cấp dưới (mang tính trực
thuộc). Còn “kiểm tra” là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét.
Đây là hoạt động của các chủ thể tác động vào đối tượng kiểm tra (có thể trực

6


thuộc hoặc không trực thuộc). Chẳng hạn, kiểm tra của các tổ chức xã hội,
các đoàn thể và của công dân đối với hoạt động của bộ máy nhà nước hoặc
kiểm tra của các cơ quan, nhân viên nhà nước có thẩm quyền nhằm xem xét,
xác định một việc gì đó của đối tượng bị quản lý xem có phù hợp hay không
với trạng thái định trước (kiểm tra mang tính nội bộ của người đứng đầu cơ
quan kiểm tra…).
Ở Việt Nam, “kiểm sát” là hoạt động xem xét, đánh giá của Việm kiểm
sát nhằm đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Chẳng hạn, Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp.
Còn “kiểm soát” được cho là xem xét. Đánh giá, theo dõi nhằm ngăn
chặn những điều trái với quy định. Như vậy, về cơ bản, thanh tra, kiểm tra,
giám sát, kiểm soát có nghĩa như nhau, đó là xem xét, đánh giá hoạt động của
các chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước để Hiến pháp, pháp luật được thực
hiện nghiêm chỉnh, chính xác, đầy đủ, nhưng chúng khác nhau về chủ thể
thực hiện, về nội dung, hình thức, phạm và đối tượng chịu sự xem xét, đánh
giá. So với thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm sát thì kiểm soát có phạm vi
xem xét, đánh giá rộng hơn, hình thức phong phú hơn, nó bao hàm cả việc
giám sát, thanh tra, kiểm tra, theo dõi…Đối tượng chịu sự xem xét, đánh giá
của kiểm soát là tất cả các chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước. Nội dung
kiểm soát bao gồm việc tổ chức và việc thực hiện đối với cả quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Chủ thể thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước khá
đa dạng, đó có thể là nhân dân, các đảng phái, của các tổ chức chính trị - xã
hội, cũng có thể do chính nhà nước (các cơ quan nhà nước), thậm chí là các
tổ chức quốc tế…Từ những phân tích trên cho thấy: Kiểm soát quyền lực nhà
nước là toàn bộ những hoạt động xem xét, theo dõi, đánh giá, những biện
7



pháp mà thông qua đó có thể ngăn ngừa, loại bỏ những nguy cơ, những việc
làm sai trái của cơ quan, nhân viên nhà nước trong việc tổ chức và thực hiện
quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước được tổ chức và thực
hiện đúng mục đích mong muốn và đạt được hiệu quả cao.
Kiểm soát quyền lực nhà nước là rất quan trọng và cần thiết. Không
quốc gia nào có thể phát triển nhanh, ổn định và bền vững nếu như quyền lực
nhà nước không được kiểm soát và thực hiện đúng đắn. Tuy nhiên, trên thực
tế tình trạng lạm quyền, tha hóa quyền lực vẫn luôn tiềm ẩn và thường xuyên
xảy ra. Một số nhân viên nhà nước, thậm chí cả các cơ quan nhà nước thay
mặt nhân dân nắm giữ và thực hiện quyền lực nhà nước nhưng lại lợi dụng
quyền lực được giao vào mục đích vụ lợi hoặc vì mục đích cục bộ; một số
nhân viên nhà nước do năng lực, trình độ hạn chế nên đã mắc sai lầm trong
việc đưa ra những quyết định làm ảnh hưởng tới lợi ích của các tổ chức, cá
nhân.
Việc kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện bởi nhiều chủ thể,
thông qua hình thức, phương tiện với những nội dung và quy trình kiểm soát
khác nhau ở các thời điểm khác nhau. Việc kiểm soát quyền lực nhà nước có
thể được tiến hành từ bên ngoài, cũng có thể từ bên trong; có thể kiểm soát
công khai, kiểm soát ngầm; kiểm soát giai đoạn, kiểm soát liên tục; có thể
giản đơn, có thể phức tạp thông qua cơ chế kiểm soát. Với mỗi quốc gia, việc
kiểm soát và tổ chức thực hiện việc kiểm soát quyền lực nhà nước với cơ chế
khác nhau. Vậy, quan niệm thế nào là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước,
trong cơ chế đó bao gồm những yếu tố nào, được vận hành ra sao hiện nay
cũng còn khá nhiều ý kiến cần phải được nghiên cứu làm rõ.
8


1.3. Quan niệm về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
Cơ chế là một thuật ngữ có thể hiểu theo nhiều nghĩa, tùy vào hoàn

cảnh và lĩnh vực. Nhưng theo nghĩa chung nhất thì cơ chế kiểm soát quyền
lực nhà nước được hiểu là phương thức, quy trình, quy định và các thiết chế
có liên quan đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước, gắn kết chặt chẽ với
nhau hợp thành một chỉnh thể, thông qua đó việc kiểm soát quyền lực nhà
nước được thực hiện, nhằm ngăn ngừa, loại bỏ những nguy cơ, những việc
làm sai trái của nhà nước, cơ quan, nhân viên nhà nước trong việc tổ chức và
thực hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước được tổ chức
và thực hiện theo đúng các quy định của Hiến pháp, pháp luật, đúng mục đích
mong muốn và có hiệu quả.
Từ những quan niệm về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước như trên
cho thấy, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước được hình thành từ các thể
chế, các thiết chế liên quan đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước, sự tương
tác giữa các yếu tố của cơ chế nhằm đạt được những mục đích của việc kiểm
soát.
Có nhiều cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước như: cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước của nhà nước (các cơ quan nhà nước); cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước của nhân dân (các tổ chức nhà nước và cá nhân không
phải nhà nước)…Trong các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước thì cơ chế
kiểm soát của nhà nước được xem là hiệu quả hơn cả trong giai đoạn hiện
nay. Trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của nhà nước, nguyên tắc
pháp chế luôn được đề cao, nó đòi hỏi tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân
trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước phải nghiêm chỉnh thực hiện các quy
9


định pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước trong tổ chức cũng như trong
hoạt động. Việc các cơ quan nhà nước tự kiểm soát mình và kiểm soát lẫn
nhau trong việc thực hiện quyền lực nhà nước có tác dụng:
Một là, Để giữ các cơ quan nhà nước luôn duy trì được mối quan hệ nội
tại với nhau với tư cách là bộ phận của một bộ máy, đảm bảo sự thống nhất

về cơ cấu tổ chức, về mục tiêu hoạt động của cả bộ máy nhà nước, giúp cho
bộ máy nhà nước tránh được những nguy cơ đe dọa phá vỡ tính thống nhất và
sự vận hành có hiệu quả cao của cả bộ máy nhà nước từ những sai lệch có thể
xảy ra của mỗi cơ quan, mỗi bộ phận của bộ máy nhà nước;
Hai là, Để bảo đảm sự hợp lý trong việc phân công về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước sao cho phù hợp với những
yêu cầu của quá trình thực hiện quyền lực nhà nước trong bộ máy nhà nước
thống nhất;
Ba là, Để thực hiện phối hợp về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan
nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu chung của
cả bộ máy nhà nước nhằm duy trì sự kiểm soát, chế ước, phát hiện và xử lý
kịp thời những biểu hiện không đúng, không hiệu quả trong việc thực hiện
quyền lực nhà nước của mỗi cơ quan, nhân viên nhà nước hoặc của các thiết
chế khác khi tham gia thực hiện quyền lực nhà nước.
Quyền lực nhà nước được thực hiện chủ yếu và thường xuyên thông
qua bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà nước gồm rất nhiều các cơ quan có vị trí
tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được tổ chức và hoạt động theo
nhiều cách thức khác nhau, nên cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước rất
phức tạp. Thông thường, quyền lực nhà nước được phân định thành quyền lập
pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp và giao cho các cơ quan khác nhau
10


của nhà nước thực hiện. Vì vậy, đối với mỗi quyền lực nhà nước cần phải
thiết lập một cơ chế kiểm soát có tính chất bộ phận phù hợp để kiểm soát.
Ở Việt Nam hiện nay, Cơ chế kiểm soát quyền hành pháp được cho là
hệ thống các phương thức, khả năng và quy tắc được ghi nhận để thông qua
đó biết được quyền lực hành pháp đang làm gì, làm như thế nào và khống
chế, điều chỉnh được nó. Và không chỉ xem xét việc thực hiện quyền lực
hành pháp có phù hợp luật pháp hay không mà còn là xem hiệu quả của việc

thực hiện luật đến mức độ nào. Cơ chế kiểm soát quyền tư pháp được xác
định là hệ thống các phương thức, khả năng và quy tắc được ghi nhận trong
Hiến pháp và các đạo luật khác với tư cách là những căn cứ pháp lý để:
Quyền lập pháp thông qua cơ quan lập pháp cao nhất là Quốc hội được phân
công giám sát hoạt động của quyền tư pháp, dựa vào đó triển khai công tác
nhân sự cấp trung ương trong các cơ quan tư pháp cao nhất của đất nước (Tòa
án) hình thành cơ cấu tổ chức – hoạt động và nghe các báo cáo của cơ quan
tư pháp cao nhất; cũng như quyền tư pháp thông qua Tòa án hiến pháp, dựa
vào đó triển khai hoạt động tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản pháp
luật nhất định do cơ quan tư pháp thẩm quyền chung cao nhất và một số quan
chức lãnh đạo cấp cao thuộc nhánh quyền tư pháp ban hành, tiến hành thủ tục
tố tụng về hiến pháp đối với các vụ việc có liên quan đến quyền tư pháp theo
các quy định của Hiến pháp và các đạo luật khác nhằm góp phần làm cho quá
trình tổ chức, thực hiện quyền tư pháp được tuân thủ theo đúng các quy định
và trong giới hạn của Hiến pháp và pháp luật.
Như vậy, có thể nói, trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước gồm
nhiều các tiểu cơ chế kiểm soát đối với từng bộ phận quyền lực nhà nước.
Với mỗi quyền lực trên lại do nhiều cơ quan nhà nước được phân công, cùng
11


phối hợp thực hiện và tiến hành việc kiểm soát quyền lực. Nhưng mỗi
cơ quan tham gia thực hiện quyền lực nhà nước có vị trí, vai trò, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau nên lại cần phải có phương thức kiểm soát
riêng đối với chúng. Do vậy, nếu chúng ta coi cơ chế kiểm soát quyền lực nhà
nước nói chung là một chỉnh thể lớn, thì các cơ chế kiểm soát đối với từng
quyền lực nhà nước (quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp) được
coi là chỉnh thể bộ phận (nhỏ hơn) và trong các cơ chế bộ phận đó lại có
những cơ chế kiểm soát nhỏ hơn nữa. Giữa cơ chế kiểm soát quyền lực nhà
nước nói chung với các cơ chế nhỏ hơn luôn có sự liên hệ, ảnh hưởng qua lại

đa chiều rất phức tạp, song chúng luôn phải thống nhất với nhau tạo thành
một chỉnh thể chung.
2. Thực trạng và giải pháp cơ chế kiểm soát quyền lực ở nước ta
hiện nay
2.1. Thực trạng kiểm soát quyền lực ở nước ta hiện nay
Kiểm soát quyền lực ở nước ta luôn bảo đảm và thể hiện sự thống nhất
về bản chất của mối quan hệ trong hệ thống chính trị. Điều này còn thể hiện
tính nhất quán ngay trong Hiến pháp năm 2013. Tính nhất quán đó có được là
do tính ổn định của thể chế suốt mấy chục năm nay. Đó là: sự lãnh đạo, vai
trò cầm quyền chỉ do một đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam) nắm giữ.
Quan hệ kiểm soát quyền lực giữa cơ quan quyền lực với cơ quan chấp
hành dựa trên nền tảng của dân chủ XHCN; hoạt động kiểm soát quyền lực
trong hệ thống hành chính (biểu hiện qua quan hệ thứ bậc trên dưới) được
thiết lập vững chắc.
12


Quan niệm về kiểm soát, thiết kế tổ chức (trong Đảng, Nhà nước, các
cơ cấu bên trong Nhà nước...), triển khai thực thi việc kiểm soát quyền lực đã
đạt được những kết quả đáng ghi nhận:
Một là, cơ chế kiểm soát quyền lực bảo đảm giữ vững chế độ và ổn
định xã hội, giữ vững vai trò cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã
hội.
Hai là, do không có sự cạnh tranh quyền lực của các lực lượng chính
nên sự giám sát của Đảng đối với Nhà nước được bảo đảm, thể hiện qua việc
định ra chủ trương, đường lối và được cụ thể hóa ở từng giai đoạn. Từ đó,
làm cơ sở cho Nhà nước xây dựng thể chế (Hiến pháp, luật về tổ chức nhà
nước và quản lý xã hội trên các lĩnh vực), thiết kế tổ chức và hoạt động điều
hành quản lý xã hội.
Ba là, đổi mới theo nguyện vọng của nhân dân, trước hết bảo đảm các

quyền cơ bản trong Nhà nước dân chủ, định ra chủ trương phân định chức
năng bên trong Nhà nước (trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp); xây dựng đường lối phát triển kinh tế, quan hệ đối ngoại
theo hướng hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, ngày càng nâng tầm mức
của quan hệ với nhiều quốc gia có chế độ chính trị khác nhau.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà
nước ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế cả về lý luận và thực tiễn.
Chúng ta không thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực mà chính là cơ chế kiểm
soát quyền lực được xây dựng và thực thi còn hình thức và kém hiệu quả.
Hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử còn mờ nhạt, sức ảnh hưởng đối
với các chủ thể bị giám sát không lớn. Hiệu lực sau giám sát chưa cao, chế tài
13


chưa đủ mạnh. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên trong
việc giám sát, phản biện chưa thực sự được coi trọng đúng mức, tiếng nói của
các tổ chức này có ảnh hưởng không lớn, không đủ khả năng bảo vệ các lợi
ích hợp pháp của các thành viên mà nó đại diện. Các phương tiện thông tin
đại chúng còn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động giám sát, quyền tiếp cận
thông tin còn bị hạn chế; các thiết chế làm chủ của nhân dân còn hình thức,
chung chung và khó thực hiện.
2.2. Những giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước hiện nay
Xét về nguồn gốc, quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, nhưng
nhân dân không thể trực tiếp thực thi toàn bộ quyền lực của mình mà phải
trao cho một cơ quan đại diện đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam; Quốc hội thành lập và một phần quyền cho các cơ quan
nhà nước khác.
Do vậy, quyền lực nhà nước là thống nhất, quyền lực mà cơ quan hành

pháp và cơ quan tư pháp có được là quyền phái sinh. Để có thể thực hiện
quyền lực nhà nước một cách khoa học, không lạm quyền thì cần có sự có sự
phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Hiến pháp 2013 được xây dựng, ban hành và có hiệu lực thì cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước mới trở thành một nguyên tắc tổ chức quyền

14


lực nhà nước được hiến định, thời gian tới để hoàn thiện cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước cần:
Thứ nhất, đối với cơ quan quyền lực nhà nước
Đối với Quốc hội: Hoàn thiện cơ chế giám sát của Quốc hội theo hướng
bổ sung, quy định rõ và tổ chức tốt việc thực hiện các hình thức giám sát của
Quốc hội: Quốc hội giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội; giám sát tối cao hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, thành viên
khác của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao…chất vấn; giám sát văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa
án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; giám sát thông qua
việc thành lập các đoàn giám sát tại địa phương; giám sát giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo của nhân dân; xem xét báo cáo; thành lập Ủy ban lâm thời;
lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu.
Giải pháp hoàn thiện cơ chế giám sát của Quốc hội theo các hướng sau:
- Xử lý nghiêm minh theo thẩm quyền hoặc kiến nghị xử lý kết quả
giám sát nếu phát hiện cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm.
- Nâng cao chất lượng Đại biểu Quốc hội: Bên cạnh việc bảo đảm cơ
cấu để bảo đảm tính đại diện của Quốc hội thì cần tăng cường đại biểu có
trình độ chuyên môn, tăng cường đại biểu chuyên trách.


15


- Tăng cường năng lực tham mưu tư vấn của các cơ quan tham mưu, cá
nhân, chuyên gia trong các cơ quan nhà nước và xã hội để tạo cơ sở khoa
học, cơ sở thực tiễn trong hoạt động giám sát của Quốc hội.
Đối với Hội đồng nhân dân các cấp: Tăng cường và chú trọng chất
lượng giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương và việc thực
hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp; giám sát hoạt động Ủy ban
nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân
sự cùng cấp và các cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật; giám sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân ở địa phương.
Thứ hai, giải pháp hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền hành pháp
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kiểm soát hành pháp
Trong thể chế chính trị nhất nguyên ở Việt Nam, có thể khẳng định
rằng, thiếu sự lãnh đạo của Đảng thì các cơ quan nhà nước, nhất là cơ quan tổ
chức thực hiện pháp luật thì sẽ thiếu sự nhất quán, có những hạn chế; vai trò
của Đảng thể hiện rất rõ trong việc phát hiện, xử lý những vi phạm pháp luật
trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, liên quan đến kiểm soát quyền lực hành
pháp, vấn đề đặt ra trong suốt những năm qua, là làm thế nào để Đảng lãnh
đạo khoa học, hợp lý công việc của Nhà nước. Can thiệp sâu, hay buông
lỏng, khoán trắng thì việc kiểm soát quyền lực nhà nước sẽ không hiệu quả
cũng như không đúng với vị trí vai trò của Đảng. Do vậy, cần thiết phải đổi
mới phương thức kiểm tra, giám sát; quan trọng hơn cả đó là cần có đội ngũ
cán bộ, đảng viên trong cơ quan hành pháp vừa có đức và tài.
16



- Nâng cao nhận thức và năng lực của cán bộ, công chức hành chính và
tăng cường tự kiểm tra trong hệ thống cơ quan hành chính. Đây là vấn đề hết
sức quan trọng, có thể nói, chưa bao giờ đội ngũ cán bộ, công chức đang có
nhiều vấn đề như hiện nay liên quan đến trách nhiệm công vụ, đạo đức, tham
nhũng,…Do vậy, cần xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức hành pháp có
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có ý thức tổ chức kỷ luật, không vi phạm các
quy định của pháp luật.
- Phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong cơ chế kiểm soát nhà nước
và kiểm soát xã hội trong việc thực hiện quyền hành pháp. Phối hợp giữa các
cơ chế giám sát, kiểm tra nhà nước và xã hội là một trong những tổ chức giải
pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả trong việc giải quyết các vụ việc cụ thể
cũng như trong việc giám sát, kiểm tra thể hiện trong việc phát hiện và xử lý
các vi phạm.
- Xử lý nghiêm, tương xứng đối với các sai phạm trong hoạt động quản
lý hành chính nhà nước. Để giải quyết vấn đề này, cần thiết tiến hành việc
theo dõi, kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền và của nhân dân, công khai
kết quả quả xử lý vi phạm.
Thứ ba, đối với cơ quan tư pháp
- Tăng cường tính chủ động trong kiểm soát quyền lực nhà nước của tư
pháp với hành pháp. Trong một vụ việc liên quan đến cơ quan hành chính,
nếu nhận thấy văn bản mà cơ quan hành chính dự định áp dụng đối với
trường hợp của mình có dấu hiệu bất hợp hiến, hợp pháp thì có quyền yêu
cầu dừng việc áp dụng văn bản đó và yêu cầu Tòa hành chính kiểm tra tính
17


hợp hiến, hợp pháp của nó. Ngoài ra, để đảm bảo cho người dân dễ dàng tiếp
cận với Tòa án hành chính thì giai đoạn tiền tố tụng không nên bắt buộc đối
với tất cả các vụ kiện.
- Mở rộng phạm vi kiểm soát quyền lực của tư pháp đối với hành pháp.

- Đảm bảo tính độc lập của Tòa án hành chính với các cơ quan hành
pháp.
- Nâng cao năng lực kiểm soát quyền lực của tư pháp đối với hành
pháp.
Vấn đề bản chất cốt lõi của kiểm soát quyền lực nhà nước là làm các cơ
quan nhà nước vừa có khả năng quản lý được xã hội và kiểm soát được chính
mình. Theo đó, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước phải là một tổng thể bao
gồm: cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài do các chủ thể không
phải là Nhà nước thực hiện, mà quan trọng nhất là vai trò kiểm tra, giám sát
của Nhân dân; cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong do các cơ
quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp kiểm soát lẫn nhau; cần
thiết xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước một cách độc lập do
Hiến pháp và luật quy định.
Thứ tư, hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp
Điều 119 Hiến pháp 2013 quy định:

18


Hiến pháp 2013 đã xác định trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam cần có cơ chế bảo vệ Hiến pháp và trao quyền quy định về cơ chế bảo
vệ Hiến pháp cho Quốc hội.
Việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp để thi hành Điều
119 Hiến pháp 2013 là nhiệm vụ quan trọng, cần thiết và phải đáp ứng các
yêu cầu sau:
- Bảo đảm tính độc lập và chuyên trách của cơ quan bảo vệ Hiến pháp
Bảo vệ Hiến pháp là bảo vệ chủ quyền nhân dân, bảo vệ chế độ chính
trị, nền tảng pháp lý của Nhà nước... Do đó, bảo vệ Hiến pháp là hoạt động
đặc biệt, phải được tiến hành bởi chủ thể đặc biệt – cơ quan bảo vệ Hiến
pháp. Trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, cơ quan bảo vệ Hiến

pháp có chức năng, nhiệm vụ: (1) Xem xét, phán quyết xử lý văn bản vi hiến;
(2) Giải quyết tranh chấp và vi phạm Hiến pháp liên quan đến tổ chức và thực
hiện quyền lực nhà nước; (3) Giải thích Hiến pháp; (4) Bảo vệ quyền con
người, quyền và tự do hiến định của công dân; (5) Giải quyết vi phạm hiến
pháp liên quan đến các quan chức nhà nước cao cấp hoặc đảng chính trị.
- Đồng bộ, nhất quán các quy định về bảo vệ Hiến pháp
Để điều chỉnh các quan hệ pháp lý phát sinh trong quá trình bảo vệ
Hiến pháp cần có luật về cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Đây là sự thể chế hóa, cụ
thể hóa các nguyên tắc, quy định của Hiến pháp đối với cơ chế bảo vệ Hiến
pháp....Ngoài ra, cơ chế bảo vệ Hiến pháp cũng cần được tổ chức và vận hành
trên cơ sở những quy định, quy tắc nội bộ của cơ quan bảo vệ Hiến pháp.
19


- Phương thức vận hành của cơ chế bảo vệ Hiến pháp phải phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ, phạm vi thẩm quyền của cơ quan bảo vệ Hiến pháp
Để bảo vệ Hiến pháp có hiệu quả, đặc biệt là với các hoạt động phán
quyết và xử lý những văn bản, hành vi vi hiến trong tổ chức, thực hiện quyền
lực nhà nước, cơ chế bảo vệ Hiến pháp phải tổ chức và hoạt động theo
phương thức riêng, khác với phương thức của các hoạt động lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Phương thức đó phải phù hợp với vị trí, tính chất, chức năng,
nhiệm vụ và phạm vi thẩm quyền của cơ quan bảo vệ Hiến pháp. Do đó, hoạt
động bảo vệ Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải được tiến
hành theo phương thức đặc thù.Ngoài ra, phương thức bảo vệ Hiến pháp phải
phù hợp với truyền thống và trình độ văn hóa, pháp lý của người dân để bảo
đảm tính khả thi.

KẾT LUẬN
Kiểm soát quyền lực nhà nước là một vấn đề phức tạp, bởi sự phức tạp
của tổ chức quyền lực nhà nước và hoạt động thực thi quyền lực nhà nước.

Tính phức tạp đó, một mặt do kiểm soát việc sử dụng quyền lực nhà nước để
chống sự lạm dụng nó là đòi hỏi bắt buộc đối với bất kỳ nhà nước dân chủ và
pháp quyền nào. Nhưng mặt khác, kiểm soát được việc sử dụng quyền lực
nhà nước mà lại không làm mất đi tính năng động, mềm dẻo cần phải có để
tiến hành các công việc nhà nước. Cái khó nhất trong thiết kế một chính
quyền nhà nước trước hết là làm cho bộ máy nhà nước có khả năng kiểm soát
được xã hội và sau nữa - không kém phần quan trọng - là buộc Nhà nước
20


phải tự kiểm soát được chính mình. Vì thế, Kiểm soát quyền lực nhà nước
giữa các chủ thể nói trên không phải là những hoạt động độc lập tách rời
nhau mà có sự thâm nhập, quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng phát huy hiệu quả
đối với một đối tượng: quyền lực nhà nước. Chỉ có thực hiện toàn diện, chặt
chẽ sự kiểm soát quyền lực bên trong và bên ngoài mới bảo đảm cho tổ chức
và hoạt động của Nhà nước vận hành nhịp nhàng, ăn khớp và thông suốt,
ngăn chặn tình trạng lạm dụng quyền lực, để tư tưởng “tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân” trở thành hiện thực.

21



×