Tải bản đầy đủ (.pdf) (226 trang)

Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.3 MB, 226 trang )

PHÁN II

CÁC KIỂU NHÀ NIÍỬC VẢ PHẤP LUẬT
C hương 5
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT CHỦ NÔ
5.1. Bản chất của Nhà nước chủ nô
Nhà nước chủ nô là tổ chức quyển lực chính trị của
chủ nô, ra đời trên cơ sở tan rã của chế độ thị tộc, bộ lạc,
gắn liền vối sự xuất hiện chế độ tư hữu và sự phân chia xã
hội thành các giai cấp có lợi ích đối kháng với nhau. Sự ra
đồi của nhà nước chủ nô đánh dấu một bước phát triển
mói của xã hội loài người. Bởi “...chỉ có c h ế độ nô lệ mới
làm cho sự phân công lao động có th ể thực hiện được trên
một quy mô rộng lớn hơn giữa nông nghiệp và công
nghiệp, và do đó, mới có th ể có thời kỳ hưng thịnh nhất
của th ế giới cổ đại...”\
Cơ sở kinh t ế của Nhà nước chủ nô là quan hệ sản
xuất chiếm hữu nô lệ. Những quan hệ sản xuất này được
xây dựng trên cơ sở chế độ chiếm hữu của chủ nô đối với
1. C.Mác và Ph.Ảngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1994, t. 20, tr. 254.

103


toàn bộ tư liệu sản xuất và cả người sản xuất là nô lệ.
Chủ nô là chủ sỏ hữu đối với đất đai, các tư liệu sản xuất
và đối với cả người sản xuất là nô lệ. Do vậy, sự bóc lột
của chủ nô đối vối nô lệ là không có giới hạn. Nô lệ không
có tư liệu sản xuất, họ phụ thuộc hoàn toàn vào chủ nô,
họ bị coi là tài sản của chủ nô, bị bóc lột rất tàn nhẫn và


phải phục tùng một cách vô điểu kiện những ý muôn của
chủ nô.
Cơ sở xã hội của Nhà nước chủ nô: Trong xã hội chiếm
hữu nô lệ tồn tại hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ.
Chủ nô chỉ là một thiểu số dân cư trong xã hội nhưng có
tất cả: đất đai, tư liệu sản xuất, nô lệ, tự do cá nhân và
toàn quyển thống trị đốỉ với nô lệ. Nô lệ chiếm số đông
trong xã hội nhưng tính mạng, sô' phận cũng như các hoạt
động xã hội của họ đều do chủ nô quyết định. Ngoài chủ
nô và nô lệ, trong xã hội còn có cả thợ thủ công, dân tự do,
những người lệ thuộc nhà thờ hoặc nhà vua... Những
người này tuy không phải là nô lệ nhưng vẫn phụ thuộc
gần như hoàn toàn vào chủ nô về kinh tế và chính trị.
Chính những điểu kiện kinh tế - xã hội nói trên đã quyết
định bản chất của Nhà nước chủ nô.
Tính xã hội: Xét về mặt xã hội thì Nhà nước chủ nô là
một tổ chức sinh ra để tổ chức, quản lý xã hội chiếm hữu
nô lệ thay thế cho tổ chức thị tộc, bộ lạc không còn phù
hợp nữa. Là một trong những hình thức tổ chức của xã hội
*

chiếm hữu nô lệ, Nhà nước chủ nô có trách nhiệm tổ chức

và quản lý một số lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội
vì sự tồn tại và phát triển của cả xã hội. Tính xã hội của
Nhà nước chủ nô chưa thể hiện được nhiểu.


104


*


Tính g ia i cấp. Xét về mặt giai cấp thì Nhà nước chủ nô
là công cụ chủ yếu thực hiện quyền lực chính trị của chủ
nô, một bộ máy trấn áp của chủ nô để duy trì sự thống trị
về mọi mặt của chủ nô đối vối nô lệ và những ngưồi lao
động khác. Nhà nước chủ nô là một bộ máy đem lại cho
chủ nô quyển lực và khả năng cai trị nô lệ, duy trì nô lệ
trong địa vị phụ thuộc và cho phép giai cấp chủ nô cưỡng
bức và đàn áp giai cấp nô lệ.
Quá trình hình thành và phát triển của các nhà nưốc
chủ nô ỏ phương Đông có rất nhiều điểm khác so vói các
nhà nước chủ nô ỏ phương Tây.
Ở phương Tây, đất đai, tư liệu sản xuất, nô lệ bị tư hữu
hóa tương đối triệt để, chế định sở hữu tư nhân rất phát
triển; nô lệ chiếm tỷ lệ cao trong dân cư và là lực lượng lao
động chủ yếu của xã hội; sự chiếm hữu nô lệ và bóc lột ở các
nưốc này mang tính điển hình giữa chủ nô và nô lệ.
ơ phương Đông quá trình hình thành xã hội có giai
cấp diễn ra rất chậm và kéo dài, do vậy, khi Nhà nước
xuất hiện trong xã hội vẫn không xoá bỏ hoàn toàn công
xã và những cơ quan tự quản của công xã; nô lệ không
plhải là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội mà họ
thường được sử dụng phổ biến làm các công việc trong gia
đình; sở hữu tư nhân đối với đất đai và nguồn nước diễn ra
rấ t chậm (đất đai chủ yếu thuộc sỏ hữu của cả công xã,
chúng được giao cho các thành viên của công xã chiếm hữu
và sử dụng). Do vậy, giai cấp chủ nô thống trị bóc lột trước
hết là những thành viên của công xã rồi sau mới đến nô lệ.

Mặc dù, chế độ nô lệ ở các nước khác nhau có những
khác biệt nhất định nhưng quyền lực chính trị trong xã
105


hội luôn thuộc về chủ nô. Quyển lực đó thể hiện tính quân
phiệt tàn bạo của chủ nô đối vối Ĩ1Ô lệ. Nhà nước chủ nô tổ chức quyển lực chính trị của chủ nô là công cụ chuyên
chính chủ yếu của chủ nô để cưỡng bức, đầy đọa, đàn áp
một cách có tổ chức, công khai đối với nô lệ, bảo vệ sự
thống trị về kinh tế, chính trị và tinh thần của chủ nô đối
với nô lệ, duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội chiêm
hữu nô lệ.
Tuy vậy, sự ra đời của Nhà nưốc chủ nô cũng là một
bước tiến về phía trưóc của nhân loại, tạo điểu kiện cho
kinh tế, xã hội phát triển đưa lại những lợi ích to lốn cho
nhân loại. "... Chúng ta không bao giờ được quên rằng tiền
đề của toàn bộ sự phát triển kinh tế, chính trị và trí tuệ
của chúng ta là một trạng thái trong đó c h ế độ nô lệ cũng
hoàn toàn cần thiết giống như nó được tất cả mọi người
thừa nhận”1.
Chế độ nô lệ cũng là một bước tiến ngay cả đối vối
những người nô lệ ở khía cạnh là những tù binh, vì tồn tại
chế độ nô lệ nên tù binh bị bắt trong các cuộc chiến tranh
sẽ không còn bị giết chết như trước đây nữa.

5.2. Chức nảng của Nhà nước chủ nô
5.2.1. C hức n ăn g đ ố i n ội:
Chức năng bảo vệ và củng c ố c h ế độ sở hữu của chủ
nô đối với tư liệu sản xuất và đối với người sản xuất (nô


1. C.Mác và Ph.Ảngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1994, t. 20, tr. 254.

106


lệ), duy tri các hình thức bóc lột của chủ nô đôi với nô lệ và
những người lao động khác:
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, sở hữu của chủ nô bao
gồm toàn bộ tư liệu sản xuất và cả người sản xuất (nô lệ).
Do vậy, Nhà nưóc chủ nô bằng rất nhiều những hình
thức, biện pháp khác nhau luôn tìm mọi cách để bảo vệ
sở hữu cho giai cấp chủ nô. Thông qua pháp luật, Nhà
nước hợp pháp hóa quyển sở hữu của chủ nô, ghi nhận
quyền lực vô hạn của chủ nô đối với nô lệ. Pháp luật quy
định bản thân người nô lệ chỉ là tài sản của chủ nô và
nếu nô lệ có con thì những người con này cũng thuộc tài
sản của chủ nô. Mọi hành vi xâm hại tới tài sản của chủ
nô đểu bị chủ nô và Nhà nước chủ nô trừng trị một cách
hết sức dã man, tàn bạo.
Đi đôi với việc củng cố, bảo vệ chế độ sở hữu chủ nô,
Nhà nưốc chủ nô còn thực hiện sự cưỡng bức lao động đối
với nô lệ, bắt nô lệ lao động để làm giàu cho chủ nồ, cho
Nhà nước, củng cố các hình thức phụ thuộc khác nhau của
nô lệ và những người lao động khác vào giai cấp chủ nô.
Chức năng trấn áp nô lệ và các tầng lớp người lao
động khác về mọi m ặt:
Từ những đặc điểm về kinh tế, chính trị, xã hội của xã
hội chiếm hữu nô lệ đã dẫn tới những mâu thuẫn rất gay
gắt giữa nô lệ với chủ nô. Trong xã hội thường xuyên xảy

ra các cuộc khởi nghĩa liên tiếp của nô lệ và của những
người lao động khác đứng lên chống lại Nhà nưóc chủ nô,
chống lại chủ nô tàn ác. Do sự phản kháng, sự đấu tranh
thường xuyên của nô lệ nên chủ nô luôn phải vũ trang và
sẵn sàng đàn áp nô lệ trong mọi tình huông và ở bất kỳ
107


đâu. Nhà nước chủ nô đã sử dụng mọi biện pháp có thể mà
chủ yếu là các biện pháp quân sự, bạo lực để đàn áp một
cách dã man, tàn bạo các cuộc khởi nghĩa của nô lệ. Do bị
hạn chê về nhiều mặt và bị đàn áp rất dã man nên hầu
như các cuộc khởi nghĩa của nô lệ chống lại chủ nô đều bị
thất bại, bị dìm trong máu.
Ngoài việc trấn áp bằng bạo lực, Nhà nước chủ nô còn
thực hiện trấn áp vể tinh thần đối với nô lệ và những
ngưòi lao động khác. Ví dụ: ở Nhà nước chủ nô Spac,
những người nô lệ Hilốt nếu sinh ra mà bị coi là khoẻ
mạnh hoặc thông minh thì sẽ bị giết chết để loại trừ khả
năng phản kháng của họ trong tương lai. Thỉnh thoảng,
Nhà nưốc lại tổ chức giết tập thể những người nô lệ để thị
uy, khủng bố tinh thần người Hilốt. Lợi dụng sự thấp
kém, hạn chế của nô lệ, Nhà nước chủ nô còn sử dụng tôn
giáo để mê hoặc nô lệ, làm cho nô lệ luôn ở trong tình
trạng khiếp đảm, run sợ, phụ thuộc, không dám đứng lên
đấu tranh để thay đổi địa vị của mình trong xã hội.
- Chức năng kinh tế- xã hội:
Các nhà nước chủ nô trong những chừng mực nhất
định đều tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội, giải
quyết những công việc thiết yếu của xã hội. ở một sô' nhà

nước chủ nô mà đặc biệt là các nhà nước chủ nô phương
Đông do những đặc điểm vể địa lý, khí hậu, để sản xuất và
sinh sống được, người dân buộc phải xây dựng những công
trình thủy lợi vói quy mô lón để tưới tiêu, ngoài ra còn
phải tổ chức việc khai phá rừng, chống các loại thú dữ, bảo
vệ mùa màng và các vật nuôi trong gia đình... Tất cả
những công việc trên đòi hỏi sự cố gắng của cả cộng đồng

108


mới có thể thực hiện được. Những hoạt động kinh tế - xã
hội nói trên lúc đầu do các công xã, bộ lạc đảm nhiệm
nhưng khi xuất hiện Nhà nước chủ nô thì Nhà nước buộc
phải đảm nhiệm. Vì vậy, các nhà nước chủ nô đã tiến hành
nhiều hoạt động kinh tế - xã hội để đáp ứng nhu cầu đòi
hỏi của xã hội vì sự tồn tại và phát triển của xã hội chiếm
hữu nô lệ.

5.2.2. C hứ c n ăn g đ ố i n g o a i:
- Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược chống lại
các nước khác, các dân tộc khác:
Các nhà nước chủ nô đều coi chiến tranh là một trong
những biện pháp hữu hiệu nhất để làm giàu, thực hiện
việc cướp đất, cướp tài sản của các dân tộc khác, bắt nhiều
tù binh về làm nô lệ. Số tù binh bắt được sẽ làm tăng khả
năng lao động bóc lột ở trong nước và còn có thể bán ra
nước ngoài để thu lợi. Do vậy, các nhà nước chủ nô đều ra
sức chuẩn bị lực lượng để tiến hành chiến tranh xâm lược
các quốc gia khác, các dân tộc khác mỗi khi có điều kiện.

Nhà nước chủ nô có thể bắt cả một đất nưốc, cả một dân
tộc
* bại
* trận
• làm nô lệ* và ra sức bóc lột
• họ.
• Chiến tranh
xâm lược mà các nhà nước chủ nô tiến hành đã làm cho
quan hệ giữa các nước luôn trong tình trạng căng thẳng,
đồng thời, nó cũng làm cho mâu thuẫn giữa chủ nồ và nô
lệ ngày càng trỏ nên gay gắt thêm.
- Chức năng phòng thủ đất nước và thực hiện quan hệ
ngoại giao, buôn bán với các quốc g ia khác:
Song song với việc tiến hành chiến tranh xâm lược, các
nhà nưâc chủ nô phải thực hiện phòng thủ đất nước chống


109


lại các cuộc xâm lăng từ bên ngoài. Biện pháp phổ biến là
xây dựng và củng cố quân đội với số lượng đông, xây
thành, đắp luỹ và các pháo đài vững chắc.
Ngoài ra, tuỳ theo tình hình cụ thể mà các nhà nưóc
chủ nô thực hiện quan hệ ngoại giao, buôn bán vối các
quốc gia khác.

5.3. Hình thức của Nhà nước chủ nô
Do sự hình thành và phát triển của các nhà nước chủ
nô trong những hoàn cảnh, điểu kiện hết sức khác nhau

nên việc tổ chức và thực hiện quyển lực ở mỗi nước có rất
nhiều khác biệt, ở mỗi thời kỳ phát triển của đất nước
cũng có nhiều thay đổi phụ thuộc vào sự phát triển của
chê độ nô lệ.
về hình thức chính thể của Nhà nước chủ nô có cả
chính thể quân chủ và cũng có cả chính thể cộng hòa với
những nền dân chủ khá phát triển.
Về hình thức cấu trúc nhà nước, phổ biến là cấu trúc
đơn nhất. Giai đoạn đầu xuất hiện ở nhiều nhà nước chủ
nô còn chưa có sự phân chia đất nưốc thành các đơn vị
hành chính lãnh thổ để quản lý.
Về chế độ chính trị của các nhà nước chủ nô, các biện
pháp để thực hiện quyền lực nhà nước phổ biến là bằng
bạo lực, phản dân chủ. Tuy nhiên, ỏ những nhà nước chủ
nô có chính thể cộng hoà thì các biện pháp dân chủ lại
1

»Ạ
«

A

1A


được áp dụng tương đối rộng rãi trong việc tổ chức và thực

hiện quyền lực nhà nước. Tuy hình thức của Nhà nước chủ
nô rất khác nhau nhưng “nhà nước, trong thời đại ch ế độ
nô lệ, dù là quân chủ hay cộng hòa quý tộc hay cộng koà


110


dân chủ, đều là nhà nước chủ nô... điều căn bản là người
nô lệ lúc không được coi là người'".
- Hình thức nhà nước chiếm hữu nô lệ thuộc c h ế độ nô
lệ phương Đông cổ đại. Hình thức chính thể phổ biến của
các nưóc phương Đông cổ đại là quân chủ độc tài với nền
quản lý tập trung quan liêu. Đứng đầu Nhà nước là vuađấng thiêng liêng bất khả xâm phạm vối quyền lực không
bị hạn chê dưới bất cứ hình thức nào và được truyền từ đời
này qua đời khác theo nguyên tắc cha truyền con nôì. Hoạt
động quản lý của Nhà nước tập trung ở ba phương diện cơ
bản là: về quân sự, đàn áp nô lệ trong nước và tiến hành
chiến tranh xâm lược; về tài chính , tổ chức bóc lột nhân dân
trong nước và nhân dân các nước bị xâm lược; hoạt động
quản lý, thiết lập một bộ máy quan liêu giải quyết những
công việc chung của đất nưốc, trong đó có việc sử dụng đất,
nưốc chung trong những điều kiện khí hậu khắc nghiệt...
- Hình thức Nhà nước chủ nô thuộc ch ế độ nô lệ cổ điển
(chế độ nô lệ Hyla), loại hình này chủ yếu tồn tại ở phương
Tây cổ đại, đa dạng hơn và dân chủ hơn so với ch ế độ nô lệ
phương Đông cổ đại. Chẳng hạn, ở Nhà nước Aten (thế kỷ
thứ V-IV tr.CN) đã thiết lập chính thế cộng hoà dân chủ.
Quyển lực tối cao của Nhà nước được trao cho Đại hội nhân
dân là cơ quan quyển lực nhà nước cao nhất, được thành lập
từ tất cả những ngưòi đàn ông từ 20 tuổi trở lên. Đại hội có
quyền bầu ra những cơ quan nhà nước khác và những chức
vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước. Đại hội nhân dân là
I


t



é

t

9

1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005,
t.39, tr.86.

111


cơ quan ban hành pháp luật. Mỗi công dân đểu có quyển
bày tỏ quan điểm của mình về tất cả các vấn đề mà họ quan
tâm, có quyển sáng kiến pháp luật, có quyển yêu cầu Đại
hội hủy bỏ các đạo luật nếu nội dung của đạo luật đó làm
tổn hại tới các nguyên tắc của nền dân chủ hiện hành. Cơ
quan quản lý nhà nưốc là Hội đồng năm trăm do Đại hội
nhân dân bầu ra.
Chính thể cộng hoà dân chủ ở Aten đã phát triển khá
cao, đặc biệt là khi có các cuộc cải cách đặc sắc của các nhà
quý tộc như Xôlông1, Cơlitten và Pêriclét2... Các cuộc cải
cách này đã đem lại những thay đổi rất lớn trong đòi sống
nhà nước và xã hội lúc bấy giò như: Thực hiện việc xóa bỏ
nô lệ vì nỢ; xóa bỏ việc phân chia dân cư theo tài sản và

địa vị xã hội để tiến hành phân chia theo khu vực hành
chính - lãnh thổ căn cứ vào khu vực cư trú của họ; nâng
cao hơn vai trò của Đại hội nhân dân; cho phép những
công dân ít tài sản cũng được tham gia Hội đồng năm
trăm... Có thể nói, Nhà nước Aten là một điển hình về nền
dân chủ chủ nô hoàn thiện, tiến bộ nhất thòi đó vối những
đặc điểm cơ bản là:
7



«

*

9

1. Xôlông (Solon: 640-558 TCN), là nhà hoạt động nhà nước
trong quốc gia thành bang Aten thời Hy Lạp cổ đại; là người khỏi
xướng các cải cách chính trị, kinh tế, xã hội nhàm từng bước thủ
tiêu các tàn dư của chế độ thị tộc, xây dựng thể chế dân chủ chủ nô
công thương, tạo điểu kiện cho kinh tế Aten phát triển mạnh (BT).
2. Pêriclét (Periclés) - nhà chính trị dân chủ và nhà quân sự lỗi
lạc của thành bang Aten thòi Hy Lạp cổ đại. Ông đặc biệt quan tâm
tối đòi sông dân nghèo ỏ Aten, ông cho tiến hành xây dựng nhiểu
công trình kiến trúc quân sự và dân sự để tạo ra việc làm cho ngưòi
nghèo, ban phát lúa gạo cho dân nghèo. (BT).

112



+ Có sự tham gia của nhân dân vào việc ban hành các
đạo luật;
+ Các cơ quan nhà nước được thành lập theo nguyên
tắc bầu cử, số lượng đại biểu được bầu phụ thuộc vào sô'
lượng dân cư của mỗi đơn vị lãnh thổ, do vậy, luôn có sự
thay đổi về nhân sự; quy định chế độ báo cáo và chế độ
trách nhiệm của những người giữ các chức vụ quan trọng
trưóc cử tri vể những việc làm của họ;
+ Giải quyết những công việc Nhà nưốc mang tính tập
thể, công khai, dân chủ; thủ tục quản lý đơn giản không có
sự quan liêu;
+ Đã tách Tòa án khỏi cơ quan hành chính để chuyên
thực hiện việc xét xử...;
+ Ban hành chế độ tiền lương cho những người phục
vụ trong bộ máy nhà nước;
+ Chỉ phụ nữ, kiều dân và những người được giải

phóng khỏi địa vị nô lệ mới không có quyền bầu cử.
Ngoài ra còn có chính thể cộng hoà quý tộc được thiết
lập ở Nhà nước Spác (thế kỷ VIMVtr.CN). Chính thể cộng
hoà quý tộc ở La Mã (thế kỷ VI-I tr.CN).
Cùng với những thay đổi trong xã hội chiếm hữu nô lệ,
các nhà nưốc chủ nô có chính thể cộng hoà từng bước
chuyển dần sang chính thể quân chủ. Quyển lực nhà nước
chủ yếu tập trung vào tay các vua (hoàng đế) để bảo vệ lợi
ích cho một số ít những chủ nô giàu có trong xã hội.

5.4. Bộ máy của Nhà nước chủ nô
Để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của minh, Nhà

nước chủ nô thiết lập, củng cố cho mình một bộ máy mang

113


nặng tính quân sự và tập trung quan liêu. Nhiệm vụ chủ
yếu của bộ máy nhà nước là trấn áp nô lệ trong nước, xâm
lược các nưác khác, giữ gìn trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích cho
chủ nô, cưỡng bức nô lệ làm giàu cho chủ nô.
Bộ máy nhà nước chủ nô giai đoạn đầu rất đơn giản,
chỉ gồm rất ít các cơ quan. Các cơ quan này thực hiện tất
cả các công việc của Nhà nước như cưdng bức, đàn áp nô
lệ, bảo vệ sỏ hữu chủ nô, xâm lược... Do vậy, thời gian đầu,
chủ nô vừa là ngưòi lãnh đạo quân đội vừa là người đại
diện chính quyền thực hiện việc quản lý xã hội, vừa là
quan toà và cũng là người sáng tạo pháp luật. Cùng với sự
phát triển của xã hội chiếm hữu nô lệ, nhu cầu quản lý xã
hội tăng dần đòi hỏi bộ máy nhà nước chủ nô phát triển,
phức tạp hơn, hoàn thiện hơn. Nhiều nhà nước chủ nô đã
thiết lập ra những bộ máy nhà nước khá hoàn thiện và
phát triển, các cơ quan nhà nước đã có sự chuyên môn hoá
tương đôì cao.

5.5. Bản chất và đặc điểm của pháp luật chủ nô
5.5.1. Bản chất của pháp luật chủ nô:
Pháp luật chủ nô là kiểu pháp luật đầu tiên trong lịch
sử, nó ra đời cùng với quá trình hình thành và phát triển
của Nhà nước chủ nô. Cũng như Nhà nước chủ nô, quá
trình hình thành và phát triển của pháp luật chủ nô diễn
ra trong một thòi gian rất dài. Sự ra đòi của pháp luật chủ

nô đánh dấu một bước phát triển mới của xã hội loài người

trong lĩnh vực điểu chỉnh quan hệ xẵ hội. Là một trong
những công cụ quản lý xã hội có hiệu quả, pháp luật chủ
nô đã góp phần tạo lệp một trật tự xã hội cần thiết, tạo

114


điều kiện và định hướng cho sự phát triển của một xã hội
mới văn minh, phát triển hơn so với xã hội nguyên thuỷ
mông muội, thấp kém.
Với cơ sở kinh tê và xã hội như đã trình bày ở phần
nhà nưốc cho thấy, bản chất của pháp luật chủ nô thể hiện
ở những thuộc tính cơ bản sau:
- Tính xã hội: Ra đòi từ nhu cầu điều chỉnh các quan
hệ xã hội khi xã hội đã phát triển ỏ một trình độ cao, pháp
luật chủ nô luôn mang tính xã hội, nó là công cụ điều
chỉnh các quan hệ xã hội nhằm duy trì đòi sống cộng đồng
xã hội. Pháp luật chủ nô quy định những quy tắc hoạt
động chung trong quá trình sản xuất, trao đổi, sinh hoạt
có tính chất cộng đồng của xã hội chiếm hữu nô lệ. Pháp
luật chủ nô đã ghi nhận các quyển tự do, dân chủ cho
nhân dân (giai cấp chủ nô), đồng thời là phương tiện hữu
hiệu để giải quyết những tranh chấp, mâu thuẫn trong xã
hội. Cùng vói những công cụ quản lý xã hội khác, pháp
luật chủ nô đã duy trì trật tự, sự ổn định, an toàn của xã
hội chiếm hữu nô lệ. Là phương tiện tổ chức và quản lý các
mặt khác nhau của đòi sống xã hội, đặc biệt là trong việc
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, pháp luật chủ

nô đã tạo điểu kiện cho xã hội ổn định và phát triển với
quy mô ngày càng lốn vì lợi ích của giai cấp chủ nô. Tuy
nhiên, do xã hội chiếm hữu nô lệ không quá phức tạp và
phát triển ở trình độ thấp nên vai trò và những giá trị xã
hội của pháp luật chủ nồ còn rất hạn chế, giá trị và phẩm
hạnh của con người chưa được để cao, coi trọng.
- Tính giai cấp: Pháp luật chủ nô thể hiện ý chí nhà
nưóc của chủ nô, là phương tiện để bảo vệ lợi ích của chủ
nô, chống lại nô lệ và những ngưòi lao động khác. Dựa vào
115


pháp luật, giai cấp chủ nô tiến hành trấn áp sự phản
kháng của nô lệ và những người lao động khác trong xã
hội, ghi nhận và củng cố quyền lực của chủ nô. Pháp luật
là công cụ để xác lập chế độ sở hữu của chủ nô, quy định
tình trạng lệ thuộc của nô lệ vào chủ nô, hợp thức hoá các
hình thức bóc lột tàn nhẫn của chủ nô đối với nô lệ. Nó ghi
nhận và bảo vệ chế độ chiếm hữu nô lệ, thừa nhận chủ nô
là công dân có đầy đủ mọi quyển hành và lợi ích, còn nô lệ
thì không được coi là công dân, họ không có một thứ quyển
nào cả, họ bị coi là “công cụ lao động biết nói”, họ bị buộc
phải làm mọi việc mà chủ nô yêu cầu và không được phản
đối. Đối với pháp luật, nô lệ không được coi là con người,
họ chỉ được coi là khách thể của quan hệ sở hữu, họ có thể
bị mua bán, cho tặng, thậm chí bị giết chết tuỳ theo ý
thích của chủ nô. Là công cụ chuyên chính của giai cấp
chủ nô, pháp luật chủ nô thực hiện những mục đích mà
giai cấp chủ nô để ra là giam hãm, đày đoạ nô lệ trong sự
tối tăm, cực nhọc và khiếp sỢ để ra sức áp bức, bóc lột họ

một cách tàn nhẫn không có giới hạn.
Như vậy, pháp luật chủ nô là tập hợp các quy tắc xử
sự chung do Nhà nước chủ nô ban hành; thể hiện ý chí Nhà
nước của chủ nô; được Nhà nước và các cá nhân chủ nô bảo
đảm thực hiện bằng nhiểu biện pháp, trong đó chủ yếu là
các biện pháp cưỡng chế; là một trong những công cụ điểu
chỉnh các quan hệ xã hội vì lợi ích và mục đích của chủ nô,
vì sự tồn tại và phát triển của xã hội chiếm hữu nô lệ.

5.5.2. Đặc điểm cơ bản của pháp luật chủ nô:
Pháp luật chủ nô củng c ố quan hệ sản xuất hình
thành trên cơ sở c h ế độ chiếm hữu của chả nô đối với tư
116


liệu sản xuất và đối với người sản xuất, hợp pháp hóa sự
bóc lột không có giới hạn của chủ nô đối với nô lệ:
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, tư liệu sản xuất và cả
người sản xuất đều thuộc sở hữu của chủ nô. Pháp luật
ghi nhận và củng cô' quyền tư hữu của chủ nô đối với tư
liệu sản xuất như đất đai, công cụ, phương tiện lao động
và người sản xuất là nô lệ. Quyển sở hữu của chủ nô bao
gồm sự chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản cũng
như đối vối nô lệ một cách tuyệt đối và được truyền từ đòi
này qua đời khác. Pháp luật của một sô' nhà nước còn cho
phép chủ nô có thể dùng bất kỳ một hình phạt nào kể cả
tử hình đối với nô lệ. Những nô lệ già hoặc ốm yếu không
còn khả năng lao động có thể bị chủ nô đuổi ra khỏi nhà
hoăc bi bỏ đói cho chết.
Quyền tư hữu được pháp luật chủ nô bảo vệ rất chặt

chẽ. Pháp luật một số nhà nước cho phép chủ nợ có thể
giam cầm, tra tấn con nợ trong nhà, thậm chí có thể bán
con nợ làm nô lệ hoặc giết chết. Có thể nói, pháp luật chủ
nô coi tài sản giá trị hơn tính mạng con ngưòi, đối với chủ
nô tài sản là quan trọng nhất. Mọi hành vi *âm hại tới tài
sản của chủ nô đểu bị pháp luật coi là tội phạm và bị
trừng phạt rất nặng.
Pháp luật chủ nô ghi nhận và củng c ố tình trạng
không bình đẳng trong xã hội:
Pháp luật chủ nô luôn quy định và củng cố tình trạng
đặc quyển của giới quý tộc chủ nồ, chỉ chủ nô mới được
pháp luật coi là công dân và có mọi thứ như đất đai, tư
liệu sản xuất, nô lệ, cốc quyền và tự do cá nhân... còn nô
lệ không được coi là công dân và không có một thứ quyền




117


nào cả. Thậm chí, pháp luật của một số nưốc còn quy
định những nô lệ được sinh ra mà khoẻ mạnh hoặc thông
minh hơn người thì sẽ bị giết chết để để phòng sự chống
đối của họ trong tương lai. Pháp luật chia công dân (chủ
nô) ra thành nhiều loại khác nhau phụ thuộc vào số tài
sản mà họ có. Cùng với việc phân loại công dân, pháp
luật còn ghi nhận cho mỗi loại công dân có những quyền
hạn và nghĩa vụ khác nhau. Pháp luật quy định nhà vua
có quyền lực vô hạn, không phải phục tùng pháp luật nào

cả, ý chí của nhà vua là pháp luật đối vối nhân dân.
Những người thuộc các tầng lớp trên trong xã hội có
nhiều quyển hơn, được giữ những chức vụ cao, quan
trọng hơn trong bộ máy nhà nước. Những người bình dân
hoặc công dân loại thấp không được tham gia vào các cơ
quan nhà nước, không có đầy đủ các quyển như chủ nô
khác và nếu vi phạm một số quy định của pháp luật thì
họ có thể bị buộc trở thành nô lệ. Pháp luật cho phép chủ
nồ có thể chuộc tội bằng tiền còn người tự do, người bình
dân thì không có quyển đó. Tập quán “ăn miếng trả
miếng” nhiều khi chỉ áp dụng khi kẻ vi phạm và ngưòi bị
hại có địa vị.xã hội ngang nhau, còn nếu giới quý tộc xâm
hại tới những người có địa vị xã hội thấp hơn thì không
áp dụng nguyên tắc trên.
Pháp luật còn quy định là với cùng một tội phạm
nhưng nếu người phạm tội là chủ nô thì mức phạt là cách
chức còn đối với những người nô lệ thì có thể bị giết chết.
Những người thuộc tầng lớp dưới luôn phải vâng lời,
không được phản đối những người thuộc tầng lớp trên, nếu
vi phạm sẽ bị trừng phạt rất nghiêm khắc.
118


Nô lệ luôn chiếm số đông trong xã hội nhưng họ không
được pháp luật coi là công dân, thậm chí không được coi là
con người nên họ không có một quyền hạn nào cả. Thậm
chí, việc giết chết hoặc gây thương tích cho nô lệ chỉ được
pháp luật coi là đã gây thiệt hại về tài sản cho chủ sở hữu
mà không bị coi là đã phạm tội giết người.
Tình trạng bất bình đẳng không chỉ được ghi nhận

trong pháp luật mà còn được bảo vệ rất chặt chẽ. Thông
qua pháp luật, Nhà nước chủ nô yêu cầu nhà vua có
nghĩa vụ áp dụng mọi biện pháp cưỡng chế để “những kẻ
hạ đẳng không chiếm được vị trí của những người
thượng đẳng”.

Pháp luật chủ nô ghi nhận sự thống trị tuyệt đối của
gia trưởng đối với vợ và các con trong gia đình:
Trong gia đình chủ nô, người chồng được pháp luật
quy định có nhiều quyển hơn so với những thành viên
khác nên họ thường thực hiện quyển thông trị tuyệt đối
của mình đối vối vợ và các con. Vợ và các con của chủ nô
tuy không phải là nô lệ nhưng bị coi là sở hữu của chủ nô,
do vậy, chủ nồ có rất nhiều quyển hành đối với họ.
Con của chủ nô có quyển “công dân”, có địa vị pháp lý
nhất định nhưng chủ nô có toàn quyền quyết định đến số
phận, thậm chí cả tính mạng của họ.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, theo quy định của pháp
luật thì phụ nữ không thể nhân danh minh để ký kết các
hợp đồng quan trọng. Trong gia đình, địa vị của người vợ
chỉ được xác định ngang hàng với các con và phải có nghĩa
vụ trung thành tuyệt đối với chồng.
-

119


- Pháp luật chủ nô quy định những hình phạt rất dã

man, tàn bạo:

Hình phạt trong pháp luật chủ nô có thể coi là nghiêm
khắc, dã man, tàn bạo nhất. Các biện pháp trừng phạt phổ
biến được áp dụng là tử hình (nấu phạm nhân trong vạc
dầu, cắt đầu phạm nhân bằng cưa, ném phạm nhân vào
lửa, chôn sống...) Các biện pháp khác như cắt bỏ các bộ
phận của cơ thể phạm nhân như tay, chân, tai, mũi, lưỡi,
ngực hoặc chọc cho mù mắt, đánh dấu vào mặt, cấm kết
hôn... cũng được áp dụng đối với người phạm tội.
Pháp luật còn cho phép tra tấn nhục hình đối vối phạm
nhân, giết tập thể cả cộng đồng mà trong đó có người
phạm tội.
- Trong pháp luật chủ nô đối tượng điều chỉnh không
được xác định rõ ràng:
Thời kỳ đầu trong xã hội chiếm hữu nô lệ, những công
cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác như đạo đức, tập quán,
tín điều tôn giáo... luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với
pháp luật, nhiều khi không có sự phân biệt. Vì vậy, ở
nhiều nước, đối tượng, phạm vi và những lĩnh vực điểu
chỉnh của pháp luật chưa được xác định rõ ràng. Nhiều
quy định của pháp luật chủ nô chỉ liên quan tối nghi lễ tôn
giáo, tối luân lý, các quy tắc ứng xử trong gia đình, trong
các cộng đồng xã hội mà không phải việc của Nhà nước.
5.6. Hình thức của pháp ỉuật chủ nô
Quá trình ra đời của pháp luật chủ nô rất dài nên tồn
tại chủ yếu dưới dạng pháp luật không thành văn và chưa
120


hình thành một hệ thống chuẩn mực bền vững nên hình
thức của pháp luật chủ nô cũng rất đa dạng. Thời kỳ đầu,

Nhà nước chủ nô thừa nhận những tập quán đã và đang
tồn tại trong xã hội thành pháp luật và bảo đảm cho
chúng được thực hiện. Ngoài tập quán pháp ra, các quyết
định của các cơ quan nhà nưốc hoặc của cá nhân chủ nô
khi giải quyết một trường hợp cụ thể nào đó cũng được
thừa nhận là khuôn mẫu để giải quyết những trường hợp
tương tự. Cách thức này đã tạo ra hình thức tiền lệ pháp
trong pháp luật chủ nô. Ý chí (quyết định) của các cơ quan
hay những người đại diện Nhà nưốc chủ nô nhiều khi chỉ
được thể hiện bằng miệng (khẩu truyền) chứ không ghi
thành văn bản, mặc dù vậy, những quyết định, những lời
nói đó cũng được coi là pháp luật đôi vâi nhân dân - pháp
luật khẩu truyền.
Cùng với sự phát triển của chữ viết là sự hình thành
và phát triển pháp luật thành văn. Nhiều nhà nước chủ nô
đã ban hành nhiều văn bản pháp luật ở các dạng khác
nhau và được chép trên các loại vật liệu khác nhau như
gỗ, tre, da súc vật... Thòi kỳ đầu, các văn bản pháp luật
chủ yếu là sao chép lại một cách có hệ thống những tập
quán pháp không thành văn. Tuy nhiên, cũng có những
nhà nước đã xây dựng được những bộ luật tổng hợp có giá
trị. Chẳng hạn, Bộ luật Hammurabi của Nhà nưóc chủ nô
Babilon; Bộ luật Manu của Nhà nưóc chủ nô Ân Độ; Luật
Đôracông của Nhà nưóc chủ nô Hy Lạp; Luật mười hai
bảng của Nhà nước chủ nô La Mã...

121


C hương 6

NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT PHONG KIÊN

6.1. Bản chất của Nhà nước phong kiến
Sự phát triển của xã hội chiếm hữu nô lệ đã dẫn đến
sự chuyển hóa dần từ phương thức sản xuất chiếm hũu
nô lệ sang phương thức sản xuất phong kiến. Chế độ
chiếm hữu nô lệ dần từng bước bị diệt vong thay vào đó
là chế độ phong kiến và Nhà nưốc phong kiến ra đòi thay
thế cho Nhà nước chủ nô bị diệt vong (một số nhà nước
phong kiến xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của chế độ
công xã nguyên thủy).
Sự xuất hiện của Nhà nước phong kiến đánh dấu một
bưốc phát triển mối của xã hội loài người, nó đã tạo ra
những điểu kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã
hội mà đặc biệt là xóa bỏ ách nô lệ cho những người lao
động, nâng cao năng suất lao động trong xã hội.
Cơ sở kinh tế của Nhà nước phong kiến là quan hệ sản
xuất phong kiến. Quan hệ này được xây dựng trên cơ sở
chế độ chiếm hữu của địa chủ phong kiến đối với đất đai,
đối với các tư liệu sản xuất khác và đối vối việc chiếm đoạt
một phần sức lao động của nông dân.
122


Nền kinh tế phong kiến là nền kinh tế tự cung tự
cấp, hoạt động bao trùm là sản xuất nông nghiệp. Do
vậy, đất đai, quyền sở hữu đất đai, quyền thu thuế trên
những vùng đất nhất định là những yếu tố quan trọng
bậc nhất trong kinh tế cũng như trong đời sống xã hội
phong kiến.

Trong xã hội phong kiến, về nguyên tắc, địa chủ không
có quyền sở hữu đối với nông dân mà chỉ có quyền sỏ hữu
đối với đất đai và đối với tư liệu sản xuất. Nhưng vì không
có đất, không có tư liệu sản xuất nên nông dân bị lệ thuộc
vào địa chủ phong kiến về mặt kinh tế, họ buộc phải làm
thuê cho địa chủ phong kiến và phải làm nhiều nghĩa vụ
nặng nề đối với địa chủ phong kiến.. Hình thức bóc lột phổ
biến của địa chủ đối với nông dân là địa tô (bằng thuế,
bằng tiền, bằng hiện vật, bằng lao dịch...)Cơ sở xã hội: Xã hội phong kiến là xã hội có kết cấu
rất phức tạp, nó được phân chia thàrih rất nhiều những
đẳng cấp khác nhau phụ thuộc chủ yếu vào sự khác
nhau về kinh tế mà đặc biệt là đất đai giữa các cá nhân.
Có thể nói, đất đai trong xã hội phong kiến quyết định
sự giàu sang, thứ bậc và địa vị của mỗi người trong xã
hội. Ngoài ra, sự phân chia đẳng cấp còn phụ thuộc vào
địa vị pháp lý, tính chất và số lượng các quyển mà đại
diện của đẳng cấp ấy có thể có... Mỗi đẳng cấp có địa vị
xã hôi
« khác nhau,/ có lơi
• ích kinh tế,' chính tri« - xã hôi
*
khác nhau. Những đẳng cấp thống trị trong xã hội gồm
vua, chúa, tầng lớp quý tộc (các loại địa chủ lớn, nhỏ vối
rất nhiều danh vị khác nhau) tầng lớp tăng lữ (cha cố, sư
sãi...). Những đẳng cấp bị thống trị gồm nông dân tự do,
123


nông dân lệ thuộc, nông nô, thợ thủ công, dân nghèo
thành thị...

Trong xã hội phong kiến, bên cạnh quyền lực của vua,
chúa phong kiến thì mỗi quan lại, địa chủ phong kiến đểu
có thể thiết lập và duy trì quyền lực riêng của mình trên
những phạm vi lãnh thổ nhất định. Quyền lực trong xã
hội phong kiến luôn mang tính đẳng cấp khắc nghiệt, dẫn
tới tình trạng người nông dân phải chịu rất nhiều tầng
nấc áp bức bóc lột.
Cơ sở kinh tê và kết cấu giai cấp của xã hội phong
kiến đã quyết định bản chất của Nhà nưốc phong kiến.
Tính xã hội. Các nhà nưốc phong kiến tuỳ thuộc điều
kiện cụ thể của đất nước mình mà tiến hành các hoạt động
kinh tế - xã hội vì sự phát triển đất nưốc, vì lợi ích của dân
cư, vì sự phồn thịnh của quốc gia. Sự tham gia của các nhà
nước phong kiến trong việc giải quyết những công việc của
xã hội là xuất phát từ nhu cầu đòi hỏi của xã hội phong
kiến, từ mong muốn và nguyện vọng của cư dân và cả từ ý
chí chủ quan, lòng tốt của những người cầm quyền. Trong
xã hội phong kiến, khi mà mọi quyền lực đều thuộc về các
vua chúa phong kiến thì nền chính trị tốt hay xấu trong
nhiều trường hợp phụ thuộc vào nhân cách, phẩm hạnh của
vua, chúa và tầng lốp quan lại trong nưốc. Việc đưa đất
nưốc đến thịnh vượng hay suy vong, nhân dân ấm no hay
đói khổ, lầm than trong nhiều trường hợp phụ thuộc rất
nhiều vào vai trò, sự sáng suốt, nhân từ hay ngu muội, bạo
ngược của vua, chúa trong đất nước. Tuy nhiên, sự quan
tâm tối các hoạt động xã hội của Nhà nước phong kiến chưa
nhiều, chưa đúng với vị trí vai trò của nó trong xã hội.
124



Tính giai cấp. Nhà nước phong kiến là công cụ
chuyên chính chủ yếu của giai cấp địa chủ phong kiến để
chống lại nông dân và những người lao động khác nhằm
củng cố, bảo vệ sự thống trị vê mọi mặt của địa chủ
phong kiến. Quyển lực nhà nước trong chế độ phong kiến
là quyển lực được duy trì theo cách thức cha truyền con
nối. Ngoài quyển lực nhà nước thì quyển lực của các tổ
chức tôn giáo (thần quyền) cũng có vai trò rất lốn trong
đòi sống chính trị của đất nước. Trong xã hội phong kiến,
các tổ chức tôn giáo phát triển rất mạnh về các phương
diện nên tổ chức tôn giáo còn đồng thời là tổ chức kinh tế
(các tổ chức tôn giáo có rất nhiều đất đai và các tài sản
quý khác), tổ chức chính trị (các tổ chức tồn giáo có
quyền đặt ra luật lệ riêng, có quyển thu thuế, có các đội
quân vũ trang, có Toà án riêng...) và là trung tâm văn
hoá (các tổ chức tôn giáo có thể mở trường học, thành lập
các viện nghiên cứu về khoa học, nghệ thuật...). Với
những ưu thế về kinh tế, chính trị, văn hóa như vậy, các
tổ chức tôn giáo thường can thiệp, chi phối các công việc
của Nhà nước phong kiến, đôi khi lấn át Nhà nước trong
một số lĩnh vực nhất định (lịch sử nhân loại thời kỳ
Trung cổ đã chứng kiến nhiều cuộc xung đột giữa thần
quyền và thế quyền). Chính những đặc điểm trên của xã
hội phong kiến mà Nhà nước phong kiến thường thoả
hiệp và liên kết chặt chẽ với các tổ chức tôn giáo thành
một chế độ cai trị cực kỳ chuyên chế để đàn áp, áp bức,
bóc lột nông dân về thể xác cũng như về tinh thần, đẩy
ngưòi dân vào tình trạng tối tăm, ngu dốt, lạc hậu, luẩn
quẩn trong những “đêm dài trung cố'.
125



6. 2. Chức năng của Nhà nước phong kiến
6.2.1. Chức n ăn g d ố i n ội:
Chức năng bảo vệ chê độ sở hữu của địa chủ phong
kiến, duy trí các hình thức bóc lột phong kiến đối với nông
dân và các tầng lớp lao động khác:
Dưối chế độ phong kiến, đất đai là tư liệu sản xuất
chủ yếu. Bởi vì, sản xuất nông nghiệp chi phối gần như
toàn bộ nền sản xuất của xã hội. Đất đai chủ yếu nằm
trong tay vua chúa phong kiến cũng như các địa chủ lớn
nhỏ. Người nông dân hầu như không có ruộng đất và nêu
có thì cũng rất ít và khó có thể giữ được.
Nhà nước phong kiến rất quan tâm tới việc bảo vệ và
phát triển sở hữu phong kiến, đặc biệt là đất đai. Nhà nước
phong kiến bằng pháp luật, bằng các biện pháp kinh tế và
bằng cả bạo lực, không loại trừ một biện pháp, hình thức
nào mà không sử dụng để bảo vệ và phát triển sở hữu
phong kiến. Mọi hành vi xâm hại tới sở hữu phong kiến đểu
bị Nhà nước phong kiến, cùng địa chủ phong kiến trừng
phạt rất dã man. Bằng việc bảo vệ các hình thức sở hữu
phong kiến, Nhà nưốc phong kiến đã củng cố, duy trì các
hình thức bóc lột tàn nhẫn của địa chủ phong kiến đối với
nông dân và những người lao động khác. Bằng các chính
sách về sưu thuế, Nhà nước phong kiến còn trực tiếp tham
gia vào việc bóc lột một cách không thương xót đối với nông
dân. Ngoài ra, nông dân còn phải nộp nhiều khoản khác
nhau cho nhà thờ, cho tầng lớp tăng lữ. Có thể nói, hầu hết
các đẳng cấp quan lại trong xã hội phong kiến đều sống
bằng cách bòn rút của cải và sức lực của người nông dân.

126


Chức năng trấn áp nông dân và những người lao
động khác:
Do sự áp bức bóc lột nặng nể tàn bạo của địa chủ
phong kiến, nông dân cùng những ngưòi lao động khác
luôn đấu tranh, phản kháng chống lại. Nhiều cuộc khởi
nghĩa của nông dân đã nổ ra ở khắp nơi trong quá trình
tồn tại của các nhà nưốc phong kiến. Tuy nhiên, do tình
trạng phân tán, địa phương chủ nghĩa đã làm cho những
người nông dân hết sức khó khăn trong việc liên kết với
nhau để chống lại địa chủ, chông lại Nhà nước phong kiến.
Thói quen chịu đựng của nông dân từ thế hệ này qua thế
hệ khác cũng làm cho các cuộc khỏi nghĩa của nông dân
chủ yếu mang tính chất địa phương (từng vùng, từng địa
phương) tự phát chứ ít có cuộc khởi nghĩa nông dân nào có
quy mô cả nước. Thêm vào đó, “một minh nông dân không
có kh ả năng làm cách mạng, chừng nào họ còn đứng trước
lực lượng có tổ chức của các vương công, quý tộc và thành
thị thống nhất và đoàn kết với nhau”1.
Nhà nước phong kiến cũng như vua chúa phong kiến đã
sử dụng mọi biện pháp, thủ đoạn có thể để đàn áp nông dân.
Biện pháp phổ biến là bạo lực như dùng quân đội để đàn áp,
chém giết không thương xót đối với nông dân, ngoài ra, còn
giam cầm, tra tấn, đánh đập nông dân đến chết. Trong
những trường hợp nổ ra các cuộc khởi nghĩa nông dân, thì
Nhà nưóc phong kiến, các chúa phong kiến luôn chi viện cho
nhau, cùng nhau hợp sức đàn áp dã man nông dân.
1. C.Mác và Ph.Ảngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia,

Hà Nội, 1993, t. 7, tr. 473.

127


×