Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Không gian văn hóa Chăm (Học phần: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.65 KB, 11 trang )

KHÔNG GIAN VĂN HÓA CHĂM
Nội dung chính:
I. TỔNG QUAN VỀ VĂN HÓA CHĂM
II. TIẾN TRÌNH VĂN HÓA CHĂM
III. THÀNH TỰU VĂN HÓA CHĂM
IV. DI SẢN VĂN HÓA CHĂM NGÀY NAY
I. TỔNG QUAN VỀ VĂN HÓA CHĂM
1. Vị trí địa lý, dân cư, ngữ hệ và văn hóa cơ sở.
1.1. Vị trí địa lý.
1.2. Dân cư, ngữ hệ.
1.3. Văn hóa cơ sở - Văn hóa Sa Huỳnh.
2. Tọa độ văn hóa Chăm.
2.1. Quốc hiệu Champa.
2.2. Tọa độ văn hóa Chăm.
I. TỔNG QUAN VỀ VĂN HÓA CHĂM
1. Vị trí địa lý, dân cư, ngữ hệ và văn hóa cơ sở.
1.1. Vị trí địa lý.
Nhìn 1 cách tổng thể xuyên suốt lịch sử hình thành, phát triển của mình,
cương vực và vị trí lãnh thổ Champa có nhiều thay đổi, đặc biệt là t ừ th ế kỉ X
đến XV. Cụ thể:
“Vương quốc Champa hình thành và phát triển trên dải đ ất mi ền Trung
Việt Nam và một phần cao nguyên Trường Sơn, lúc mạnh nhất tr ải dài t ừ
Hoành Sơn, sông Gianh ở phía Bắc đến sông Dinh – Hàm Tân, ở phía Nam đ ến
lưu vực Krong Pôcô và sông Đà Rằng trên Tây Nguyên”.(Phan Huy Lê (ch ủ
biên), Lịch sử Việt Nam tập I, trang 223).
Năm 1069, vua Rudravarman (Chế Củ) đã nhượng ba châu Địa Lý (Lệ
Ninh, Quảng Bình ngày nay), Ma Linh (Bến Hải, Quảng Tr ị ngày nay) và B ố
1


Chính (các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa tỉnh Qu ảng Bình ngày


nay) cho vua Lý Thánh Tông của Đại Việt và lãnh thổ Champa chỉ còn từ nam
Quảng Trị ngày nay trở vào.
Đến năm 1306, vua Jayasimhavarman III (Chế Mân) nhượng hai châu Ô,
Lý cho nhà Trần (để làm của hồi môn cưới Huyền Trân công chúa). Nhà Tr ần
đổi hai châu này thành hai châu Thuận và châu Hóa nay là vùng t ừ nam Qu ảng
Trị cho đến Đà Nẵng, Điện Bàn.
Đến năm 1471, vua Lê Thánh Tông sau khi đánh bại quân Champa (và
sáp nhập phần lớn lãnh thổ Champa), lãnh thổ Champa chỉ bao gồm các tỉnh
Phú Yên – Khánh Hòa và Ninh Thuận – Bình Thuận ngày nay.
Về phía Tây, tuy lãnh thổ Champa bao gồm cả Tây Nguyên và đôi khi còn
mở rộng sang tận Lào ngày nay, nhưng người Chăm vẫn duy trì lối s ống c ủa
những người đi biển với các hoạt động thương mại đường biển, và ch ỉ đ ịnh
cư ở khu vực đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam.
Năm 1471, vua Lê Thánh Tông tách phần đất thuộc Tây Nguyên ngày nay
thành nước Nam Bàn, tiểu quốc gia sơ khai riêng cho người Giarai và Ê đê và
từ đây miền đất này không còn thuộc cương vực của Champa (Khâm Đ ịnh
Việt Sử thông giám Cương mục, bản tiếng Việt của Nhà xu ất b ản Giáo d ục,
Hà nội, 1998, trang 525).
Như vậy, đến thế kỉ XV, lãnh thổ Champa chỉ còn phần đất Phú Yên –
Khánh Hòa và Ninh Thuận – Bình Thuận ngày nay. Sau đó dần d ần b ị các chúa
Nguyễn thôn tính và đến năm 1832 toàn bộ lãnh th ổ Champa chính th ức b ị
sáp nhập vào Đại Nam dưới triều vua Minh Mạng.
1.2. Dân cư, ngữ hệ.
Cư dân Champa có nguồn gốc là người bản địa ở Lục địa (người Môn –
Khơme) và người Malayo-Polynesian (Mã Lai – Đa Đảo) di cư đến đất liền
Đông Nam Á vào thời đại văn hóa Sa Huỳnh. Dân tộc Chăm c ơ bản đ ược hình
thành từ hai thị tộc: Cau (Caramukar) và Dừa (Narikelanamsa), gắn liền v ới tô
tem thị tộc Cau và Dừa.
2



Ngôn ngữ Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian).
1.3. Văn hóa cơ sở - Văn hóa Sa Huỳnh.
Văn hóa Sa Huỳnh hình thành cách ngày nay 2000 đến 2500 năm, là văn
hóa gắn liền và có nguồn gốc phần nào của sự di cư từ nh ững người ven biển
và đảo. Đến giữa thiên niên kỷ I trước công nguyên vùng đất miền Trung đã
bước vào thời sơ kỳ đồ sắt.
2. Tọa độ văn hóa Chăm.
2.1. Quốc hiệu Champa.
Champa theo tiếng Phạn nghĩa là Nagara Champa (Vương quốc Chiêm
Thành), tiếng Chăm là Campa. (Champacũng là tên một loài hoa ở Ấn Độ, ở
Việt Nam thường gọi là hoa sứ, hoa đại, cũng là quốc hoa của Lào).
2.2. Tọa độ văn hóa Chăm.

Champa là giao điểm giữa 2 khu vực văn hóa – Đông Nam Á và Ấn Đ ộ,
trong đó cơ tầng là văn hóa Đông Nam Á, như nông nghiệp trồng lúa nước,
tục ăn trầu (betel chewing custom), văn hóa xóm làng (Plây Chăm), ở nhà sàn,
những nghi lễ nông nghiệp (tín ngưỡng phồn thực...).
II. TIẾN TRÌNH VĂN HÓA CHĂM
1. Thời kì Văn hóa Sa Huỳnh (Thiên niên kỉ I BC – Thế kỉ II AD)
2. Thời kì Lâm Ấp (192 - 757) – Lập quốc
3


3. Thời kì Hoàn Vương (757 - 859) – Phát triển
4. Thời kì Chiêm Thành (875 - 1471) – Hưng thịnh
5. Thời kì Panduranga (1471 - 1832) – Suy yếu
1. Thời kì Văn hóa Sa Huỳnh (Thiên niên kỉ I BC – Th ế kỉ II AD)
Đầu thế kỉ XX, trên các cồn cát dọc duyên hải miền Trung, các nhà khảo
cổ học Pháp đã phát hiện một nền VH đồng thau-sắt s ớm – Văn hóa Sa

Huỳnh (Quảng Ngãi) với các hiện vật tiêu biểu là khuyên tai 2 đ ầu thú và táng
thức mộ vò. Niên đại vào khoảng thiên niên kỉ I BC – Thế kỉ II AD.
Đặc điểm nổi bật của văn hóa Sa Huỳnh:
Đồ gốm có chân và trang trí hoa văn, chủ yếu kh ắc v ạch, hình sóng, có
nắp đậy, một số được miết bóng.
Người chết được chôn trong vò đất nung (cái lớn đường kính từ 80 – 100
cm, cái nhỏ từ 40 – 50 cm), đã sử dụng hình thức cải táng và h ỏa táng, trong
các vò chôn có mảnh thủy tinh màu, mã não, … (có thể người Sa Huỳnh đã
biết chế tạo thủy tinh). Bên cạnh đó, người ta còn tìm thấy trong các mộ còn
có đồ trang sức hình đầu thú và trang sức vỏ sò của người Nam Đ ảo.
Các nhà khảo cổ còn tìm thấy các khuôn đúc đ ồng, xỉ đồng, vũ khí s ắt,
dao, rìu, cuốc, thuổng, và đồ đá,… do đó có th ể kh ẳng đ ịnh niên đ ại c ủa văn
hóa Sa Huỳnh là vào cuối thời kỳ đồ đồng và đầu đ ồ sắt.
Văn hóa Sa Huỳnh cùng với Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Óc Eo đã t ạo
thành tam giác văn hóa của Việt Nam thời kỳ đồ sắt.
Trên nền tảng của nền Văn hóa Sa Huỳnh, các cư dân cổ x ưa ở đây đã có
giao lưu – tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ, hình thành nên Vương Quốc Champa
với lãnh thổ bao gồm vùng duyên hải miền Trung Việt Nam, t ồn t ại liên t ục
từ thế kỷ II – thế kỷ XVII .
2. Thời kì Lâm Ấp (192 - 757)
Theo thư tịch cổ Trung Quốc, thế kỷ II, nhân lúc Trung Quốc rối lo ạn,
một người tên là Khu Liên (bộ tộc Dừa ở phía Bắc) đã lãnh đạo nhân dân
4


khởi nghĩa, giành quyền tự chủ, thành lập nước Lâm Ấp. Đó chính là quốc gia
đầu tiên của người Champa và cộng đồng cư dân trên dải đất miền Trung,
với trung tâm chính trị, tôn giáo là Trà Kiệu – Sinhapura (Quảng Nam), (Vũ
Duy Mền (chủ biên), Lịch sử Việt Nam tập I, trang 454).
Cư dân Lâm Ấp đã tiếp thu văn hóa Ấn Độ, sáng tạo nên nền văn hóa

Champa. “Sự cống hiến của vương triều này với vương quốc Champa trong
một thời gian 5 thế kỉ có vẻ là không nhiều, nhưng rất căn bản: v ới s ự th ống
nhất bước đầu, gồm miền Bắc, miền Trung và một phần Nam Chăm, Nam
Đèo Cả, tức là Khánh Hòa; sự sáng tạo chữ Chăm cổ, sự sáng tạo một ki ểu
kiến trúc, một nền nghệ thuật, tiêu biểu là nghệ thuật E1 (Mỹ S ơn), còn đ ể
lại dấu ấn ảnh hưởng về sau, đến cả Chân Lạp – Campuchia. Đó là sự m ở
đầu và sự đặt nền móng cho cả Champa.” (Lương Ninh, Lịch sử Đông Nam Á,
NXB Giáo Dục, trang 34).
3. Thời kì Hoàn Vương – Virapura(757 - 859)
Virapura là vương triều phía Nam thường gọi là Nam Chăm, ti ếp n ối
Sinhapura. Vào năm 757, trung tâm chính trị của Champa đã chuy ển t ừ Trà
Kiệu vào khu vực Panduranga (Ninh Thuận, Bình Thuận) và Kauthara (Phú
Yên, Khánh Hòa), với kinh đô Virapura gần Phan Rang ngày nay và thánh đ ịa
tôn giáo ở quanh quần thể đền tháp là Tháp Po Nagar ở Nha Trang ngày nay
nơi để thờ nữ thần đất Yan Po Nagar. Đây là th ời kỳ Châp b ị ng ười Java t ấn
công nhiều lần. Các di chỉ và đền tháp thời kì này tập trung ch ủ y ếu ở Phan
Rang, Phan Thiết, vùng Ninh Thuận, Bình Thuận.
Giai đoạn Virapura là sự tiếp nối và phát triển từ giai đoạn Sinhapura,
nhưng khi chuyển về vùng đất phía Nam, Champa th ời kì này ch ịu ảnh h ưởng
không chỉ văn hóa Ấn mà còn của Khơme.
4. Thời kì Chiêm Thành (875 - 1471)
Chiêm Thành là danh từ phiên âm từ Phạn ngữ Campapura “thành ph ố
Champa”.

5


Năm 875, vua Indravarman xây dựng triều đại mới ở Indrapura (Đồng
Dương - Quảng Nam). Indravarman là vị vua Chăm đầu tiên theo Ph ật giáo
Tiểu thừa và xem đây là tôn giáo chính thức.

Đến đầu thế kỷ X, do sự tấn công của Đại Việt, trung tâm c ủa Champa
được chuyển xuống Vijaya ở phía nam nằm trên đất tỉnh Bình Định ngày nay
(gọi là Đồ Bàn hoặc Chà Bàn).Đây là thời kỳ đạo thờ thần Siva h ưng th ịnh tr ở
lại, cũng là thời kỳ văn minh Champa đạt đến đỉnh cao, v ới nhi ều thành t ựu
rực rỡ (tháp Tháp Po Klong Garai).
Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh với Trung Quốc, Mông Cổ, Chân L ạp và
nhất là Đại Việt đã khiến vương quốc Champa suy yếu dần.
Đến năm 1471, vua Lê Thánh Tông sau khi đánh bại quân Champa (và
sáp nhập phần lớn lãnh thổ Champa vào Đại Việt), lãnh th ổ Champa ch ỉ còn
bao gồm các tỉnh Phú Yên – Khánh Hòa và Ninh Thuận – Bình Thuận ngày nay.
5. Thời kì Panduranga (1471 - 1832)
Vào thế kỷ XVII, các chúa Nguyễn đã từng bước sát nh ập và m ở r ộng
lãnh thổ vào phía Nam: chiếm giữ vùng đất Panduranga và đổi tên thành Trấn
Thuận Thành. Năm 1693, nhà Nguyễn xóa bỏ Trấn Thuận Thành và thành l ập
Phủ Bình Thuận. Năm 1832, vua Minh Mạng chia lại đất đai này thành hai
huyện An Phước (Ninh Thuận) và Hòa Ða trực thuộc tỉnh Bình Thu ận ngày
nay.
Như vậy, Panduranga là lãnh thổ Champa cuối cùng bị Đại Việt sáp
nhập.
III. THÀNH TỰU VĂN HÓA CHĂM
1. Thể chế chính trị
2. Tổ chức xã hội
3. Kinh tế
4. Văn hóa, nghệ thuật

6


1. Thể chế chính trị
Căn cứ vào nhiều nguồn tài liệu, trong đó có cả các bia kh ảo c ổ, di tích

của người Chăm, tới nay xác định được có khoảng 10 triều đại v ới gần 100 v ị
vua.
Vua thường được gắn liền với vị thế tôn giáo. Bộ máy chính quyền phân
ra làm 2 cấp, trung ương và địa phương. Có ba cấp quan đ ược phân rõ ràng:
tôn quan là những người có chức cao, đứng đầu quan võ; thuộc quan; ngo ại
quan là những người cai trị ở địa phương. Về sau có chức Tể tướng đứng đ ầu
các quan. Bộ máy chính quyền luôn được bảo vệ bởi m ột đ ội quân th ường
trực từ 4 – 5 vạn người. Nhìn chung, bộ máy chính quyền và quân đội c ủa
Champa tương đối hoàn chỉnh.
2. Tổ chức xã hội
Xã hội Champa có tầng lớp quý tộc – quan lại, trong đó có nh ững ng ười
có quyền lực chính trị, và những người chuyên lo các việc lễ nghi và tôn giáo.
Đây là tầng lớp được hưởng nhiều quyền lợi, có của cải riêng và là nh ững
người có vai trò quan trọng trong việc xây dựng đền miếu.
Nông dân chịu sự chi phối và phụ thuộc vào tầng lớp trên (có lẽ là bóc l ột
theo địa tô?). Ngoài ra còn có nô lệ.
Như vậy xã hội Champa đã có 3 tầng lớp, là quý tộc – quan lại, nông dân
công xã, nô lệ, họ bị ràng buộc với nhau bởi ch ế đ ộ s ở h ữu ru ộng đ ất và l ễ
nghi trong tôn giáo.
Từ cơ sở của chế độ mẫu hệ còn tồn tại tới ngày nay, các nhà nghiên c ứu
cho rằng vai trò của người phụ nữ trong xã hội Champa rất lớn.
3. Kinh tế
Nền kinh tế Champa chủ yếu dựa vào các hoạt động nông nghi ệp, s ản
xuất đồ thủ công và thương mại. Các dấu vết còn lại ở miền Trung Vi ệt Nam
của những hệ thống thủy lợi phức tạp và những giống lúa có chất l ượng cao
đặc trưng riêng của miền Trung (lúa Chiêm) được xem là các bằng ch ứng c ủa

7



một nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước đã phát triển cao, sử d ụng công
cụ bằng sắt và sức kéo trâu, bò.
Các nghề thủ công truyền thống như: dệt, làm gốm phát triển mạnh. Kỹ
thuật nung gạch đạt trình độ cao, hoa văn được khắc t ỉ m ỉ. Trong th ủ công
nghiệp còn có nghề làm đồ trang sức và vũ khí. Trang sức ch ủ y ếu kết từ s ản
vật biển như ngọc trai, vỏ sò, và ngoài ra còn có vàng, bạc.
Vương quốc Champa có vị trí thuận lợi cho sự phát triển th ương mại
đường biển. Sản phẩm giao thương phong phú, gồm đồ thủ công nh ư các đ ồ
gốm sứ, đất nung và cả các sản phẩm khai thác miền rừng nh ư s ừng tê, ngà
voi, và đặc biệt là trầm hương, …
4. Văn hóa, nghệ thuật (Tôn giáo, tín ngưỡng, kiến trúc, điêu khắc, chữ viết,
văn học, âm nhạc…)
Nói đến văn hóa Champa cũng như các quốc gia cổ đại trong khu v ực
chúng ta không thể phủ nhận vai trò của những người Ấn Độ. Người Ấn đến
với văn hóa và hệ thống thần quyền của mình như tiếp thêm sức m ạnh cho
vương quyền ở Champa những buổi đầu thành lập đất nước. Khi mà tín
ngưỡng sơ khai chưa đáp ứng cho việc củng cố quy ền l ực cho nhà vua. Sau
khi Ấn giáo du nhập vào Champa, cư dân ở đây chủ y ếu th ờ th ần Siva. Đ ến
thời Đồng Dương còn tiếp thu cả Phật giáo Tiểu th ừa. S ự ảnh h ưởng của Ấn
giáo đối với Champa không chỉ ở mặt tâm linh mà chi ph ối toàn b ộ đ ời s ống
chính trị và xã hội. Nếu để ý, tên các vương triều như Sinhapura, Indrapura,…
và tên vua như Sri Prasastadharma mang nét văn hóa và tôn giáo của Ấn Đ ộ,
khi mà chữ Sri có nghĩa là đấng tối cao chẳng hạn… Một yếu tố văn hóa quan
trọng được ảnh hưởng nữa là chữ viết. Người Chăm đã tiếp thu chữ Phạn
(Sanskrit) – một văn tự cổ Ấn Độ. Nó được tiếp nhận và sử dụng rộng rãi
ngay từ khi mới thành lập vương quốc tức thế k ỉ th ứ II đến th ế k ỉ VIII. Sau
thế kỉ thứ VIII, bắt đầu xuất hiện một loại chữ mới t ừ ch ữ Phạn gọi là ch ữ
Chăm cổ. Nên lúc này cả hai loại có vị trí như nhau, nh ưng các văn b ản quan
trọng lại ghi bằng chữ Phạn. Thực chất người Chăm có tiếng nói riêng thu ộc
8



ngữ hệ Mã Lai – Đa Đảo, sau khi mượn và sử dụng ch ữ Ph ạn m ột th ời gian h ọ
đã sáng tạo ra chữ viết riêng cho mình với 16 nguyên âm, 31 phụ âm và 32 âm
sắc. Chữ Chăm cổ là nguồn gốc sâu xa của tiếng Chăm hiện đại ngày nay
được sử dụng rộng rãi ở các vùng như Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang.
Trong văn học, người Chăm ngay từ đầu đã tiếp thu và xem bộ s ử thi
Ramayana như là sáng tác của họ, còn lập đền thờ Valmiki – tác gi ả bộ s ử thi.
Như vậy văn hóa Ấn đã in đậm trong đời sống tinh thần Champa. Văn
học bản địa trở nên mờ nhạt đơn giản chỉ là những chuyện kể, viết bi kí một
cách rậpkhuôn, công thức, chưa xứng tầm với việc sáng tạo ra ch ữ vi ết.
Nhưng Champa không phụ thuộc và sao chép một cách khuôn m ẫu văn hóa
Ấn Độ, đó là ở mặt đẳng cấp xã hội, không phân bi ệt làm 4 đ ẳng c ấp n ặng
nề.
Từ thế kỷ XII – XIV, Hồi giáo được truyền bá vào Champa.
Ngoài ra, người Chăm còn sử dụng hệ thống lịch pháp của Ấn Đ ộ đúng
hơn là ở phía bắc Ấn – lịch saka.
Quả thật là một thiếu sót khi nói về văn hóa Champa mà không k ể đ ến
kiến trúc. Trên ảnh hưởng kiến trúc Ấn Độ, kiến trúc Champa có đ ặc đi ểm
sau: Thân tháp là một khối vững chắc, có cửa chính và các c ửa gi ả, có đ ường
nét trang trí khỏe khoắn, mỗi thời một kiểu nhưng có cái chung nh ất là nóc
tháp gồm nhiều tầng xếp nếp, có hình trang trí của tầng d ưới, nh ưng nh ỏ
dần đi và tụ lại một đỉnh nhọn hướng lên cao. Trên tháp có hình trang trí,
thường là cành lá, sâu đo,… được chạm khắc tinh vi. Tháp th ực ra cũng là đ ền,
bên trong chỉ thờ một vị thần, khi tiến hành lễ nghi thì ở ngoài đền. Tuy chịu
ảnh hưởng mạnh từ văn hóa Ấn Độ, nhưng khi vào Champa những ảnh
hưởng đó phần nào được gia giảm đi. Có lẽ th ấy rõ đ ều này trong các t ượng
thờ và đền. Nói về tượng, ở Champa không quá cường điệu hình th ể mà cân
đối, hài hòa hơn nhiều. Về đền tháp, nhỏ nhắn, có nhiều nếp xếp tinh vi h ơn
thay cho việc làm tầng bệ như đền ở Ấn Độ. Trên đã phân tích nh ững ảnh

hưởng của văn hóa Ấn Độ đến Champa, vậy cái tồn tại tr ước kia, cái bản địa
9


ở đây là gì, giữa hai cái bản địa và cái bên ngoài có lẽ nằm trong vòng b ồi đ ắp
hoàn thiện cho nhau. Chẳng hạn người Chăm tr ước khi tiếp xúc ch ữ Ph ạn đã
có tiếng nói riêng cho mình, nhưng nhờ vào s ự vay m ượn đó h ọ m ới có th ể
sáng tạo ra chữ Chăm cổ. Kể cả trong nhạc cụ và lễ nhạc m ặt dù là theo l ễ
nhạc cung đình Ấn Độ nhưng có sự sáng tạo. Tuy là theo mô típ nh ưng có s ự
chọn lọc phù hợp với thực tiễn cuộc sống cộng đồng. Thật sự cái mà Ấn Đ ộ
ảnh hưởng về tôn giáo chỉ là cái vỏ bên ngoài, cái bên trong c ủa ng ười dân
Champa vẫn còn đó, là phần ruột bên trong, tín ngưỡng phồn th ực th ờ Linga
– Yoni vẫn song song với Ấn giáo, hay trong tang l ễ vẫn gi ữ cách chôn c ất
bằng chum, vò, hỏa táng. Đó là những yếu tố lắng đọng lại, làm nên văn hóa
Chăm trước sự ồ ạt của văn hóa Ấn Độ.
IV. DI SẢN VĂN HÓA CHĂM NGÀY NAY
Ngày nay, rất nhiều tháp cổ của người Chăm vẫn còn tồn tại ở miền
Trung Việt Nam. Một điển hình về kiến trúc là thánh đ ịa Mỹ S ơn g ần H ội An.
Thánh địa Mỹ Sơn bị bom Mỹ hủy hoại nặng nề trong chiến tranh nh ưng đã
được phục chế lại sau chiến tranh từ thập niên 1980. Năm 1999, thánh đ ịa
Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là di sản văn hóa th ế giới.
Ngoài ra còn có các di tích tháp Chăm ở miền Trung v ẫn đ ược c ộng
đồng người Chăm hiện nay sử dụng để thờ tự như: Tháp Po Nagar (Khánh
Hòa) Tháp Po Klong Garai (Ninh Thuận) Tháp Po Rome (Ninh Thuận) Tháp Po
Sha Inư (Bình Thuận). Các hiện vật điêu khắc Chăm được lưu giữ ở nhiều
bảo tàng trong nước và thế giới.
Ngoài ra những phong tục, tập quán, tôn giáo và nhiều yếu t ố kinh t ế
vẫn được lưu giữ, bảo tồn và phát triển như: Nghề dệt, làm gốm, Lễ hội Katê
… Năm 2017, nghệ thuật làm gốm truyền thống làng Bàu Trúc (Ninh Thu ận)
được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia…


10


11



×