Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Phép đo niệu dòng - lý thuyết, thực hành & phân loại niệu dòng đồ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.86 KB, 10 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

Nghiên cứu Y học

28 PHÉP ĐO NIỆU DÒNG - LÝ THUYẾT, THỰC HÀNH & PHÂN LOẠI
NIỆU DÒNG ĐỒ
Nguyễn Văn Ân*

TÓM TẮT
Phép đo niệu dòng là phương pháp duy nhất không xâm nhập trong số các khảo sát niệu động học. Cách
đo khá đơn giản, kết quả đo khá hữu ích cho nhận đònh lâm sàng, nên phép đo niệu dòng rất thường được chỉ
đònh nhằm đánh giá tình trạng bế tắc đường tiểu dưới. Từ tháng 9/2002, phòng Chẩn đoán Niệu động học
được thành lập bao gồm các máy đo niệu dòng. Bài viết này trình bày một số các kết quả điển hình của niệu
dòng đồ mà chúng tôi đã thực hiện trong 1 năm qua, được sắp xếp phân loại để dễ theo dõi và đánh giá.

SUMMARY
UROFLOWMETRY – THEORY, PRACTICE AND CLASSIFICATION
Nguyen Van An * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 8 * Supplement of No 1 * 2004: 187 -

– Uroflowmetry is the only invasive one among urodynamic studies. Method of the measurement is
simple and results of the study are useful for clinical assessment, therefore uroflowmetry is usually
demanded to evaluate the possibility of lower urinary obstruction. Since September 2002, the
Urodynamic Studies Unit has been established which comprises uroflowmeters. We present the
typical results that we have practised for one year. The uroflows are classified to be followed and
evaluated easily.
UROFLOWMETRY – THEORY, PRACTICE AND CLASSIFICATION

GIỚI THIỆU:
Nghiên cứu niệu động học (NĐH) (urodynamic
studies) có vai trò quan trọng trong việc đánh giá các
bệnh nhân bò rối loạn chức năng đi tiểu như tiểu khó,


tiểu không kiểm soát, những rối loạn đi tiểu do
nguyên nhân thần kinh ...
Niệu dòng (urinary flow) là sản phẩm của sự co
bóp cơ chóp bàng quang chống lại kháng lực dòng ra
của đường tiểu dưới. Sự bất thường của tốc độ niệu
dòng có thể phản ánh nhữngï rối loạn chức năng của
cơ chóp hoặc của dòng ra.
Phép đo niệu dòng (uroflowmetry) là biện pháp
đánh giá sự biến thiên của tốc độ dòng tiểu theo thời
gian, được tính bằng ml/giây. Đây là phép đo thường
được chỉ đònh nhiều nhất trong số những phép đo
niệu động học, một mặt vì phương pháp thực hiện

khá đơn giản, mặt khác vì đây là phép đo duy nhất
không xâm nhập (invasive) trong số các phép đo
NĐH.
Niệu dòng kế (uroflowmeters) là thiết bò dùng để
thực hiện phép đo niệu dòng. Niệu dòng kế đầu tiên
được dùng ở cuối thế kỷ 19 áp dụng nguyên tắc thay
thế khí (air replacement), nay không còn dùng nữa.
Trước khi ra đời những máy đo hiện đại, người ta
cũng đo bằng đồng hồ bấm giây với cốc hứng: tỉ số
giữa lượng tiểu hứng được với thời gian đi tiểu chính
là lưu lượng tiểu trung bình. Hiện nay các máy đo
niệu dòng được chế tạo theo ba phương pháp thông
dụng: (a) phương pháp đo trọng lượng (gravimetric
method), (b) phương pháp đóa quay (rotating disk
method) và (c) phương pháp que thăm dò điện tử
(electronic dipstick method) . Hiện nay, bệnh viện
Bình Dân có 2 máy đo, 1 theo phương pháp đo trọng


* Bệnh viện Bình dân - Tp. HCM

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

187


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

lượng và 1 theo phương pháp đóa quay.

chắc chắn là có bế tắc đường tiểu dưới.

CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA NIỆU DÒNG ĐỒ

+ Buzelin (1993) [1] và Klarskov & Mortensen
(1999) [2] cùng cho rằng, giảm lưu lượng tiểu theo
tuổi tác là hiện tượng tự nhiên do suy yếu sức co bóp
của cơ chỏm bàng quang và có thể kết hợp với sự phì
đại tuyến tiền liệt ở người đàn ông lớn tuổi. Hậu quả
là sau 40 tuổi, Q max giảm đi 2 ml/s sau mỗi 10 năm
ở nam giới. Đối với phụ nữ, Q max không phụ thuộc
tuổi tác (Jorgensen & Jensen) [4].

Sau khi thực hiện phép đo niệu dòng, máy đo sẽ
ghi lại một biểu đồ. Dưới đây là hình ảnh một niệu
dòng đồ chuẩn. Sự đánh giá niệu dòng đồ sẽ dựa trên

các chỉ số: lượng tiểu, lưu lượng tiểu cực đại, thời gian
đi tiểu, thời gian đạt đến lưu lượng tiểu cực đại, lưu
lượng tiểu trung bình và dạng biểu đồ (xem hình 1).
Lưu lượng tiểu
Lưu lượng tiểu
cực đại
Lượng tiểu

Thời gian dòng tiểu

Hình 1 – Niệu dòng đồ chuẩn – theo Klarskov &
Mortensen [7]

Lượng tiểu (voided volume)
Để diễn dòch cho chính xác, cần phải có một
lượng tiểu không quá ít (không dưới 150 ml). Ngược
lại, nếu bàng quang quá căng chướng quá mức (trên
550 ml) cũng sẽ làm giảm sức co bóp của detrusor và
ảnh hưởng đến kết quả niệu dòng đồ. Khoảng cho
phép để đánh giá niệu dòng đồ là 150 – 550 ml, mà lý
tưởng nhất là trong khoảng 200 – 400 ml.
Lưu lượng tiểu cực đại - Q max
(maximum flow rate)
Là chỉ số quan trọng nhất để đánh giá niệu dòng.
+ Theo Buzelin (1993) [1] thì nếu trò số Q max >
15 ml/s có thể xem là trong giới hạn bình thường. Đối
với Klarskov & Mortensen (1999) [2] thì giới hạn dưới
của các giá trò Q max bình thường là 15 ml/s đối với
nam giới và 20 ml/s đối với nữ giới. Còn Tanagho
(2000) [3] thì cho rằng Q max bình thường ở nam giới

từ 20 – 25 ml/s, ở nữ giới từ 25 – 30 ml/s. Nhưng
nhìn chung thì > 20 ml/s có thể xem là bình thường,
< 15 ml/s thì nghi ngờ có bế tắc, còn < 10 ml/s thì

188

Dạng biểu đồ niệu dòng (flow curve
pattern)
Bình thường, đường biểu diễn phải liên tục và có
hình ảnh cái chuông úp ngược không cân đối (không
cân đối là do thời gian đạt đến Q max thường ngắn
hơn thời gian của phần còn lại của thời gian đi tiểu).
Sự bất thường của dạng biểu đồ có thể đem lại
những chỉ dẫn về nguyên nhân của tình trạng tiểu
khó. Chẳng hạn theo Buzelin (1993)[1] thì đường biểu
diễn bằng phẳng (plateau) chỉ ra tình trạng bế tắc
Lưu lượng tiểu
thường trực, đường biểu diễn nhiều pha
Lượ
g tiểu
cưc nđai
(polyphasique) khiến nghó đến lưu lượng tiểu chủ yếu
do sức rặn bụng, đường biểu diễn đứt khúc (saccadé)
diễn dòch tình trạng bất đồng vận bàng quang -cơ
thắt. Dạng thức của đường biểu diễn có khả năng lập
lại trong 85% số bệnh nhân. Vì thế, khi thấy có bất
thường về dạng biểu đồ niệu dòng thì cần thực hiện
đo lại để kiểm tra (theo Klarskov & Mortensen)[2].
Ba chỉ số trên là quan trọng nhất đối với việc
đánh giá niệu dòng đồ. Các chỉ số sau ít quan trọng

hơn :
Thời gian chờ đi tiểu (delay time)
Là thời gian từ lúc rặn tiểu cho đến khi bắt đầu có
dòng tiểu thực sự. Bình thường thời gian chờ tiểu ít
hơn 10 giây. Trong trưòng hợp có bế tắc dưới bàng
quang thì thời gian này lâu hơn. Tuy nhiên hiện nay
nhiều tác giả không đề cập đến chỉ số này, vì trong
rất nhiều trường hợp sự kéo dài này là do sự ức chế
tâm lý chứ không phải do bế tắc.
Thời gian đạt lưu lượng cực đại (time
to maximal flow)

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
Dòng tiểu tốt sẽ biểu hiện trên đường biểu diễn
bởi sự nhanh chóng gia tăng lưu lượng tiểu để đạt tới
cực đại. Theo Buzelin thì điều này xảy ra trong những
giây đầu của niệu dòng đo; còn theo Klarskov &
Mortensen thì thời gian đạt lưu lượng cực đại không
nên vượt quá 1/3 thời gian dòng tiểu. Thời gian này
kéo dài chỉ ra rằng có sự chậm trễ mở cổ bàng
quang: do cổ bàng quang xơ chai, hoặc do suy yếu cơ
chóp bàng quang, hoặc do nguyên nhân tâm lý.
Thời gian dòng tiểu (flow time) và thời
gian đi tiểu (voiding time)
Trong những trường hợp dòng tiểu ngắt quãng
thì hai trò số này không giống nhau (xem hình 2). Sự
hiện diện của những giọt tiểu cuối dòng có thể chỉ ra

tình trạng bế tắc dưới bàng quang, nhưng cũng được
thấy trong những trường hợp không có bệnh lý gì cả,
ví dụ do sự co bóp của cơ hành hang hay do sự đè ép
bằng tay của bệnh nhân.
Lưu lượng tiểu trung bình – Qave
(average flow rate):

Nghiên cứu Y học

Lưu lượng tiểu

Thời gian đi tiểu

Hình 2 – Phân biệt thời gian đi tiểu và thời gian dòng
tiểu (theo Klarskov & Mortensen [2])

CÁC DẠNG NIỆU DÒNG ĐỒ THƯỜNG GẶP
Nhóm 1: niệu dòng đồ bình thường:
IA. Niệu dòng đồ hoàn toàn bình thường:
Trường hợp 1:

Bệnh nhân Lê thò T., nữ, 1980
Lâm sàng: bò sỏi thận (P), không bi rối loạn đi
tiểu. Được mời làm niệu dòng đồ ngày 22/10/2002,
dùng máy đo Albyn theo nguyên lý đo trọng lượng.

Là tỉ số giữa lượng tiểu và thời gian dòng tiểu.
Qmax là chỉ số quan trọng nhất, nhưng trong
nhiều trường hợp đường biểu diễn có Q max đạt giá
trò bình thường nhưng khi phân tích kỹ thì lộ ra

những vấn đề: ví dụ thời gian đi tiểu kéo dài với Q ave
thấp, đường biểu diễn dợn sóng (fluctuation) hoặc
thậm chí ngắt quãng (intermittent) chứng tỏ có tăng
hoạt cơ thắt làm tăng kháng lực dòng ra, hoặc thời
gian đạt Q max kéo dài chứng tỏ có sự chậm trễ trong
dãn cơ thắt hay mở rộng cổ bàng quang khi mà đã có
sự co bóp của cơ chỏm.
Các chỉ số: lượng tiểu, Q max, thời gian đạt Q
max, thời gian đi tiểu và thời gian dòng tiểuQ ave
thường sẽ được máy đo ghi chú bên cạnh biểu đồ
niệu dòng.

Voided volume = 234 ml

Qmax = 37 ml/s

Time to max flow = 4,4 ml

Flow time = 10,2 s

Qave = 24,3 ml/s

Nhận xét: Lượng tiểu khá tốt, đạt 234 ml. Đường
biểu diễn hình chuông liên tục lệch trái, giá trò Q max
rất tốt 37 ml/giây, thời gian dòng tiểu nhanh chóng
10,2 giây.
Kết luận: Niệu dòng đồ hoàn toàn bình thường.
Trường hợp 2

Bệnh nhân Nguyễn Văn Th., nam, 1962.


Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

189


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

Lâm sàng: Sau cắt lạnh nội soi để điều trò hẹp
niệu đạo trước. Đo ngày 17/03/2003 bằng máy đo
Albyn.

Nhận xét: Lượng tiểu rất tốt 337 ml. Đường biểu
diễn có hình chuông úp ngược và liên tục, các trò số
Qmax và thời gian đi tiểu rất tốt. Tuy nhiên thời gian
đạt đến Qmax bò kéo dài (13 giây) và chiếm tỉ lệ >
1/2 thời gian dòng tiểu (23 giây). Ngoài ra đường biểu
diễn có một khoảng ngập ngừng trước khi đạt đến
Qmax.
Kết luận: có thể có tăng kháng lực nhẹ của dòng
ra (chẳng hạn cổ bàng quang hơi chậm mở lúc cơ
chóp bàng quang co bóp). Tuy nhiên, bệnh nhân vẫn
duy trì dòng tiểu hầu như bình thường.

Voided volume = 345 ml

Trường hợp 2:


Q max = 35 ml/s

Bệnh nhân Đồng thò L., nữ, 37 tuổi

Volume at max flow = 178 ml Time to max flow = 6s
Flow time = 15,7 s

Lâm sàng: tiểu dầm ban đêm khoảng 1 năm nay.
Đo bằng máy Medtronic ngày 25/08/2003.

Q ave

Nhận xét: Lượng tiểu ~ 180 ml là chấp nhận
được. Đường biểu diễn hình chuông liên tục hơi lệch
trái, giá trò Q max rất tốt đạt 35 ml/giây, thời gian
dòng tiểu nhanh chóng 15,7 giây.
Kết luận: Niệu dòng đồ bình thường. Như thế xẻ
lạnh niệu đạo nhằm điều trò hẹp niệu đạo đã đem lại
kết quả rất tốt cho trường hợp này.
IB. Niệu dòng đồ gần như bình thường:
Trường hợp 1

-

= 23,5 ml/s

Voided volume = 700 ml

Qmax = 30 ml/s


Time to max flow = 16s

Flow time = 48s

Voiding time = 59s

Bệnh nhân Nguyễn văn B., nam, 1968
Lâm sàng: Than phiền tiểu nhiều lần, mắc tiểu
thường xuyên từ hơn 1 tháng . Đo ngày 22/8/2003 với
máy đo Medtronic theo nguyên lý đóa quay.

Nhận xét: Bệnh nhân nhòn tiểu lâu nên bàng
quang quá căng. Nhưng Qmax vẫn đạt giá trò rất tốt là
30 ml/giây. Trong những trường hợp khác, sự căng
chướng quá mức của bàng quang có thể ảnh hưởng
sức co bóp của detrusor và làm giảm Qmax. Trong
trường hợp này, thời gian dòng tiểu 48 giây và thời
- Voided volume = 337 ml
gian đi tiểu 59 giây là kéo dài, nhưng là hậu quả tất
- Qmax = 23,8 ml/s
yếu của lượng tiểu quá nhiều, đến 700 ml.

-

Voiding time = 24 s

Kết -luậnFlow
: niệu time
dòng =
đồ23

hầus như bình thường.

Time
Trườn-g hợ
p 3 to max flow = 13 s

Qnave
14,9
Bện-h nhâ
Tôn=Thấ
t Q.,ml/s
nam, 1933

Lâm sàng: bệnh nhân than đi tiểu khó khoảng 1
tháng nay. Siêu âm phát hiện phì đại tiền liệt tuyến.
Được đo niệu dòng ngày 18/07/2003 bằng máy đo

190

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

Nghiên cứu Y học

Albyn.

Voided volume = 233 ml


Qmax = 20 ml/s

Time to max flow = 7,1 s

Flow time = 18,4 s

Qave = 11,4 s

Nhận xét: Lượng tiểu khá tốt 233 ml. Qmax vừa
đạt giá trò bình thường 20 ml/giây. Thời gian dòng
tiểu tốt 18,4 giây. Thời gian đạt Qmax cũng bình
thường. Tuy nhiên đường biểu diễn ngập ngừng 3
đợt mới đạt đến cực đại.
Kết luận: Ta có thể thấy ảnh hưởng của phì đại
tiền liệt tuyến làm cổ bàng quang chậm nở khi cơ
chóp bàng quang co bóp, thể hiện trên biểu đồ bởi sự
ngập ngừng trước khi đạt giá trò cực đại của dòng
tiểu, mặc dù vẫn duy trì dòng tiểu gần như bình
thường. Biểu đồ này là giới hạn giữa mức bình
thường và mức bế tắc dòng ra.
Nhóm 2 – Niệu dòng đồ biểu hiện có
bế tắc đường tiểu dưới
Bế tắc độ 1.

Qmax giảm vừa phải nhưng không dưới 12 ml/s,
đường biểu diễn thường vẫn giữ được sự liên tục:
* Trường hợp 1: bệnh nhân Trần Quang T.,
nam, 1927

- Voided volume = 241 ml


- Q max = 17 ml/s

- Volume at max flow = 144 ml
- Time to max flow = 11,2 s - Flow time = 21,2 s
- Q ave = 9,9 ml/s

Ghi chú: Lượng tiểu 240 ml là chấp nhận được.
Qmax đạt 17 ml/giây là giảm nhẹ (tuy nhiên xét theo
theo tuổi thì lại trong giới hạn bình thường). Ở đây
nên lưu ý sự chậm trễ để đạt tới Q max, bởi thời gian
đạt Q max (11,2 giây) bằng quá nửa thời gian dòng
tiểu (21,2 giây) .
Kết luận: Hình ảnh niệu dòng đồ khiến nghó đến
tình trạng tiểu khó là do cổ bàng quang mở chậm khi
cơ chóp bàng quang co bóp (ví dụ: có xơ chai cổ bàng
quang). Cần phân biệt với giảm sức co bóp cơ chóp
bàng quang. Dù sao trường hợp này vẫn duy trì dòng
tiểu khá tốt.
* Trường hợp 2: bệnh nhân Nguyễn Thành D. ,
nam, 1958
Lâm sàng: tiểu khó chưa rõ nguyên nhân. Đo
niệu dòng ngày 06/03/2003 bằng máy Albyn.

Lâm sàng: tiểu khó chưa rõ nguyên nhân. Đo
niệu dòng ngày 19/02/2003 bằng máy Albyn.

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

191



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

Ghi chú: Lượng tiểu 445 ml là rất tốt. Q max giảm hơi
nhiều hơn trường hợp trên: còn 13 ml/giây. Ngoài ra
thời gian đạt Q max tương đối chậm (16,6 giây, mặc
dù chỉ hơi vượt quá 1/3 thời gian dòng tiểu) và thời
gian đi tiểu kéo dài (45,8 giây)

Kết luận: Niệu dòng đồ phù hợp với tình trạng
tiểu khó trên lâm sàng. Nghó nhiều đến tình trạng
tăng kháng lực dòng ra. Cần phân biệt với giảm sức
co bóp cơ chóp bàng quang.
Bế tắc độ 2.

Qmax giảm nặng dưới 12ml/giây nhưng vẫn trên
6 ml/giây, đường biểu diễn nhấp nhô hoặc có thể bò
ngắt quãng:
* Trường hợp 1: bệnh nhân Nguyễn thanh H.,
nam, 1962
Lâm sàng: tiểu khó chưa rõ nguyên nhân. Đo
niệu dòng ngày 24/03/2003 bằng máy đo Albyn.

Ghi chú: Vẫn duy trì được lượng tiểu tốt, nhưng Q
max giảm đáng kể còn 10 ml/giây. Thời gian đi tiểu
kéo dài gấp đôi bình thường, nhấp nhô vàø ngắt quãng
cuối dòng.

Kết luận: Phù hợp với tình trạng tiểu khó trên
lâm sàng. Nghó đến tình trạng tăng kháng lực dòng
ra. Bệnh nhân được đề nghò soi bàng quang.
Soi niệu đạo – bàng quang:
Xác nhận tình trạng hẹp cổ bàng quang

-

Voided volume = 445 ml
Q max = 13 ml/s
Volume at max flow = 148 ml
Time to max flow = 16,6 s
Flow time = 45,8 s
Q ave = 8,5 ml/s

* Trường hợp 2: bệnh nhân Lê Cao Th., nam,
1952
Lâm sàng: Tiểu khó chưa rõ nguyên nhân từ hơn
2 tháng nay. Được đo niệu dòng ngày 15/07/2003
bằng máy đo Albyn.
Ghi chú: Lượng tiểu rất tốt ~ 300 ml. Tuy nhiên
Q max giảm nhiều = 7 ml/giây và thời gian đi tiểu
khá dài ~ 50 giây.
Kết luận: Niệu dòng đồ điển hình của tình trạng
tăng kháng lực dòng ra (outlet resistance). Đề nghò
soi bàng quang tìm nguyên nhân.

- Voided volume = 399 ml
- Q max = 10 ml/s
Voided volume = 302ml

Q max = 7 ml/s
- Volume at max flow = 130 ml
Volume -at max
flowto=max
36 ml
Time
flow = 12,9 s
s time = 50,7 s
Time to -maxFlow
flow =time
4,3 s= 53,6Flow
ml/s Xác đònh có phì đại
Soi -niệuQđạave
o –=
bà4,9
ng quang:
tiền liệt tuyến ở cả 3 thùy, mặc dù bệnh nhân còn
khá trẻ (51 tuổi). Đây chính là nguyên nhân gây cản
trở dòng tiểu.
Bế tắc độ 3.

Qmax giảm rất nặng, dưới 6 ml/giây, thường thì
đường biểu diễn bò ngắt quãng:
* Trường hợp 1: bệnh nhân Đào văn Đ. , nam,
1932
Lâm sàng: tiểu khó trên bệnh nhân bò u xơ tiền
liệt tuyến. Đo niệu dòng ngày 30/06/2003 bằng máy

192


Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

Nghiên cứu Y học

Albyn.

-

Voided volume = 176ml
Q max = 5 ml/s
Volume at max flow = 51 ml
Time to max flow = 8,2 s
Flow time = 30,8 s

Ghi chú: Lượng tiểu ~ 176 ml là chấp nhận được. Tuy
nhiên Qmax = 5 ml/giây là giảm rất nặng. Đường
biểu diễn nhấp nhô dơn sóng và ngắt quãng nhiều
đợt.

NHÓM III- Đường biểu diễn tăng vọt
và giảm nhanh từng đợt thể hiện sức
rặn bụng, giá trò qmax không phản
ánh trung thực

Kết luận: Đây là tình trạng tiểu rất khó. Hình ảnh
niệu dòng đồ điển hình của một trường hợp bế tắc
dòng ra (outflow obstruction).


Đối với những niệu dòng đồ thuộc nhóm này,
cần xem kỹ để phân biệt giá trò Qmax thực nhằm
đánh giá trung thực hơn về lưu lượng dòng tiểu.
Trong những trường hợp khó nhận đònh như vậy,
chúng ta nên phối hợp với phép đo áp lực bàng quang
để khảo sát về sức co bóp của cơ chóp bàng quang.

* Trường hợp 2: bệnh nhân Nguyễn thò L., Nữ,
1973
Lâm sàng: tiểu khó, dòng tiểu yếu từ hơn 1 năm
nay. Khám hạ vò thấy có cầu bàng quang. Đo niệu
dòng ngày 11/07/2003 bằng máy Albyn.

* Trường hợp 1: bệnh nhân Trần Trọng Q. ,
nam, 1937
Lâm sàng: tiểu khó trên bệnh nhân có u xơ tiền
liệt tuyến. Thự-c hiệ
n phépvolume
đo niệ=u 162
dònml
g ngày
Voided
21/02/2003 bằng- máQ
y đo
Albyn.
max
= 2 ml/s

-


Time to max flow = 21.6 s
Flow time = 18 s
Voiding time = 70 s

Nhận xét: Lượng tiểu 162 ml là chấp nhận được.
Qmax = 2 ml/giây là giảm nặng. Thời gian đi tiểu rất
dài, đến 70 giây. Đường biểu diễn ngắt quãng nhiều
đợt.
Kết luận: Lưu lượng tiểu giảm rất nặng, phù hợp
với tình trạng tiểu khó trên lâm sàng. Tình trạng bế
tắc đường tiểu dưới đã rõ. Cần khảo sát thêm áp lực
đồ bàng quang để xem khả năng co bóp của cơ chóp
bàng quang.

Voided volume = 228ml

Q max = 17 ml/s

Volume at max flow = 189 ml
Time to max flow = 66.1 s

Flow time = 26.4 s

Q ave = 4.8 ml/s
Ghi chú: Lượng tiểu ~ 230 ml là khá. Giá trò Qmax ~
17 ml/s có vẻ như gần đạt mức bình thường. Xem kỹ
Q ave ~ 4,8 ml/s là rất thấp, chứng tỏ có bế tắc đường
tiểu dưới. Quan sát kỹ, chúng ta thấy dạng biểu đồ
này hầu như không thể hiện sự co bóp của cơ chóp


Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

193


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

bàng quang, ngược lại đường biểu diễn ngắt quãng
nhiều đợt hình chóp nhọn như trên là điển hình do
sức rặn bụng.

Kết luận: Tình trạng tiểu khó là rõ ràng, nhưng
không thấy thể hiện sức co bóp của cơ chóp bàng
quang trên biểu đồ. Nên phân biệt với suy giảm co
bóp cơ chóp bàng quang.
* Trường hợp 2: bệnh nhân Nguyễn Quốc H.,
nam, 1950
Biểu hiện lâm sàng: tiểu khó. Thực hiện phép đo
niệu dòng ngày 14/012003.
Ghi chú: Lượng tiểu ~ 178 ml là chấp nhận được.
Q max do máy đọc là rất cao (37 ml/giây) nhưng dạng
biểu đồ cho thấy đây không phải là Qmax thực, mà
chủ yếu do sức rặn bụng. Các trò số Qmax thực ~ 9
ml/giây, Q ave ~ 6,5 ml/giây mới biểu hiện trung thực
hơn về lưu lượng tiểu. Ngoài ra đường biểu diễn bò
ngắt quãng nhiều đợt chứng tỏ có tăng kháng lực
dòng ra, hoặc có thể có bất đồng vận bàng quang –

cơ thắt.

Kết luận: Xét trên Q max thực và sự ngắt quãng
của biểu đồ: phù hợp với tình trạng tiểu khó trên lâm
sàng. Tiểu khó được nghó là do tăng kháng lực dòng
ra. Nên chẩn đoán phân biệt với tình trạng suy cơ
chóp bàng quang.

BÀN LUẬN
Giới hạn của phép đo niệu dòng
Lưu lượng tiểu nói chung mà đặc biệt là lưu
lượng tiểu cực đại chòu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố
bao gồm lượng tiểu trong bàng quang, sức co bóp của
cơ chóp bàng quang, hoạt động của cơ thắt niệu đạo,
sự toàn vẹn của ống niệu đạo, trạng thái tâm lý khi đi

194

tiểu, tuổi tác, phái tính và sức rặn bụng. Những minh
họa thực hành ở mục 3 cũng cho thấy những sai lầm
có thể mắc phải khi đọc biểu đồ niệu dòng do tác
động của trạng thái tâm lý, do sức rặn bụng ... Chính
vì ảnh hưởng của quá nhiều yếu tố như vậy mà giá trò
của phép đo niệu dòng có những giới hạn của nó.
Theo Tanagho (2000) [3], lưu lượng tiểu có thể
bình thường mà không có bất kỳ sự co bóp nào của cơ
chóp bàng quang , nếu như sự dãn cơ thắt niệu đạo
được hỗ trợ bởi sức rặn bụng. Thậm chí nếu không hề
có sự co bóp cơ chóp, cũng không hề có sức rặn bụng,
nhưng nếu sức đề kháng dòng ra yếu và suy cơ thắt

niệu đạo thì vẫn có thể có lưu lượng tiểu bình thường.
Thêm nữa, hẹp niệu đạo có thể không biểu hiện triệu
chứng bế tắc cho đến khi đường kính niệu đạo < 11F
(Chapple & MacDiarmid[5]). Sau cùng, cho dù có tăng
hoạt cơ thắt niệu đạo, vẫn có thể đạt được lưu lượng
tiểu bình thường nếu như cơ chóp bàng quang cũng
tăng co bóp để khắc phục tình trạng tăng kháng lực
dòng ra.
Chancellor (1991)[6] không thấy sự khác biệt niệu
dòng đồ giữa niệu dòng đồ của những trường hợp
suy giảm co bóp cơ chóp bàng quang với những
trường hợp bế tắc dòng ra của bàng quang.
Như vậy, chỉ riêng phép đo niệu dòng không thể
cung cấp chính xác là rối loạn chức năng đi tiểu
thuộc loại nào (ví dụ có hay không bế tắc dòng ra của
bàng quang hoặc giảm co bóp cơ chóp bàng quang)
(Abrams & Griffith, 1979[7]). Chỉ riêng niệu dòng đồ
không thể cung cấp nhận đònh thấu suốt về cơ chế
chính xác -xảy ra
rối loạn
đi tiểu (Tanagho,
Voided
volume
= 178 ml2000) [3].

maxp=đo
37 niệ
ml/su dòng
Lợi ích -củaQphé
-


Volume at max flow = 102 ml

Mặc dù có những giới hạn như đã nêu trên,
- Time to max flow = 15 s
nhưng điều không thể phủ nhận là hiện nay các
- Flow time = 24,9 s
trung tâm niệu khoa trên khắp thế giới vẫn đang sử
- Q ave = 6,5 ml/s
dụng phép đo niệu dòng khi khảo sát những tình
trạng rối loạn chức năng đường tiểu dưới, chứng tỏ
phép đo này vẫn còn hữu dụng. Chapple &
McDiarmid cho rằng: “niệu dòng đồ cung cấp những
thông tin quan trọng và hữu ích về việc có bế tắc
dòng ra hay không và có thể chỉ ra bệnh căn khả dó”.

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

Nghiên cứu Y học

Còøn Boone & Kim (1998)[8] nhấn mạnh là: phép đo
niệu dòng cực kỳ hữu ích nếu phối hợp với các phép
đo niệu động học khác.

Có nhiều cách phân chia các dạng thức của niệu
dòng đồ tùy theo tác giả:


Trò số Q max bình thường chưa hẳn là không có
bế tắc đường tiểu dưới, nhưng khi Q max giảm < 15
ml/s thì nên nghi ngờ và nếu < 10 - 12 ml/s (tùy tác
giả) thì hầu như chắc chắn có bế tắc:

+ Loại 1 - biểu đồ bình thường - có hình
chuông úp ngược, liên tục, không cân xứng nhẹ hoặc
vừa phải.

- Tác giả McLoughlin[9] khảo sát các bệnh nhân
được bóc bướu tiền liệt tuyến dựa trên triệu chứng và
Q max < 12 ml/s thì thấy rằng: 95% bệnh nhân có bế
tắc.
- Theo Abrams & Griffith[7] , 88% bệnh nhân có
bế tắc đường tiểu dưới khi Q max < 10 ml/s.
Một khi đã xác đònh có bế tắc đường tiểu dưới,
dạng biểu đồ niệu dòng có thể giúp chúng ta xét đoán
vò trí bế tắc, ví dụ cổ bàng quang chậm mở khi cơ
chóp bàng quang co bóp, tăng kháng lực dưới bàng
quang, bất đồng vận cơ chóp - cơ thắt, hoặc dòng tiểu
phát sinh chủ yếu do sức rặn bụng...
Vấn đề thường gặp khi đo niệu dòng đồ là cần
chẩn đoán phân biệt giữa bế tắc dòng ra của bàng
quang hay suy giảm sức co bóp của cơ chóp bàng
quang. Trong những trường hợp cần thiết phải xác
đònh chức năng cơ chóp thì nên kết hợp với phép đo
áp lực bàng quang. Tuy nhiên, khi một bệnh nhân
than phiền dòng tiểu bò suy yếu nhưng niệu dòng đồ
hoàn toàn bình thường, có thể không cần đo các
phép đo niệu động học khác nữa nếu bệnh nhân

không có các triệu chứng khác của rối loạn đi tiểu
(Boone & Kim[8]). Theo Chapple & MacDiarmid[5], sự
kết hợp niệu dòng đồ và đo lượng tiểu tồn lưu là một
khảo sát tầm soát rất tốt đối với tình trạng bế tắc
dòng ra trên những bệnh nhân bò u xơ tiền liệt tuyến.
Sau cùng, nếu bệnh nhân đã được xác đònh là có bế
tắc dòng ra, hoặc giảm co bóp cơ chóp, hoặc cả hai
(bằng các phép đo niệu dòng và áp lực bàng quang),
thì niệu dòng đồ có thể được sử dụng để theo dõi tiến
triển bệnh và đáp ứng với điều trò (Boone & Kim).
Về phân loại niệu dòng đồ
Của các tác giả khác:

* Jorgensen & Jensen (1996) [4] chia 5 loại:

+ Loại 2 - biểu đồ tiền liệt tuyến – liên tục, bất
đối xứng rõ rệt, đường biểu diễn kéo dài và bằng
phẳng từ Q max cho đến cuối dòng tiểu.
+ Loại 3 – biểu đồ dợn sóng – liên tục, dao động
lên xuống nhiều đợt nhưng không xuống tới zero
trước khi chấm dứt dòng tiểu.
+ Loại 4 – biểu đồ ngắt quãng – có một hay
nhiều đợt đường biểu diễn ở mức zero (không kể
những giọt tiểu cuối dòng).
+ Loại 5 – biểu đồ bằng phẳng – liên tục, bằng
phẳng, và phần lớn lượng tiểu được phóng thích với Q
max hằng đònh.
* Boone & Kim (1998) [8] chia làm 4 nhóm:
nhóm bình thường, nhóm gián đoạn, nhóm bế tắc và
nhóm dòng tiểu cực mạnh (superflow).

* Chapple & MacDiarmid (2000) [5] chia làm 4
nhóm: nhóm bình thường, nhóm tiểu nhanh (fast
bladder), nhóm tiểu chậm (prolonged flow), nhóm
dòng tiểu gián đoạn (intermittent flow).
Suy nghó của chúng tôi

* Những tác giả nêu trên có rất nhiều kinh
nghiệm trong khảo sát và đánh giá niệu dòng đồ. Tuy
nhiên trong thực tế đo niệu dòng, chúng tôi nhận
thấy có nhiều lúc không áp dụng được một cách suôn
sẻ.
- Theo loại 2 của Jorgensen & Jensen (nhóm biểu
đồ của u xơ tiền liệt tuyến): chúng tôi thấy nhiều
trường hợp tiểu khó do u xơ tiền liệt tuyến không có
dạng biểu đồ này (xem trường hợp 1 của nhóm 2C),
ngược lại có những trường hợp xơ chai cổ bàng quang
lại có biểu đồ giống như mô tả của hai tác giả trên
(xem trường hợp 1 của nhóm 2B).
- Tanagho[3] cũng mô tả những bệnh nhân có

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004

195


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004

dòng tiểu cực mạnh (supervoider) nhưng xem là

bình thường và ít có ý nghóa chẩn đoán, chứ không
xếp thành nhóm riêng biệt như Boone & Kim.
- Nhóm biểu đồ gián đoạn của Boone & Kim
dường như bao gồm cả 2 loại 3 và 4 của Jorgensen &
Jensen.
- Các phân loại trên đều nặng về mô tả dạng biểu
đồ mà không chú ý đến trò số quan trọng nhất của
niệu dòng đồ là lưu lượng tiểu cực đại Qmax, là trò số
thể hiện mức độ bế tắc đường tiểu dưới.
* Chúng tôi muốn thể hiện trò số Qmax trong
cách đánh giá niệu dòng, bên cạnh việc miêu tả dạng
biểu đồ.
- Như đã trình bày trong mục 4.1, phép đo niệu
dòng có những giới hạn của nó. Tuy nhiên tất cả các
tác giả đều đồng ý rằng khi Qmax < 12 ml/s thì hẳn
là có bế tắc đường tiểu dưới (còn bế tắc ở vò trí nài thì
cần có những khảo sát bổ sung, như phép đo áp lực
bàng quang, phép đo áp lực – niệu dòng, soi niệu đạo
– bàng quang ...). Tương tự như những tác giả khác,
chúng tôi chọn mốc dưới 12 ml/s xem như có bế tắc
nặng đường tiểu dưới.
- Mặt khác, thực tế cho thấy đa số biểu đồ có
Qmax giảm nặng nhưng không quá thấp thì đường
biểu diễn còn tương đối liên tục, còn khi Qmax rất
thấp (dưới 5 – 6 ml/s) thì phần lớn biểu đồ bò ngắt
quãng. Vì thế chúng tôi chọn mốc dưới 6 ml/s là bế
tắc rất nặng.
- Ngoài ra, mục 3.2 và 3.6. nhắc nhở rằng Qmax
không phải luôn thể hiện trung thực mức độ thông
suốt hay bế tắc của đường tiểu dưới, bởi vì như trên

đã nói, dòng tiểu là biểu hiện kết quả của nhiều yếu
tố khác nhau.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1

2

3

4
5



7

8

9

KẾT LUẬN
Phép đo niệu dòng là phép đo không xâm lấn,

196

đơn giản nhất, thường dùng nhất trong số những
phép đo niệu động học. Mặc dù giá trò của phương
pháp này có những giới hạn nhất đònh, những nó vẫn
rất hữu ích nhằm để tầm soát những bệnh nhân bò

rối loạn chức năng đường tiểu dưới. Khảo sát niệu
dòng đồ giúp phát hiện sự hiện diện khả năng có bế
tắc đường tiểu dưới, nhận đònh những trường hợp
cần phải có những khảo sát sâu hơn về niệu động
học, và theo dõi diễn tiến bệnh và sự đáp ứng với điều
trò. Phân loại niệu dòng đồ có thể ước lượng mức độ
bế tắc của đường tiểu dưới, mặt khác cũng giúp nhận
xét những turờng hợp có thể đánh giá sai Qmax do
ảnh hưởng của sức rặn bụng.
Buzelin JM, Glemain P, Labat JJ, Le Normand
Lamiaceae: Les methodes d’exploration fonctionelle de
la voie excretrice inferieure, in “Physiologie et
Explorations Fonctionelles de la Voie Excretrice
Urinaire”, edited by Laboratory Synthelabo France
(1993), chap 4: 60 – 92.
Klarskov P, Mortensen S: Uroflowmetry, in
“Urodynamics – Introduction to Clinical Application”,
edited by Medtronic Company (1999): 9 – 12.
Tanagho EA – Urodynamic studies, in “Smith’s
General Urology” 15th edition, edited by Tanagho EA
& McAninch JW, Lange Medical Book/McGraw-Hill
(2000), chap 30: 526 – 537.
Jorgensen BJ, Jensen KM-E: Uroflowmetry, Urol Clin
North Am 23(2): 237–242 (1996).
Chapple CR, MacDiarmid SA: Urodynamic techniques,
in “Urodynamics Made Easy”, WB Saunders (2000): 26
– 73.
Chancellor MB, Blaivas JG, Stanton SL, et al:
Bladder outlet obstruction versus impaired detrusor
contractility: the role of uroflow. J Urol 145: 810-812

(1991).
Abrams PH, Griffith DJ – The assessment of prostatic
obstruction from urodynamic measurements and from
residual urine. Br J Urol 51: 129 – 134 (1979).
Boone TB, Kim YH – Uroflowmetry, in “Practical
Urodynamics” edited by Nitti VW, WB Saunders
(1998), chap 4: 28-34.
McLoughlin J, Gill KP, Abel PD, et al: Symptoms versus flow
rates versus urodynamics in the selection of the patients for
prostatectomy. Br J Urol 66: 303 – 305 (1990).

Chuyên đề Hội nghò Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004



×