Chương II
TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC ÁP DỤNG KÉP CÁC
BIỆN PHÁP PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI ĐỐI
VỚI HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM VÀ
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
I. Tổng quan về các vụ áp dụng kép các biện pháp
phòng vệ thương mại đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam
1.
Thông tin về các vụ việc
Kể từ năm 2002 đến nay, Chính phủ và doanh nghiệp
sản xuất hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã phải đương
đầu với 04 vụ việc điều tra và áp dụng trùng biện pháp chống
bán phá giá và chống trợ cấp do cơ quan điều tra của Hoa Kỳ
là Bộ Thương mại Hoa Kỳ tiến hành. Cụ thể là:
(1) Vụ việc điều tra chống bán phá giá và chống
trợ cấp đối với sản phẩm túi nhựa PE đựng hàng bán lẻ
(năm 2009);
(2) Vụ việc điều tra chống bán phá giá và chống
trợ cấp đối với sản phẩm ống thép hàn các bon CWP
(năm 2011);
(3) Vụ việc điều tra chống bán phá giá và chống trợ
cấp đối với sản phẩm mắc áo bằng thép (năm 2012);
(4) Vụ việc điều tra chống bán phá giá sản phẩm tôm
nước ấm đông lạnh (2003) và vụ việc điều tra chống trợ cấp
đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh (2012);
75
Bảng 3: Thông tin cơ bản về các vụ việc của Việt Nam
TT Tên sản
phẩm
Loại
Quốc
Năm
hình vụ gia khởi khởi
việc
xướng xướng
Mức thuế áp dụng
AD
CVD
1
Túi nhựa
AD/CVD Hoa Kỳ
PE
2009
2
Ống thép
hàn các
AD/CVD Hoa Kỳ
bon
(CWP)
2011
0%
0%
Mắc áo
bằng
thép
2012
135.81% 220.68%
31.58% - 90.42%
2003
4,13% - 25.76%
3
Tôm
nước ấm
4
đông
lạnh
AD/CVD Hoa Kỳ
AD
Hoa Kỳ
CVD
2012
52.30% - 76.11% 0.44% - 52.56%
Chưa có quyết
định cuối cùng
(dự kiến 12%)
Việc áp dụng đồng thời cả thuế chống bán phá giá và
chống trợ cấp đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ
dẫn đến việc thuế chống trợ cấp bị áp dụng hai lần. Điều này
có thể thấy rõ nhất trong vụ việc Túi nhựa PE (2009) và Mắc
áo bằng thép (2012).
76
Đối với vụ việc tôm nước ấm đông lạnh, thuế chống
bán phá giá được áp dụng từ năm 2004 và vẫn tiếp tục được
duy trì cho đến nay. Vụ việc điều tra chống trợ cấp đang diễn
ra và dự kiến sẽ có kết luận cuối cùng vào tháng 8/2013 với
khả năng mức thuế áp dụng cũng khá cao.
2. Khả năng áp dụng kép các biện pháp phòng vệ
thương mại đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam trong
thời gian tới
Trong vụ kiện chống trợ cấp đầu tiên đối với Việt
Nam, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) nhận định rằng Việt
Nam đã có những bước tiến đáng kể trong công cuộc hội nhập
vào nền kinh tế thế giới và không còn là nền kinh tế kế hoạch
tập trung theo kiểu các nước Xô-Viết cổ điển. Ví dụ, Việt Nam
đã có một môi trường kinh tế cho các doanh nghiệp tư nhân
nội địa và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; các
doanh nghiệp nhà nước đã được cải cách đáng kể bằng việc
các doanh nghiệp này có sự tăng cường kiểm soát các hoạt
động kinh doanh của mình; việc kiểm soát các yếu tố giá và
nguồn cung đầu vào sản xuất, bao gồm cả việc sử dụng đất và
tín dụng đã được bãi bỏ đáng kể; chấm dứt độc quyền của
Chính phủ trong thương mại.
Dựa vào những sự phát triển này, DOC đã kết luận rằng
hiện nay có thể xác định được: Chính phủ Việt Nam có dành
cho các nhà sản xuất Việt Nam một “lợi ích” nào đó hay
không, có thể xác định liệu lợi ích đó có là “cá biệt” cho một
doanh nghiệp, ngành công nghiệp hay nhóm ngành xác định
hay không; và có thể tính toán được mức độ của các lợi ích đó
để bù trừ với thuế chống trợ cấp.
77
DOC cũng xác định rằng “ngày áp dụng” luật Chống trợ
cấp với Việt Nam là ngày 11 tháng 1 năm 2007, ngày Việt Nam
gia nhập WTO. Đây là thời điểm DOC xác định và tính toán các
trợ cấp tại Việt Nam để áp dụng luật chống trợ cấp. DOC sẽ
không áp dụng các biện pháp đối kháng với các lợi ích được
nhận từ trước thời điểm này. Để giải thích cho việc lựa chọn
ngày áp dụng luật như trên, DOC chỉ ra mối quan hệ giữa việc
gia nhập WTO của Việt Nam và cải cách kinh tế được thực hiện
bởi Chính phủ Việt Nam. DOC cũng lưu ý rằng, tại Đoạn 255Báo cáo của Ban Công tác WTO về việc gia nhập của Việt
Nam, Việt Nam đã đồng ý một số quy định liên quan đến việc
sử dụng các mốc chuẩn để xác định giá trị các lợi ích trợ cấp
trong các vụ việc Chống trợ cấp. Do vậy, DOC cho rằng các trợ
cấp và các quy định về thuế Chống trợ cấp có thể được áp dụng
với Việt Nam, ít nhất là kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO.
Mặc dù hoạt động điều tra chống trợ cấp của Hoa Kỳ
(nước sử dụng rất nhiều biện pháp chống trợ cấp) có thể sẽ bị
hạn chế bởi các thủ tục tư pháp nội bộ của Hoa Kỳ trong
tương lai nhưng vẫn tồn tại một số lý do để phải quan ngại
liên quan đến các vấn đề về áp dụng kép các biện pháp phòng
vệ thương mại, ít nhất là trong khoảng thời gian ngắn. Như đã
đề cập trong vụ chống trợ cấp đầu tiên đối với Việt Nam,
DOC thể hiện mạnh mẽ cam kết về các hành động chống trợ
cấp đối với các nước có nền kinh tế phi thị trường (NME) do
DOC khởi xướng vụ chống trợ cấp đầu tiên dựa trên bằng
chứng về “nguy cơ gây thiệt hại đáng kể” thay vì dựa trên
bằng chứng về “thiệt hại đáng kể” thực tế82. Do Quốc hội và
82
Vụ việc điều tra P.E của Việt Nam: Lệnh áp thuế chống trợ cấp, 75 FR
16428 (ngày 1 tháng 4 năm 2010)
78
Chính phủ Hoa Kỳ chắc chắn sẽ gia tăng áp lực lên hàng hóa
nhập khẩu từ Trung Quốc nên các biện pháp chống trợ cấp áp
dụng chống lại các nước NME nói chung bao gồm Việt Nam
chắc chắn sẽ tăng lên. Bất kỳ một nỗ lực nào nhằm đối xử với
Việt Nam khác với Trung Quốc trong cả quá trình ra quyết
định khởi xướng vụ việc chống trợ cấp và lựa chọn phương
pháp để tính toán biên độ trợ cấp cũng sẽ tác động đến quan
điểm của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc. Do vậy, có khả năng
các vụ việc chống lại Trung Quốc sẽ tiếp tục tác động đáng kể
đến thực tiễn áp dụng trên toàn thế giới khi tiến hành điều tra
các vụ Chống trợ cấp liên quan đến các nước có nền kinh tế
phi thị trường khác như Việt Nam.
Điều đáng lo ngại hơn là các chính sách trợ cấp bị cáo
buộc trong vụ việc đầu tiên Hoa Kỳ điều tra có thể sẽ là một
tiền lệ quan trọng cho các cuộc điều tra tiếp theo. Khi các biện
pháp chống trợ cấp được sử dụng đối với Việt Nam, về cơ bản,
tất cả các khái niệm thông thường về các chương trình trợ cấp
được áp dụng mà không xét đến cấu trúc kinh tế cơ bản hay
hoàn cảnh cụ thể. Ví dụ, khi có một dự án phát triển ngành của
Chính phủ, các khoản vay từ Ngân hàng Phát triển Việt Nam
(VDB) và các Ngân hàng Thương mại Nhà nước (SOCBs)83
dễ bị xem là đối tượng của các đơn kiện Chống trợ cấp vì
SOCBs được xem là để thực hiện những mục tiêu của Chính
sách kế hoạch quốc gia. Trong trường hợp về sử dụng đất,
Chính phủ Việt Nam sở hữu tất cả đất đai ở Việt Nam và dành
các khoản ưu đãi cho thuê đất hoặc các miễn tiền thuê đất đối
với các công ty đầu tư vào các “chương trình trọng điểm”. Các
83
Theo Chính phủ Việt Nam, có 5 ngân hàng thương mại có vốn nhà
nước: Vietcombank; BIDV, Vietinbank, Agribank và Mekong Housing và
thương mại
79
chính sách cho thuê đất này cũng được xác định là một chương
trình trợ cấp lớn có thể bị đối kháng. Miễn, giảm thuế thu nhập
doanh nghiệp cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FIEs)
hoặc các doanh nghiệp trong khu công nghiệp cũng được xem
là các ưu đãi thuế có thể bị đối kháng. Một dạng chương trình
trợ cấp điển hình khác là miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu thô.
Miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu thô đối với các doanh nghiệp
đầu tư nước ngoài hoặc các công ty trong các khu công nghiệp
có thể cấu thành các khoản trợ cấp xuất khẩu bị đối kháng ở
mức độ là số tiền được miễn, giảm vượt quá mức thuế nhập
khẩu đối với nguyên liệu đầu vào được sử dụng để sản xuất
hàng xuất khẩu.
Thực tiễn áp dụng các quy ước khung để tính toán các
khoản trợ cấp có thể bị đối kháng đối với các nước có nền kinh
tế phi thị trường có nguy cơ gây ra nhiều vấn đề cho các nhà
xuất khẩu ở các nước có nền kinh tế phi thị trường.
II. Đánh giá những tác động của các vụ việc áp
dụng kép biện pháp phòng vệ thương mại (AD và CVD)
đối với Việt Nam
1. Nguy cơ áp dụng trùng thuế AD và CVD khi áp
dụng kép các biện pháp phòng vệ thương mại
Trong giai đoạn 1995 - 2012, có 65 vụ điều tra phòng
vệ thương mại đối với Việt Nam đã diễn ra, trong đó năm
2012 đã có tới 10 vụ, chiếm 1/6 tổng số vụ điều tra trong cả
giai đoạn nói trên. Trong thời gian tới các vụ điều tra dạng này
sẽ còn tiếp tục tăng và việc đối phó sẽ ngày càng phức tạp. Các
vụ kiện này tập trung vào các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam như tôm, cá, da giày, sợi, thép, điện tử gia dụng…
80
và ở các thị trường có kim ngạch lớn như Hoa Kỳ, EU,
Canada.
Các vụ điều tra này khiến doanh nghiệp Việt Nam mất
thị trường, ví dụ như mặt hàng xe đạp đã không thể quay lại thị
trường EU sau thời gian bị điều tra, bởi khi đó bạn hàng đã tìm
đối tác khác. Ngay khi bắt đầu bị điều tra chống bán phá giá
thì kim ngạch 100 triệu USD hàng năm của mặt hàng này từ từ
giảm xuống và sau khi bị áp thuế thì tiếp tục giảm tiếp và chỉ
còn khoảng hơn 1 triệu USD mỗi năm.
Tính đến hết năm 2012, hàng xuất khẩu Việt Nam bị
điều tra 04 vụ kép gồm cả chống bán phá giá và chống trợ cấp
và cả 4 vụ đều xuất phát từ Hoa Kỳ.
Vụ việc áp dụng kép các biện pháp phòng vệ thương
mại xảy ra khi cơ quan điều tra nước ngoài tiến hành điều tra
cả chống bán phá giá và chống trợ cấp trên cùng một sản
phẩm xuất khẩu đồng thời kết luận rằng có căn cứ để áp dụng
các biện pháp nhằm khôi phục lại thương mại từ những hành
vi trên.
Mức thuế khi cơ quan điều tra áp dụng dựa trên biên
độ phá giá hay trợ cấp thường sẽ rất cao do kết hợp cả hai
hành vi của nhà xuất khẩu.
Vấn đề đặt ra ở đây không chỉ là việc áp dụng cả hai
biện pháp mà là việc cơ quan điều tra không thể bóc tách
từng khoản trợ cấp hoặc phá giá trên cùng một sản phẩm xuất
khẩu dẫn đến việc bị trùng (hay tính thuế hai lần) các khoản
trợ cấp.
Trước đây, Tòa án Thương mại Quốc tế (CIT) giải
quyết những vướng mắc khi điều tra CVD đối với một NME
81
trong vụ việc GPX . Tòa án cụ thể tập trung vào vấn đề áp đặt
song song các biện pháp AD và CVD đối với lốp xe có nguồn
gốc từ Trung Quốc. Trong kết luận của mình, Tòa án đã ra
phán quyết rằng DOC đã không có biện pháp phù hợp để
tránh trùng lặp trong việc áp đặt thuế đối kháng và các biện
pháp AD và yêu cầu DOC phải tìm ra phương pháp tính toán
để xử lý vấn đề trên.
Việc tính trùng thuế có thể dễ dàng xảy ra khi một cơ
quan điều tra áp đặt một biện pháp chống trợ cấp để bù đắp
bất kỳ khoản trợ cấp bị cáo buộc nào từ chính phủ nước xuất
khẩu. Do giá trị thông thường được tính toán dựa trên giá từ
quốc gia tương tự (nước thay thế) không được trợ cấp hay chi
phí. Tuy nhiên, cơ quan điều tra, đôi khi, áp dụng thuế chống
trợ cấp dựa trên một mức giá trợ cấp nội địa đồng thời thiết
lập một biên độ bán phá giá dựa trên giá trị thông thường (từ
một quốc gia tương tự).
Mô hình kinh tế mô tả các khoản lỗ phát sinh thêm do
việc áp dụng kép các biện pháp phòng vệ thương mại đối với
NMEs như sau:
(1) Biên độ phá giá
(MD)
=
Giá trị thông
thường (NV)
-
Giá xuất khẩu
Giá xuất khẩu
Trong trường hợp sản phẩm xuất khẩu được trợ cấp:
(2)EP = Giá chưa trợ cấp (EP1) – Khoản trợ cấp (S)
Từ (1) và (2):
MD
82
=
NV – EP1 + S
EP
Khi cơ quan điều tra xác định các khoản trợ cấp trong
vụ việc điều tra chống trợ cấp đối với sản phẩm xuất khẩu:
(3)Biên độ trợ cấp (MS)
Khoản trợ cấp (S)
=
Giá xuất khẩu
Từ (1) (2) (3), ta có thể nhận thấy khi cơ quan điều tra tiến
hành áp dụng kép các biện pháp chống bán phá giá và chống
trợ cấp, biên độ như sau:
MS + MD
=
MS + MD
=
NV – EP1 + S
EP
NV – EP1
EP
+
+
S
EP
2S
EP
Từ công thức trên, dễ dàng nhận thấy khoản thuế
chống trợ cấp đã bị áp dụng kép đối với cùng một sản phẩm
xuất khẩu. Điều này là trái với quy định của WTO, tuy nhiên,
trong thực tế, cơ quan điều tra rất khó có thể tách biệt được
khoản trợ cấp khi xác định biên độ phá giá sản phẩm xuất
khẩu do khoản trợ cấp phân bổ khác nhau.
Mặt khác, công thức trên áp dụng với những nước
được coi là kinh tế thị trường, đối với các NMEs, cơ quan
điều tra thường không sử dụng các giá trị và mốc chuẩn tại
nước xuất khẩu mà áp dụng nước thay thế để xác định các giá
trị trên. Thông thường, các giá trị thay thế sẽ cao hơn giá trị
thực tại nước NMEs hay NV1 > NV. Do đó, theo công thức
trên, nếu NV1 > NV, mức thuế lại bị đẩy lên cao hơn. Với kết
quả bất lợi như vậy, mức thuế áp dụng đối với các NMEs
(hoặc Việt Nam) sẽ khiến các nhà xuất khẩu không thể tiếp
tục xuất khẩu hàng hóa bị áp thuế vào thị trường nước điều
tra và coi như bị mất thị trường.
83
Việc áp dụng thuế không đơn thuần chỉ trong thời
gian ngắn, mức thuế sẽ được rà soát (tùy theo quy định của
từng quốc gia) để đánh giá đúng thực trạng nhập khẩu sản
phẩm và mức giá từ đó điều chỉnh mức thuế phù hợp (có thể
cao hơn hoặc thấp hơn).
2.
Khó khăn trong công tác kháng kiện
Các biện pháp phòng vệ thương mại chỉ được áp dụng
khi cơ quan điều tra nước ngoài đã tiến hành điều tra và xác
định tồn tại những bằng chứng về hành vi cạnh tranh không
công bằng từ đó đưa ra lệnh áp thuế hoặc các biện pháp khác
nhằm bù đắp những khoản trợ cấp hoặc bị bán phá giá.
Do đó, khi cơ quan có thẩm quyền nước ngoài khởi
xướng điều tra các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm bị điều
tra doanh nghiệp phải tham gia vào cả hai quá trình điều tra
chống bán phá giá và chống trợ cấp nếu như không muốn bị
áp dụng những dữ liệu sẵn có bất lợi có thể khiến mức thuế bị
áp sau này lên rất cao.
Đối với vụ việc chống bán phá giá, bản chất vụ việc là
doanh nghiệp nước ngoài kiện doanh nghiệp việt nam có
hành vi cạnh tranh không lành mạnh đối với hàng hoá xuất
khẩu nên vai trò của doanh nghiệp trong vụ việc là chủ yếu.
Hỗ trợ của chính phủ chỉ dừng lại ở mức độ tư vấn pháp lý,
giám sát và bày tỏ ý kiến, quan điểm về vụ việc. Khi cơ quan
điều tra nước ngoài ra quyết định cuối cùng, trong trường hợp
quá trình điều tra xảy ra sai phạm, chính phủ có thể đưa vụ
việc ra kiện tại Cơ quan giải quyết tranh chấp tại WTO.
Đối với vụ việc chống trợ cấp, bản chất là doanh
nghiệp nước ngoài cáo buộc chính phủ trợ cấp những khoản
trái với quy định của WTO cho các doanh nghiệp xuất khẩu
84
để tạo ra lợi thế cạnh tranh không lành mạnh của hàng hoá
xuất khẩu với hàng hoá tương tự sản xuất tại nước điều tra.
Trong vụ việc này, cả chính phủ và doanh nghiệp đều phải
tham gia trực tiếp vào quá trình điều tra (trả lời bản câu hỏi,
thẩm tra…). Tuy nhiên, vai trò của chính phủ trong vụ việc
này nhằm chứng minh những chính sách ban hành không
đem lại bất kỳ lợi ích trái phép cho doanh nghiệp. Mặt khác,
vai trò của doanh nghiệp sẽ là chứng minh công ty không
nhận bất kỳ loại hỗ trợ nào trái quy định WTO từ chính phủ.
Như vậy, khi Cơ quan điều tra nước ngoài khi tiến
hành điều tra kép, doanh nghiệp Việt Nam phải tham gia 2 vụ
kiện khác nhau (chống bán phá giá và chống trợ cấp) với các
bản câu hỏi khác nhau và được tiến hành với những cách
thức, quy trình, thủ tục khác nhau.
Điều này khiến doanh nghiệp càng gặp khó khăn khi
phải tham gia vào hai vụ việc trong bối cảnh, hầu hết các
doanh nghiệp Việt nam đều là những doanh nghiệp có quy
mô vừa và nhỏ với nguồn lực hết sức hạn chế. Đa số khi xảy
ra vụ kiện, các doanh nghiệp đều phải tiến hành thuê luật sư
tư vấn để tham gia quá trình kháng kiện. Vấn đề tài chính là
gánh nặng không nhỏ đối với các doanh nghiệp khi nguồn lực
không đủ để có thể trang trải những khoản chi phí này. Các
biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp có xu hướng
được các nước sử dụng nhiều hơn khi kinh tế thế giới xảy ra
khủng hoảng nhằm bảo hộ ngành sản xuất nội địa. Việc khó
khăn trong xuất khẩu và chi phí kháng kiện khiến một số
doanh nghiệp không tham gia vào quá trình kháng kiện mà
tìm cách thay đổi thị trường xuất khẩu truyền thống. Điều này
sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho toàn bộ các doanh nghiệp
xuất khẩu sản phẩm bị điều tra do cơ quan điều tra sẽ áp dụng
85
những thông tin bất lợi sẵn có khi đưa ra quyết định. Mặt
khác, khi doanh nghiệp chuyển hướng xuất khẩu, không có gì
đảm bảo ngành sản xuất nội địa tại thị trường mới không yêu
cầu điều tra các vụ việc tương tự.
Khó khăn tiếp theo đó là việc các doanh nghiệp cũng
cần bố trí nhân sự, thời gian để theo đuổi vụ việc, điều này lại
một lần nữa đặt các doanh nghiệp vào tình huống khó khăn
khi các hoạt động sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng rất nhiều
khi xảy ra vụ kiện.
III. Khuyến nghị
1. Đối với Chính phủ
1.1 Xây dựng hệ thống giám sát và quản lý
Nếu xem xét những xung đột thương mại có xu hướng
ngày càng tăng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc thì những hành
động của Hoa Kỳ đối với NMEs, trong đó có Việt Nam có khả
năng sẽ tiếp tục gia tăng. Do thực tiễn áp thuế chống trợ cấp
của Hoa Kỳ đối với NMEs sẽ ngày càng trở nên rõ ràng hơn và
có mối quan hệ trực tiếp tới các biện pháp áp dụng đối với Việt
Nam nên việc tiếp tục giám sát các biện pháp chống trợ cấp của
Hoa Kỳ đối với Trung Quốc là vấn đề rất quan trọng để hiểu
được những loại chương trình trợ cấp nào đang là mục tiêu của
các vụ điều tra chống trợ cấp và chuẩn bị ứng phó trong quá
trình xuất khẩu. Thực tế, việc chuẩn bị ứng phó đối với các vụ
điều tra chống trợ cấp không hề dễ dàng đứng ở góc độ các bị
đơn là những công ty trung bình ở NMEs, có lẽ Việt Nam cũng
không là ngoại lệ. Tuy nhiên, Chính phủ cần tăng cường hơn
nữa trách nhiệm của mình vì thuế chống trợ cấp về cơ bản là do
86
các chương trình trợ cấp của Chính phủ chứ không phải hành vi
của các bên tư nhân. Việc chỉ định một viện nghiên cứu hay
một cơ quan Chính phủ giám sát các hành vi điều tra chống trợ
cấp của các nước khác có thể có ích trong việc cung cấp thông
tin cho các Bộ cũng như cộng động đồng doanh nghiệp. Ví dụ,
ở Hàn Quốc, Hiệp hội Thương mại Quốc tế Hàn Quốc, một tổ
chức tư nhân được tài trợ chủ yếu bởi các công ty xuất khẩu,
thường xuyên cung cấp thông tin về các biện pháp Chống bán
phá giá và Chống trợ cấp tới các công ty thành viên.
1.2 Xây dựng năng lực xử lý các vấn đề trợ cấp
của WTO
Một chính sách hay luật quy định về một khoản trợ cấp
không nhất thiết giới hạn chỉ dành cho các công ty hay ngành
công nghiệp nhất định để bị coi là cá biệt và do đó có thể đối
kháng. Trong các tranh chấp gần đây của WTO, xuất hiện thêm
nhiều vụ việc trợ cấp dựa trên các chương trình trợ cấp “thực
tế” (de-facto) mà việc xác định những chương trình này là khó
khăn hơn nhiều, đặc biệt tại thời điểm soạn thảo chính sách
hoặc pháp luật. Nếu một hệ thống các văn bản quy định rằng có
một chính sách của Chính phủ nhằm ưu tiên thúc đẩy một số
ngành công nghiệp - trường hợp điển hình của một nước đang
phát triển chủ trương công nghiệp hóa nền kinh tế, thì chính
sách đó có thể bị sử dụng như bằng chứng về sự ưu đãi cấu
thành một lợi ích dựa trên các văn bản khác.
Ví dụ, các khoản vay do các Ngân hàng Nhà nước cấp
cho các ngành công nghiệp “mục tiêu” đặc biệt có thể bị cáo
buộc là “các khoản vay ưu đãi” và có thể là đối tượng của thuế
Chống trợ cấp. Do vậy, điều quan trọng là phải nâng cao khả
năng đối phó với các vấn đề trợ cấp trong phạm vi phát triển
chính sách và thực thi chính sách. Hơn nữa, điều cần chú ý là
việc xây dựng và thực hiện giao dịch bán hàng như thế nào sẽ
87
quyết định việc liệu các trợ cấp mà các công ty Việt Nam đã
nhận trong quá khứ có được “duy trì” và tiếp tục bị đối kháng
hay không. Thêm vào đó, một khoản trợ cấp bắt đầu từ trước
khi Việt Nam gia nhập WTO vẫn có thể bị coi là đối kháng như
một “khoản trợ cấp mới” nếu cách thức hoặc các quy định nền
tảng của khoản trợ cấp đó đã được gia hạn hoặc thay đổi sau
ngày tính mốc trợ cấp là ngày 11 tháng 1 năm 2007.
Để giải quyết các vấn đề phức tạp này, Chính phủ
Việt Nam cần thận trọng hơn nữa khi xây dựng và thực hiện
các chương trình trợ cấp mà được sử dụng rộng rãi trên
nhiều khía cạnh trong các chính sách của Chính phủ. Cũng
sẽ rất có ích nếu Chính phủ thành lập các bộ phận pháp chế
với các chuyên gia pháp lý có thể xử lý các vấn đề liên quan
đến trợ cấp của WTO. Trong trường hợp của Hàn Quốc, Bộ
Tư pháp đã thành lập một Ủy ban tư vấn đặc biệt với các
luật sư và các học giả để đưa ra các ý kiến tư vấn về một số
vấn đề liên quan đến pháp luật thương mại, bao gồm cả vấn
đề trợ cấp. Sau đó, Bộ Ngoại giao và Thương mại đã thành
lập phòng luật thương mại gồm chủ yếu là các luật sư được
đào tạo tại Hàn Quốc và nước ngoài. Thời gian gần đây, các
Bộ khác đã thuê các luật sư hoặc các chuyên gia luật thương
mại để xem xét các vấn đề pháp lý có thể xảy ra liên quan
đến Hiệp định WTO đối với các chính sách của mình. Mặc
dù những tiến bộ này không thể hoàn toàn xóa bỏ các tranh
chấp về trợ cấp hay các biện pháp chống trợ cấp đối với
xuất khẩu của Hàn Quốc, những xung đột thương mại liên
quan đến trợ cấp đã giảm đáng kể so với giai đoạn 1946 –
1994 (giai đoạn GATT) hay những năm 1990.
Theo đó, việc cấp bách là phải nâng cao năng lực tổng
thể bằng việc thành lập một cơ quan mà có thể tích lũy và đưa
ra các ý kiến chuyên môn về quy định trợ cấp của WTO. Sử
dụng các chương trình tu nghiệp nước ngoài để bồi dưỡng các
88
chuyên gia luật thương mại sẽ là một trong những cách nâng
cao năng lực. Ngoài ra, sự tham gia tích cực hơn nữa trong các
tranh chấp về trợ cấp tại WTO với tư cách bên thứ ba cũng có
thể là một cách tốt để nâng cao chuyên môn về các vấn đề này.
Việc xây dựng các chương trình đào tạo theo yêu cầu cho cộng
đồng doanh nghiệp cũng như những nhà hoạch định chính sách
cũng góp phần nâng cao năng lực xử lý các vấn đề về trợ cấp.
1.3 Tham gia tích cực vào các vụ điều tra chống
trợ cấp
Khi các biện pháp chống trợ cấp được khởi xướng
nhằm vào hàng xuất khẩu của Việt Nam, việc chủ động chuẩn
bị và tích cực ứng phó với các vụ điều tra là rất quan trọng.
Giống như các vụ việc chống bán phá giá, các vụ chống trợ
cấp cũng rất dễ bị lạm dụng bằng cách sử dụng các thông tin
sẵn có bất lợi. Các nhà xuất khẩu được xác định là các bị đơn
bắt buộc do lượng xuất khẩu lớn có thể phải đối mặt với mức
thuế chống trợ cấp rất cao vì những thông tin bất lợi sẵn có
dựa trên cáo buộc của nguyên đơn nếu họ không hợp tác và
cung cấp bản trả lời đầy đủ. Thông thường, sự thiếu hợp tác
của các cơ quan Chính phủ liên quan đã trở thành lý do để cơ
quan điều tra sử dụng các thông tin sẵn có bất lợi, dẫn đến mức
thuế chống trợ cấp rất cao đối với hàng xuất khẩu của các
ngành sản xuất bị ảnh hưởng.
Hơn nữa, do hệ thống pháp luật chống trợ cấp của Hoa
Kỳ có thể được thay đổi đáng kể do các quyết định của tòa án
nên các công ty là mục tiêu của các biện pháp chống trợ cấp
cần đưa ra các lập luận rõ ràng nhằm 1) phản đối các vụ việc
chống trợ cấp đối với các nước thực sự là nền kinh tế phi thị
trường; và 2) phản đối một phương pháp tính thuế chống trợ
cấp trong các vụ việc như vậy, để đảm bảo quyền kháng cáo
89
và được bồi thường hợp pháp trong trường hợp thuế chống trợ
cấp bị áp dụng sai. Bên cạnh đó, các nhà nhập khẩu hàng hóa
là đối tượng áp thuế chống trợ cấp từ Việt Nam cần phản đối
việc thanh khoản bất cứ lô hàng nào cho đến khi đạt được giải
pháp cuối cùng tại Tòa án Hoa Kỳ và WTO.
Để nâng cao năng lực trong các vụ điều tra chống trợ
cấp, điều cần thiết là tổ chức một nhóm hoặc bộ phận pháp lý
trong một Bộ mà có thể xử lý tất cả các vụ việc chống trợ cấp
và đảm bảo tham gia trong các vụ việc chống trợ cấp ít nhất là
với vai trò hỗ trợ hoặc đồng tư vấn trong trường hợp không
phải là tư vấn chính hoặc chỉ đạo trong các vụ việc chống trợ
cấp.Việc xây dựng dần dần cơ chế xử lý các vụ việc chống trợ
cấp sẽ rất quan trọng trong việc đối phó với các tranh chấp
thương mại tương lai để đảm bảo an toàn cho thị trường xuất
khẩu của Việt Nam.
2. Đối với Doanh nghiệp
Các vụ việc phòng vệ thương mại đối với hàng hóa
xuất khẩu của Việt Nam sẽ ngày càng gia tăng với tính chất
và mức độ gay gắt hơn, khó khăn hơn là điều không thể tránh
khỏi. Chính vì vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam
cần nâng cao nhận thức của mình về các vụ việc điều tra
phòng vệ thương mại để tham gia một cách chủ động hơn và
tích cực hơn nữa trong quá trình kháng kiện.
Kinh nghiệm các vụ việc phòng vệ thương mại cho
thấy những doanh nghiệp nào tích cực tham gia vào công tác
kháng kiện một cách nghiêm túc, có trách nhiệm và hợp tác
đầy đủ với cơ quan điều tra thì luôn đạt được kết quả khả
quan cho doanh nghiệp mình, tiếp tục giữ được bạn hàng và
thậm chí mở rộng được thị trường xuất khẩu nhờ những lợi
thế cạnh tranh mà doanh nghiệp mình có được thông qua việc
tham gia xử lý các vụ việc điều tra chống bán phá giá.
90
Sự đoàn kết và thống nhất tạo ra một chiến lược kháng
kiện chung trong một vụ việc là rất quan trọng và có tính chất
quyết định đến kết quả của vụ việc, điều này đòi hỏi các doanh
nghiệp xuất khẩu Việt Nam (bao gồm cả doanh nghiệp lớn và
doanh nghiệp nhỏ) dưới sự chủ trì của các Hiệp hội ngành
hàng cần phải liên kết chặt chẽ và thống nhất với nhau trong
việc xây dựng và triển khai chiến lược ứng phó với các vụ điều
tra phòng vệ thương mại của nước ngoài, như đóng góp tài
chính, hỗ trợ nguồn nhân lực, chia sẻ thông tin, phối hợp với
liên minh có cùng lợi ích với Việt Nam tại nước sở tại, triển
khai công tác vận động hành lang, quan hệ công chúng để có
thể bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của cả ngành
hàng xuất khẩu Việt Nam trong quá trình ứng phó.
Mặt khác, nhằm giảm thiểu tối đa nguy cơ bị khởi kiện
điều tra các vụ việc phòng vệ thương mại từ các nước khác,
doanh nghiệp cần đa dạng hóa thị trường, tìm kiếm thị trường
xuất khẩu mới, đa dạng hóa sản phẩm, tránh tăng trưởng xuất
khẩu quá nóng vào một thị trường, chuyển dần từ chiến lược
cạnh tranh bằng giá sang cạnh tranh bằng chất lượng và thương
hiệu. Như chúng ta thấy phần lớn các sản phẩm bị điều tra
thường rơi vào những mặt hàng sử dụng nhiều lao động, sản
xuất hàng loạt, sử dụng nhiều tài nguyên môi trường… với
lượng giá trị gia tăng không cao. Do đó, doanh nghiệp cần tăng
cường công tác nghiên cứu, phát triển, mở rộng sản xuất những
sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn bằng cách đầu tư công
nghệ, thiết bị máy móc để nâng cao chất lượng và nâng cao giá
trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu
91
HIỆP ĐỊNH THỰC THI ĐIỀU VI CỦA HIỆP ĐỊNH CHUNG
VỀ THUẾ QUAN VÀ THƯƠNG MẠI - GATT (1994)
HIỆP ĐỊNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ (ADA)
Các Thành viên dưới đây thoả thuận như sau:
Phần I
Điều 1
Các nguyên tắc
Một biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng
trong trường hợp được qui định tại Điều VI của GATT 1994
và phải tuân theo các thủ tục điều tra được bắt đầu[1] và tiến
hành theo đúng các qui định của Hiệp định này. Các qui định
sau đây điều tiết việc áp dụng Điều VI của GATT 1994 khi
có một hành động được thực thi theo luật hoặc các qui định
về chống bán phá giá.
Điều 2
Xác định việc bán phá giá
2.1 Trong phạm vi Hiệp định này, một sản phẩm bị
coi là bán phá giá (tức là được đưa vào lưu thông thương
mại của một nước khác thấp hơn trị giá thông thường của
sản phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được
xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn
mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được
tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại
thông thường.
92
2.2 Trong trường hợp không có các sản phẩm tương
tự được bán trong nước theo các điều kiện thương mại thông
thường tại thị trường nước xuất khẩu hoặc trong trường hợp
việc bán trong nước đó không cho phép có được sự so sánh
chính xác do điều kiện đặc biệt của thị trường đó hoặc do số
lượng hàng bán tại thị trường trong nước của nước xuất khẩu
hàng hóa quá nhỏ[2], biên độ bán phá giá sẽ được xác định
thông qua so sánh với mức giá có thể so sánh được của sản
phẩm tương tự được xuất khẩu sang một nước thứ 3 thích
hợp, với điều kiện là mức giá có thể so sánh được này mang
tính đại diện, hoặc được xác định thông qua so sánh với chi
phí sản xuất tại nước xuất xứ hàng hóa cộng thêm một khoản
hợp lý chi phí quản lý, chi phí bán hàng, các chi phí chung và
lợi nhuận.
2.2.1 Việc bán các sản phẩm tương tự tại thị trường
nội địa của nước xuất khẩu hoặc bán sang một nước thứ ba
với giá thấp hơn chi phí sản xuất theo đơn vị sản phẩm (bao
gồm chi phí cố định và chi phí biến đổi) cộng với các chi phí
quản trị, chi phí bán hàng và các chi phí chung có thể được
coi là giá bán không theo các điều kiện thương mại thông
thường về giá và có thể không được xem xét tới trong quá
trình xác định giá trị thông thường của sản phẩm chỉ khi các
cơ quan có thẩm quyền[3] quyết định rằng việc bán hàng đó
được thực hiện trong một khoảng thời gian kéo dài[4] với một
khối lượng đáng kể[5] và được bán với mức giá không đủ bù
đắp chi phí trong một khoảng thời gian hợp lý. Nếu như mức
giá bán thấp hơn chi phí tại thời điểm bán hàng nhưng lại cao
hơn mức chi phí bình quân gia quyền cho mỗi sản phẩm
trong khoảng thời gian tiến hành điều tra thì mức giá đó được
93
coi là đủ để bù đắp cho các chi phí trong một khoảng thời
gian hợp lý.
2.2.1.1 Theo khoản 2 này, các chi phí được tính toán
thông thường trên cơ sở sổ sách của nhà xuất khẩu hoặc nhà
sản xuất là đối tượng đang được điều tra với điều kiện là sổ
sách này phù hợp với các nguyên tắc kế toán được chấp nhận
rộng rãi tại nước xuất khẩu và phản ánh một cách hợp lý các
chi phí đi kèm với việc sản xuất và bán hàng hóa đang được
xem xét. Các cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét tất cả các
bằng chứng sẵn có về việc phân bổ chi phí, trong đó bao gồm
cả các bằng chứng do nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất cung
cấp trong quá trình điều tra với điều kiện là việc phân bổ trên
thực tế đã được nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất sử dụng
trong quá khứ, đặc biệt là sử dụng trong việc xây dựng thời
gian khấu hao thích hợp và hạn mức cho phép chi tiêu xây
dựng cơ bản và các chi phí phát triển khác. Trừ khi đã được
phản ánh trong sự phân bổ chi phí theo qui định tại mục này,
các chi phí sẽ được điều chỉnh một cách thích hợp đối với các
hạng mục chi phí không thường xuyên được sử dụng để làm
lợi cho hoạt động sản xuất trong tương lai và/hoặc hiện tại,
hoặc trong trường hợp các chi phí trong thời gian điều tra bị
ảnh hưởng bởi các hoạt động khi bắt đầu sản xuất.[6]
2.2.2 Nhằm thực hiện khoản 2, tổng số tiền chi phí
cho quản lý, bán hàng và các chi phí chung khác sẽ được xác
định dựa trên các số liệu thực tế liên quan đến quá trình sản
xuất và bán sản phẩm tương tự theo điều kiện thương mại
thông thường của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất đang bị
điều tra đó. Khi số tiền trên không thể xác định theo cách này
thì số tiền đó được xác định trên cơ sở như sau:
94
(i) số tiền thực tế phát sinh và được nhà xuất khẩu
hoặc nhà sản xuất này chi tiêu trong quá trình sản xuất và bán
hàng thuộc nhóm sản phẩm giống hệt tại thị trường của nước
xuất xứ hàng hóa;
(ii) bình quân gia quyền của số tiền thực tế phát sinh
và được nhà xuất khẩu hoặc sản xuất khác chi tiêu trong quá
trình sản xuất và bán sản phẩm tương tự tại thị trường của
nước xuất xứ hàng hóa;
(iii) bất kỳ biện pháp hợp lý nào khác với điều kiện là
mức lợi nhuận được định ra theo cách đó không được vượt
quá mức lợi nhuận các nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất khác
thu được khi bán hàng thuộc nhóm sản phẩm giống hệt hàng
hóa trên tại thị trường của nước xuất xứ hàng hóa.
2.3 Trong trường hợp không tồn tại mức giá xuất khẩu
hoặc cơ quan có thẩm quyền thấy rằng mức giá xuất khẩu
không đáng tin cậy vì lý do nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu
hoặc một bên thứ ba nào đó có quan hệ với nhau hoặc có thoả
thuận về bù trừ, giá xuất khẩu có thể được diễn giải trên cơ sở
mức giá khi sản phẩm nhập khẩu được bán lại lần đầu cho
một người mua hàng độc lập, hoặc nếu như sản phẩm đó
không được bán lại cho một người mua hàng độc lập hoặc
không được bán lại theo các điều kiện giống với điều kiện
nhập khẩu hàng hóa thì mức giá có thể được xác định trên
một cơ sở hợp lý do cơ quan có thẩm quyền tự quyết định.
2.4 Giá xuất khẩu sẽ được so sánh một cách công
bằng với giá trị thông thường. Việc so sánh trên được tiến
hành ở cùng một khâu thống nhất của quá trình mua bán,
95
thường là tại khâu xuất xưởng và so sánh việc bán hàng vào
cùng thời điểm hoặc thời điểm càng giống nhau càng tốt. Đối
với từng trường hợp cụ thể, có thể có sự chiếu cố hợp lý về
những sự khác biệt có thể ảnh hưởng đến việc so sánh giá,
trong đó bao gồm sự khác biệt về điều kiện bán hàng, thuế,
dung lượng thương mại, khối lượng, đặc tính vật lý và bất kỳ
sự khác biệt nào khác có biểu hiện ảnh hưởng đến việc so
sánh giá.[7] Trong trường hợp được đề cập đến tại khoản 3,
được phép tính đến các chi phí, bao gồm các loại thuế và phí
phát sinh trong giai khoản từ khi nhập khẩu đến lúc bán lại và
lợi nhuận thu được. Nếu như sự so sánh giá bị ảnh hưởng
trong các trường hợp như trên, các cơ quan có thẩm quyền sẽ
xác định trị giá thông thường ở một mức độ thương mại
tương đương với mức mà giá thành xuất khẩu được xây dựng
hoặc có thể khấu trừ thích hợp như được cho phép tại khoản
này. Các cơ quan có thẩm quyền phải cho các bên hữu quan
biết rõ những thông tin nào cần thiết phải có để có thể so
sánh một cách công bằng và không được phép áp đặt vô lý
trách nhiệm đưa ra chứng cớ đối với các bên hữu quan.
2.4.1 Khi sự so sánh được nêu tại khoản 4 đòi hỏi cần
có sự chuyển đổi đồng tiền, việc chuyển đổi phải sử dụng tỷ
giá tại thời điểm bán hàng[8] với điều kiện là nếu ngoại hối
thu được từ việc bán hàng xuất khẩu được bán trên thị trường
kỳ hạn thì tỷ giá trong thương vụ bán ngoại hối kỳ hạn đó sẽ
được sử dụng. Những biến động của tỷ giá hối đoái sẽ được
bỏ qua và trong quá trình điều tra, các cơ quan có thẩm quyền
sẽ cho phép các nhà xuất khẩu có được ít nhất 60 ngày để
điều chỉnh giá xuất khẩu của họ để phản ánh những xu hướng
bền vững của tỷ giá tiền tệ trong thời gian điều tra.
96
2.4.2 Thực hiện các qui định điều chỉnh sự so sánh
công bằng tại khoản 4, việc xác định có tồn tại biên độ phá
giá hay không trong suốt giai đoạn điều tra, thông thường
sẽ dựa trên cơ sở so sánh giữa giá trị bình quân gia quyền
thông thường với giá bình quân gia quyền của tất cả các
giao dịch xuất khẩu có thể so sánh được hoặc thông qua so
sánh giữa giá trị thông thường với giá xuất khẩu trên cơ sở
từng giao dịch. Giá trị thông thường xác định trên cơ sở
bình quân gia quyền có thể được đem so sánh với với giá
của từng giao dịch xuất khẩu cụ thể nếu như các cơ quan
có thẩm quyền xác định rằng cơ cấu giá xuất khẩu đối với
những người mua khác nhau, khu vực khác nhau và thời
điểm khác nhau có sự chênh lệch đáng kể và khi có thể đưa
ra giải thích về việc tại sao sự khác biệt này không thể
được tính toán một cách đầy đủ khi so sánh bằng phương
pháp sử dụng bình quân gia quyền so với bình quân gia
quyền hoặc giao dịch so với giao dịch.
2.5 Trong trường hợp sản phẩm không được nhập
khẩu trực tiếp từ nước xuất xứ hàng hóa mà được xuất khẩu
sang lãnh thổ Thành viên nhập khẩu hàng hóa đó từ một nước
trung gian, giá của hàng hóa khi được bán từ nước xuất khẩu
sang nước nhập khẩu thông thường sẽ được so sánh với mức
giá có thể so sánh được tại nước xuất khẩu. Tuy nhiên, có thể
đem so sánh với mức giá tại nước xuất xứ hàng hóa, ví dụ như
trong trường hợp sản phẩm chỉ đơn thuần chuyển cảng qua
nước xuất khẩu hoặc sản phẩm đó không được sản xuất tại
nước xuất khẩu hoặc khi không có mức giá tương đương nào
có thể đem ra so sánh tại nước xuất khẩu hàng hóa.
97
2.6 Trong toàn bộ Hiệp định này, khái niệm "sản
phẩm tương tự" sẽ được hiểu là sản phẩm giống hệt, tức là
sản phẩm có tất cả các đặc tính giống với sản phẩm đang
được xem xét, hoặc trong trường hợp không có sản phẩm
nào như vậy thì là sản phẩm khác mặc dù không giống ở
mọi đặc tính nhưng có nhiều đặc điểm gần giống với sản
phẩm được xem xét.
2.7 Điều này không ảnh hưởng gì đến Điều khoản
Bổ sung thứ 2 đối với khoản 1, Điều VI tại Phụ lục I của
GATT 1994.
Điều 3
Xác định Tổn hại[9]
3.1 Việc xác định tổn hại nhằm thực hiện Điều VI
của GATT 1994 phải được tiến hành dựa trên bằng chứng
xác thực và thông qua điều tra khách quan về cả hai khía
cạnh: (a) khối lượng hàng hóa nhập khẩu được bán phá giá và
ảnh hưởng của hàng hóa được bán phá giá đến giá trên thị
trường nội địa của các sản phẩm tương tự và (b) hậu quả của
việc nhập khẩu này đối với các nhà sản xuất các sản phẩm
trên ở trong nước.
3.2 Đối với khối lượng hàng nhập khẩu được bán phá
giá, cơ quan điều tra phải xem xét liệu hàng nhập khẩu được
bán phá giá có tăng lên đáng kể hay không, việc tăng này có
thể là tăng tuyệt đối hoặc tương đối khi so sánh với mức sản
xuất hoặc nhu cầu tiêu dùng tại nước nhập khẩu. Về tác động
của hàng nhập khẩu được bán phá giá đối với giá, cơ quan điều
tra phải xem xét có phải là hàng được bán phá giá đã được
98
giảm đáng kể giá của sản phẩm tương tự tại nước nhập khẩu
hay không, hoặc xem xét có đúng là hàng nhập khẩu đó làm
ghìm giá ở mức đáng kể hoặc ngăn không cho giá tăng đáng
kể, điều lẽ ra đã xảy ra nếu không bán phá giá hàng nhập đó.
Không một hoặc một số nhân tố nào trong tất cả các nhân tố
trên đủ để có thể đưa đến kết luận mang tính quyết định.
3.3 Khi có nhiều cuộc điều tra chống bán phá giá về
cùng một sản phẩm được nhập khẩu từ nhiều nước khác
nhau, cơ quan điều tra có thể đánh giá ảnh hưởng một cách
tổng hợp của hàng nhập khẩu này chỉ trong trường hợp cơ
quan này xác định được rằng: (a) biên độ bán phá giá được
xác định đối với hàng nhập khẩu từ mỗi nước vượt quá mức
tối thiểu có thể bỏ qua (de minimis) được qui định tại khoản 8
Điều 5 và số lượng hàng nhập khẩu từ mỗi nước không ở
mức có thể bỏ qua được; (b) việc đánh giá gộp các ảnh hưởng
của hàng nhập khẩu là thích hợp nếu xét đến điều kiện cạnh
tranh giữa các sản phẩm nhập khẩu với nhau và điều kiện
cạnh tranh giữa các sản phẩm nhập khẩu và sản phẩm tương
tự trong nước.
3.4 Việc kiểm tra ảnh hưởng của hàng nhập khẩu
được bán phá giá đối với ngành sản xuất trong nước có liên
quan phải bao gồm việc đánh giá tất cả các nhân tố và chỉ số
có ảnh hưởng đến tình trạng của ngành sản xuất, trong đó bao
gồm mức suy giảm thực tế và tiềm ẩn của doanh số, lợi
nhuận, sản lượng, thị phần, năng suất, tỉ lệ lãi đối với đầu tư,
tỉ lệ năng lực được sử dụng; các nhân tố ảnh hưởng đến giá
trong nước, độ lớn của biên độ bán phá giá; ảnh hưởng xấu
thực tế hoặc tiềm ẩn đối với chu chuyển tiền mặt, lượng lưu
kho, công ăn việc làm, tiền lương, tăng trưởng, khả năng huy
99