Những Kỷ Thuật Của Violin
Phiên dịch,Bổ sung và Soạn thảo:
Ký hiệu
Tên
PortamentoGlissando
(vuốt)
Arco
(hủy hiệu lực)
Au talon
(đánh ở chuôi)
Bariolage
(đánh ô hợp)
Giải thích
2 nốt được nối với nhau bằng 1 dấu gạch
nghiêng.Thay vì chơi tách biệt 2 nốt.Chúng
ta sẽ dùng lần lượt một hay nhiều ngón tay
liên tiếp nhau để vuốt từ cao độ nốt đầu
tiên đến cao độ nốt thứ hai.Tiếng đàn
không bị đứt khoảng khi sử dụng kỷ thuật
Glissando.
Ký hiệu này thường xuất hiện sau khi sử
dụng kỷ thuật pizzato(búng dây) hay đánh
ngắt đoạn(plucked section).Nó hủy hiệu
lực kí hiệu pizz…Chúng ta sẽ để vĩ lại và
kéo bình thường trên dây.
Ký hiệu này nhắc chúng ta nên sử dụng
phần cuối(chuôi) của vĩ để đánh.
Kỷ thuật này dùng để biểu đạt âm sắc khác
nhau của những nốt nhạc giống nhau bằng
cách kết hợp chơi dây buông hay thế tay
hay những vị trí đặt ngón tay khác nhau
trên cùng một nốt tạo sự phong phú cho âm
thanh.
Khi xuất hiện ký hiệu này.Chúng ta sẽ
nâng vĩ lên và chơi lại điểm bắt đầu.
Cấu tạo vĩ gồm 2 phần:Lông và Gỗ.Col
Legno là kỷ thuật dùng lưng vĩ bằng gỗ
đánh hay kéo lên dây đàn thay vì dùng
Col Legno
(đánh bằng lưng vĩ) lông vĩ như thông thường.Tạo ra 1 âm
thanh kì lạ.Kỷ thuật này ít phổ biến và có
thể làm hư hại đến lưng gỗ của vĩ.
Chúng ta bắt đầu kéo vĩ từ phần chuôi của
Down Bow
(kéo vĩ xuống)
vĩ cho đến phần đầu.Tức hướng của vĩ từ
trên xuống dần.
Chúng ta bắt đầu kéo vĩ từ phần đầu của vĩ
Up bow
(kéo vĩ lên)
cho đến phần chuôi.Tức hướng của vĩ từ
dưới lên trên dần.
Chúng ta kéo các nốt nhẹ nhàng trên phím
Flautando
(kéo nhẹ)
đàn
Bow lift
(nâng vĩ)
Punta d’arco
Sforzando
( kéo mạnh dần)
Slur
(luyến)
Sul Ponticello
(kéo gần ngựa)
Sul tasto
(kéo gần phím)
Tenuto
(tách âm rộng)
Tie
(tương đồng)
(bowed tremolo)
Tremolo
(tiếng vê)
(fingered tremolo)
Đàn ở 1 điểm bất kì hay đàn ở phần đầu
của vĩ.
Kỷ thuật này đôi khi là xuất hiện cố định
tạo nên cao trào hoặc xuất hiện đột ngột
tạo cảm giác nốt nhạc bị nhấn mạnh bất
ngờ và tiếng đàn to hơn.
Thay vì các nốt liền kề nhau chúng ta sẽ
kéo 1 nốt lên 1 nốt xuống và xen kẽ nhau
lên xuống.Khi xuất hiện dấu nối vòm thế
này.Ta sẽ đàn liên tục các nốt cùng trên
một chiều của vĩ thay vì 2 chiều xen kẽ
thông thường.Nếu nốt có kết hợp dấu
chấm(staccato) ta vẫn tuân theo chiều vĩ.
Chúng ta sẽ kéo vĩ gần sát với ngựa
đàn.Tạo ra âm thanh loáng nhoáng như
tiếng thì thầm.
Chúng ta sẽ kéo vĩ gần cho đến trên phím
đàn.Tạo âm thanh mềm mại,nhỏ nhị và
giống tiếng sáo.
Chúng ta kéo các nốt giữ nguyên giá trị của
chúng.Không có gì đặc biệt.Đôi khi tạo
cảm giác lê thê,ngân dài.
Đàn nối một hay nhiều nốt giống nhau liên
tục tuy khác ô nhịp trên cùng một hướng
của vĩ,
Theo mình thì có 2 loại:
a)Dấu tremolo(1 gạch chéo,2 gạch chéo,3
gạch chéo…) xuất hiện trên 1 nốt nhạc
riêng lẻ(nằm trên thân nốt).Chúng ta
thường sử dụng đoạn giữa của vĩ để đánh
một cách nhanh chóng và tay phải linh
hoạt.Vì tremolo tức là chia chẻ nốt đó ra
thành các nốt có trường độ nhỏ hơn theo
quy tắc.VD: 1 nốt đen khi xuất hiện dấu
tremolo 1 gạch trên nó-ta phải đánh 1 nốt
đen đó thành 4 nốt móc đơn nếu xuất hiện
tremolo 2 gạch trên nó-ta phải đánh 1 nốt
đen đó thành 8 nốt móc kép(Ta có thể hiểu
tremolo 1 gạch trên 1 nốt nào đó sẽ có giá
trị bằng 2 lần nữa giá trị trường độ nốt đótremolo 1 gạch trên nốt trắng tức phải đàn
thành 2 nốt đen,các tremolo khác cách thực
WB,LH,UH,MB
Bow stations
(vị trí đặt vĩ)
Accent
(dấu chủ âm)
Tuplet
(dấu liên bậc)
Marcato
(dấu ác chủ âm)
Fermata
(dấu tùy ý)
Collé
(âm dán)
Détaché
(đánh rời)
hiên tương tự chia nhỏ dần ra…)...Giá trị
biến đổi của tremolo = giá trị nốt ban đầu.
b)Dấu tremolo nối các nốt lại với nhau(như
hình bên trái) cũng có loại 1 gạch,2 gạch,3
gạch.Chúng ta chia các nốt được dấu
tremolo nối lại thành các giá trị tương
ưng.Sau đó đánh chúng liên tục(tốc độ khá
nhanh) không đứt khoảng từ cao độ nốt thứ
nhất cho đến cao độ nốt kết thúc.Vĩ phải
thật mượt và các ngón tay phải thật linh
hoạt)
Những thuật ngữ này đôi khi được dùng để
chỉ vị trí của vĩ đặt trên dây đàn.
WB=whole bow(cả vĩ) LH=lower half(nữa
phần dưới vĩ) UH=upper half(nữa phần
trên vĩ) MB=middle bow(giữa vĩ)
Khi xuất hiện dấu này.Chúng ta sẽ chơi nốt
nhạc mạnh hơn(chủ âm) so với các nốt
thường.Tạo sự chú ý,dằn vặt.Sử dụng
nhiều tạo cảm ray rứt cho tác phẩm.
Rất khỏ diễn giải.Nói chung chơi các nốt
nhạc trong dấu liên bậc với trường độ ngắn
bất thường hơn so với các nốt bình
thường.Có nhiều loại dấu liên bậc.
Khi xuất hiện dấu này.Chúng ta sẽ chơi nốt
nhạc mạnh hơn,to hơn nữa so với
Accent.Thường xuất hiện trong các bản
giao hưởng lớn.Tạo cảm giác gây go,tuôn
trào mãnh liệt.
Khi xuất hiện dấu này.Nó có thể nằm trên
hay dưới nốt nhạc.Chúng ta được quyền
ngân dài tùy thích(hơn bình thường) các
nốt nhạc hay nghĩ bao lâu(hơn bình
thường) tùy thích các dấu lặng.
Nó thường xuất hiện đột ngột.Thường sau
những đoạn kéo vĩ nhẹ thì Collé tạo nên
âm thanh sắc bén,đứt mãnh tức khắc và rất
ngắn.Âm thanh của nó tịt tịt như tiếng dây
đàn bị dính.Nó thường không có ký
hiệu.Đôi khi người ta sử dụng dấu chấm
như staccato cho nó.
Nó thường dùng chữ Detache viết ở đầu
đoạn nhạc.Chúng ta phải đánh các nốt tách
nhau ra một cách mềm mại nhưng dứt
khoát.Tạo cảm giác rạch ròi.
Détaché lancé
(đánh rời phá cách)
Legato
(nối)
Louré
(nối âm rộng)
Martelé
(đánh bật)
Staccato
(ngắt âm ngắn)
Jeté
(đánh đứt rời)
Ricochet
(đánh nẩy bật)
Sautillé
(đánh nhảy)
StaccatissimoSpiccato
(ngắt âm dài)
Nó cũng giống kỷ thuật trên.Làm đứt
khoảng giữa các nốt nhạc.Nhưng sự di
chuyển của vĩ vẫn rất mềm mại.Có một
chút ngân nga của nột nhạc.
Nó cũng giống với Slur.Nhưng Legato
thường nối nhiều nốt hơn.Đàn một cách
liền mạch không đứt khoảng.Đúng giá trị
từng nốt nhạc.Tạo cảm giác lê thê,liên tục.
Nó còn lê thê hơn cả Legato.Nốt nhạc có
vẻ ngân nga kéo dài vì có sự kết hợp của
Tách âm rộng.Tạo cảm giác ngang ngang.
Thường Martele xuất hiện riêng lẻ trên 1
nốt nhạc.Chúng ta đánh dằn mạnh xuống
đột ngột rồi tắt âm.Giá trị một nốt nhạc khi
sử dụng Martele hay Staccato thường chỉ
còn hơn ¾ trường đô một xíu.Tạo cảm giác
ray rứt
Staccato là một kỷ thuật phổ biến.Chúng ta
đánh các nốt dứt khoát mạnh mẽ,rõ
rang,rạch ròi.Nó tạo cảm giác nốt nhạc
nhanh hơn bình thường khoảng gần ¼
trường độ.Vĩ luôn nằm trên dây.
Các nốt được đánh dằn mạnh dứt khoát
từng nốt.Nhưng cùng theo 1 chiều của
vĩ.Thường xuất hiện trong những Staccato
Gam của violin.Kỷ thuật này quan trọng
nhất là độ nẩy tự nhiên của vĩ trên dây dựa
theo lực điều khiển từ ngón trỏ đặt trên
grip vĩ và trọng lực tác động lên vĩ khi vĩ
đập xuống dây đàn có chủ ý.
Cũng giống với Jete.Nhưng Ricochet khó
hơn một xíu.Phải kiểm soát được lực nẩy
tự do của vĩ.Sao cho các nốt được nẩy lên
phải có giá trị đúng mặc dù đang ở trạng
thái vĩ bật tự do.Từng nốt rơi rơi
xuống.Tạo cảm giác rơi rụng đột ngột.
Sautille phải được chơi nhanh.Lợi dụng sự
uyển chuyển của đôi tay tạo nên các âm
thanh rời rạc nhưng mượt mà.Lông vĩ sẽ di
chuyển linh hoạt hơn.Thường chơi giữa
vĩ.Tạo cảm giác gấp rút.
Nó cũng gần giống với Staccato nhưng ta
có dụng ý không ưu tiên khả năng bậc của
vĩ nhiều.Thường chơi các nốt không nhanh
Grace note
(dấu hoa mỹ)
Harmonics
(natural harmonics)
lắm.Cũng tạo cảm giác đứt mạch nhưng
cũng tạo cảm giác đều đều,nhàn nhẽ.Vĩ
nhấc khỏi dây.
Dấu này xuất hiện tạo thêm màu sắc cho
âm thanh.Yêu cầu chúng ta đánh nhanh nốt
nhỏ đó sao cho trường độ của nốt nhỏ và
nốt chính cộng lại bằng nốt chính thông
thường.Nốt hoa mỹ lấy đi một phần trường
độ nốt chính(có rất nhiều trường hợp)
thường lấy đi khoảng gần,bằng hoặc hơn ¼
trường độ nốt chính.
Harmonics là những âm bồi được tạo nên
trên những vị trí nhất định của dây đàn.Nó
tạo ra âm thanh êm dịu như tiếng
sáo(flutelike sounds) khi ta đặt các ngón
tay hờ trên những điểm nút của dây(vị trí
tạo âm bồi xác định).
Có 2 loại âm bồi:
a)Âm bồi tự nhiên:
Thường được ký hiệu “o” trên đầu nốt
nhạc.Khi đó chúng ta chơi các âm bồi có
sẵn tự nhiên trên dây(thuộc 4 nốt dây
buông).Trên 4 dây G,D,A,E của violin đều
có các harmonics tự nhiên quanh quẩn 4
nốt đó.VD trên dây E,khi ta chơi thế
4,ngón trỏ của ta đặt hờ trên dây E tại vị trí
nốt E ta sẽ dễ dàng tạo ra được một tiếng
lóng loáng thoáng…đó là harmonics.
(âm hòa-âm bồi)
Harmonics thế tay thấp thường khó tạo ra
cho những ai mới tập.Hình trên cũng thuộc
dạng âm bồi tự nhiên mặc dù nốt D nằm
trên dây A nhưng kế bên dây A lại là dây
D.Khi ta đặt tay hờ tại vị trí đó nốt D
harmonic sẽ hòa âm rung động với dây
D(tinh ý mới nhận ra) tạo ra âm thanh
harmonics.
Harmonics trên được tạo ra bằng cách lợi
dụng 4 nốt hòa âm căn bản G,D,A,E đánh
hờ lên một quãng 8(từ thế 1 trở lên) tại vị
trí đó ta có được âm thanh mềm mút như
tiếng sáo do hòa âm hình thành.Harmonics
này dễ tạo ra vì là âm bồi căn bản.
Harmonics trên được tạo ra bằng cách lợi
dụng 4 nốt hòa âm căn bản G,D,A,E đánh
hờ lên 1 quãng 16(tức 2 quãng 8) nó
thường dùng từ thế 4 trở lên tại vị trí tương
ưng trên 4 dây để tạo ra hòa âm.Harmonics
này tạo ra cũng hơi khó so với harmonics 1
quãng 8 vì thế tay đã lên cao.
(artificial harmonics)
Harmonics trên là loại đặc biệt.Cũng được
tạo ra bằng cách lợi dụng các nốt nhạc bất
kì(gồm cả 4 nốt hòa âm tự nhiên).Chúng ta
đánh hờ nốt đó lên 1 quãng 24(tức 3 quãng
8) nó thường dùng từ thế 5 trở lên.Vì thế
tay càng cao âm bồi tạo ra càng trong trẻo
và dễ nghe hơn các thế tay thấp
hơn.Harmonics này là loại khó nhất trong 4
cách tạo âm hòa tự nhiên(natural
harmonics).Vì nó không thuộc 4 nốt nhạc
đã có sẵn rung động của âm bồi.Ngón tay
phải đặt hờ vừa phải nhưng phải đủ lực và
đúng cách mới có thể tạo ra âm bồi các nốt
nhạc còn lại.Và vì thường thế tay khá cao
nên tạo ra sự khó khăn cho những người
mới học.
b)Âm bồi nhân tạo:
Thường được ký hiệu “◊”trên đầu nốt
nhạc.Khi đó chúng sẽ tạo ra các âm bồi
không có sẵn trên dây cũng bằng cách để
hờ ngón tay xuống(thường là ngón trỏ hoặc
ngón út).Kỷ thuật này cần được tập luyện
thuần thục tránh tạo ra âm thanh riết,bễ rất
khó chịu khi nghe.Vì âm bồi nhân tạo được
tạo ra và chịu tác động hầu hết do lực đè
hờ của ngón tay và đôi khi kết hợp rung tạo
tiếng loáng choáng như thủy tinh.Nên
chúng ta cần phải lưu ý khi sử dụng kỷ
thuật này.Nó trải dài từ thế 1 cho đến hết
phím đàn và khá khó.
Tức là thay vì đàn 1 nốt một lúc chúng ta
sẽ đàn nhiều nốt 1 lúc,1 hướng vĩ,1 giá trị
trường độ.
Có 3 loại như sau:
a)Nốt nhị hợp:
Chúng ta chơi đồng thời 2 dây cùng một
lúc để diễn tả ký hiệu trên.Trong đó nốt thứ
nhất và nốt thứ hai tuy khác nhau về cao độ
nhưng trường độ như nhau.
b)Nốt tam hợp:
Multiple Stops
(nốt hỗn tạp-hợp
âm)
Chúng ta chơi đồng thời 3 dây cùng một
lúc để diễn tả ký hiệu trên.Trong đó nốt thứ
nhất và nốt thứ hai được chơi bằng nữa
trường độ nốt tam hợp(ví dụ hình trên)
cộng với nốt thứ hai và nốt thứ ba được
chơi bằng nữa trường độ nốt tam
hợp.Nghĩa là tuy chúng khác nhau về cao
độ.Nhưng trường độ phải chia làm sao cho
cả 3 nốt được chơi có giá trị 2 lần kép bằng
nhau.
VD:hình trên ta chơi nốt D và A là nữa
phách rồi A và F là nữa phách nữa cộng lại
tất cả thành 1 phách(nốt đen).
c)Nốt tứ hợp:
Chúng ta chơi đồng thời 4 dây cùng một
lúc để diễn tả ký hiệu trên.Trong đó các
cặp nốt từ thấp đến cao được chơi bằng
cách chia trường độ nốt tứ hợp thành các
trường độ ngắn hơn cho các cặp nốt kép
sao cho tổng trường độ qua 3 lần nốt kép
bằng trường độ nốt tứ hợp.
Muted
con sordino
(âm câm)
ordinario
(hủy hiệu lực)
pizz.
Pizzato(pizz.)
ord.
(búng dây)
Là kỷ thuật mà chúng ta sử dụng sự hổ trợ
của một bộ phận bên ngoài.Đó là một công
cụ giảm âm ta hay gọi là Mute hay
Sourdine.Nó được làm bằng gỗ,kim
loại,da,cao su hay bằng nhựa.Mỗi vật liệu
tạo nên sự cản trở âm thanh khác nhau cho
tiếng đàn.Có loại làm giảm 50% tiếng đàn
có loại làm giảm đến 90% tiếng đàn…Và
tạo ra một âm thanh lùm đùm lạ tai góp
phần tạo màu sắc cho tác phẩm.Thông
thường người ta hay dùng nhựa để tạo ra
Sourdine hay Mute.Nhưng Sourdine khác
với Mute là thiên về tạo âm thanh
mềm(soft sounds) tuy tiếng đàn có nhỏ
lại.Còn Mute thường dùng để làm giảm
thiểu sự ồn ào của Violin(nhất là ở những
chổ đông người mà bạn không muốn quấy
rối).
Thường không phổ biến và thường được
dùng để báo cho chúng ta biết nên chơi lại
bình thường sau những đoạn sử dụng kỷ
thuật Col legno hay Sul ponticello.
Kỷ thuật này quá quen thuộc với chúng
ta.Kỷ thuật búng dây thường được chơi
bằng ngón cái hay ngón trỏ của tay
phải.Chúng ta búng dây sao cho các ngón
búng nằm trên phím đàn để tránh tạo áp lực
làm đứt dây.Pizzato tạo cảm giác vui
tươi,ôn hòa.
Khi xuất hiện ký hiệu “+” trên nốt
nhạc.Chúng ta dùng tay trái nhất là ngón
áp út và ngón út của tay trai búng
dây.Những ngón còn lại giữ vững nốt tránh
quasi guitar
khi búng tay bị tụt khỏi vị trí nốt.Đôi khi
Left hand pizz. Left hand pizz được kết hợp khi đang kéo
(búng dây tay trái) vĩ.Kỷ thuật này dùng để tăng tốc độ pizz vì
không cần dùng tay phải.Kỷ thuật này cần
sự dẻo dai của tay trái.
Khi xuất hiện ký hiệu “ʘ” trên nốt
nhạc.Chúng ta dùng móng tay có thể là tay
trai hoặc tay phải để kéo dây đàn và
Nail pizz.
(búng dây móng
búng.Kỷ thuật này rất khó.Đòi hỏi phản xạ
tay)
nhanh của cả 2 tay.Và cần tập luyện để
tránh dùng lực quá mạnh khi dây bị
đứt.Nail pizz. tạo ra âm thanh như kim
loại).
Chúng ta lúc này có thể biến Violin thành
1 cây Guitar mini.Bằng cách đặt nó nằm
Guitar Pizzato trên người giống như đánh guitar rồi dùng
(khẩy dây)
tay khẩy như chơi guitar.Tạo cảm giác mới
lạ và giả thanh một phần như Guitar.
Kỷ thuật này không phổ biến.Chúng ta
cùng chơi tương tự như Pizzato sữ dụng
Pizzato tremolo tay phải.Nhưng tay trái nhấn nốt linh hoạt
(búng vê)
di chuyển lên xuống tạo hiệu ứng âm thanh
kì cục.Nếu bạn nào tận dụng được kỷ thuật
này có thể tạo ra một âm thanh thô bỉ từ
Violin.
Khi xuất hiện ký hiệu “ ”.Chúng ta cũng
pizz như thông thường nhưng ngón bấm
nốt buông ra hoặc chụp xuống một cách độ
Snap pizzato
(búng chụp)
ngột.Tạo cảm giác cục hứng,ngắn ngũi.Kỷ
thuật này rất ít khi sử dụng.Nó còn tạo ra
âm thanh như tiếng dán keo nếu được tập
luyện thuần thục.
Khi xuất hiện ký hiệu như hình bên trái nó
báo cho chúng ta biết phải sáng tạo vài nốt
tức khắc trên nốt chính hoặc dưới nốt
chính.Có 2 loại như hình bên:
a)Tạo gợn trên:
Chúng ta chia nhỏ nốt chính ra thành các
trường độ các nốt nhỏ hơn.Sau đó chơi nốt
Mordent
(nốt gợn)
chính rồi chơi thêm nhiều nốt sau cao hơn
nốt chính và cuối cùng quay lại nốt
chính.Tức nốt chính xuất hiện ở đầu và ở
cuối đoạn biến tấu nhanh đó.Sao cho tổng
thời gian các nốt biến tấu ra cộng lại bằng
nốt chính ban đầu.
b)Tạo gợn dưới:
Cũng y chang ở trên nhưng chúng ta biến
tấu ra các nốt thấp hơn nốt chính.Và nốt
chính cũng xuất hiện ở đầu và ở cuối như
trên.
Scordatura
(lệch hướng)
Sul G
Sul D
Sul A
Sul E
(độc tấu chuỗi)
Trill
(nốt nhấp)
Turn
(nốt lượn)
Đây có thể nói là một kỷ thuật kỳ lạ nhất
của Violin.Có 2 cách để chúng ta chơi:
a)Đánh các đoạn commas:
Khoảng cách giữa 2 nốt liên tiếp gọi là 1
cung.Commas là đơn vị nhỏ hơn
cung.Chúng ta đánh commas thay vì đánh
cung tạo ra nốt chệch tạo cảm giác thô
thiển,khó chịu có dụng ý.
b)Lên dây khác bình thường:
Thay vì ta lên dây cho Violin là G,D,A,E ta
có thể lên theo các nốt khác tạo sự phá
cách và đột biến thế bấm cho Violin.Tạo ra
âm thanh ô hợp phong phú.
Bất kì đoạn nhạc nào xuất hiện các ký tự
bên chúng ta sẽ chơi đoạn nhạc đó,các nốt
nhạc đó trên chuỗi các nốt có sẵn trên một
dây cố định thay vì nhiều dây như thông
thường.
VD: Sul G xuất hiện đầu đoạn ta sẽ chơi
đến khi Sul G hết hiệu lực với tất cả các
nốt chỉ nằm trên dây G.Như một xâu chuỗi
âm thanh đặc sắc phô bày các sắc thái đặc
trưng của từng dây.
Và nó còn có tác dụng phô bày kỷ thuật vì
đa phần thế bấm sẽ rất cao.
Rất phức tạp vì nó qua nhiều loại.Chúng ta
tạm thời hiểu khi xuất hiện kí hiệu “tr” trên
nốt nhạc chính ta sẽ đánh nhấp liên tục nốt
gần kề trên nó để tạo ra âm thanh lấp nhấp
kéo dài đúng hết trường độ nốt chính.Khi
kí hiệu nó xuất hiện kèm theo “#...” ta phải
nhấp nốt trên nó chịu tác dụng của các dấu
hóa hay ký tự đặc biệt kế bên “tr” sao cho
hết trường độ nốt đó…
Vô cùng phức tạp vì nó có rất nhiều
loại.Chúng ta tạm thời hiểu khi 1 nốt nhạc
có dấu lượn trên đầu tức là ta được quyền
tùy ý đàn các nốt gần nó làm sao cho
trường độ chúng cộng lại bằng nốt chính
Vibrato
(rung)
nhưng các nốt tùy ý phải kết thúc bằng nốt
chính(VD:hình bên trái).Thông thường
chúng ta sẽ đàn 4 nốt.Khi dấu lượn xuất
hiện kèm theo “#...” ta phải đánh các nốt
chịu tác dụng của các hiệu lực kèm
theo…Turn giúp chúng ta sáng tạo hơn.
Đây là một kỷ thuật quen thuộc và phổ
biến nhất.Violin rung cũng như giọng
hát.Tiếng rung được vang lên bằng sự xê
dịch qua lại liên tục giữa các commas nằm
kế nhau trong 1 nốt nhạc.Vibrato cũng
không dễ chơi nếu tay không được tập
luyện nhuần nhuyễn tạo độ dẻo.Có 3 loại
Vibrato:
a)Rung bàn tay:
Thường khi mới tập chúng ta sẽ tự rung
được bằng bàn tay.Tiếng rung chậm
chạp,loang xa như sóng.Ưu điểm:dễ tiếp
cận, dễ thực hiện, nhất là với những người
có bàn tay to. Nhưng nhược điểm là biên
độ rung không được rộng, tiếng rung
nhanh, không tạo hiêu ứng day dứt nhiều.
Thêm nữa, rung cổ tay (bàn tay) thì tư thế
ôm tay lên cần đàn, sẽ hạn chế sự di
chuyển và linh hoạt ngón tay hơn là rung
cánh tay.
b)Rung cánh tay:
Khó thực hành.Nó tạo cảm giác dằn co,dựt
mạnh.Cho biên độ rung rộng hơn, kiểm
soát được sắc thái khi rung, khống chế tốc
độ rung tốt hơn rung bàn tay (cổ tay)
c)Rung ngón tay:
Loại rung phổ biến nhất đó là quá trình
ngón tay đã dẻo và lực đã chuyển từ bàn
tay sang ngón tay.Âm thanh tạo ra êm
đềm,da diết,vang xa và lắng động.Rung
ngón tay cần chú ý khớp nối giữa đốt 1 và
đốt 2 của ngón. Với ngón út, khớp này
thường bị cứng, do vậy, tốt nhất là kết hợp
rung ngón út cùng với rung cả cánh tay
Đôi khi chúng ta phối hợp các loại rung
với nhau để tạo hiệu ứng âm thanh thú vị
và sâu sắc cho người nghe.
Lưu ý:
Khi tập rung là nên kết hợp động tác trượt
ngón trên bảng phím (fingerboard) với
động tác kéo vĩ tay phải (hết vĩ). Nhằm
quen với việc kết hợp khi rung, đàn không
bị rung nhiều.
Những Ký Hiệu Thường Gặp
Dấu giáng: chúng ta chơi nốt nhạc giảm đi nữa cung.
Dấu thăng: chúng ta chơi nốt nhạc tăng lên nữa cung.
Dấu bình: chúng ta hủy hiệu lực của dấu thăng và dấu giáng.
Dấu giáng kép: chúng ta chơi nốt nhạc giảm đi 1 cung.
Dấu thăng kép: chúng ta chơi nốt nhạc tăng lên 1 cung.
Sự sắp xếp dấu giáng ở khóa nhạc theo thứ tự: Si(B) Mi(E) La(A) Re(D)
Sol(G) Do(C) và Fa(F).
Sự sắp xếp dấu thăng ở khóa nhạc theo thứ tự: Fa(F) Do(C) Sol(G) Re(D)
La(A) Mi(E) Si(B).
Pianississimo: chúng ta chơi nốt nhạc cực kỳ mềm mại,nhỏ nhịn gần như lắng động.
Pianissimo: chúng ta chơi nốt nhạc rất mềm mại,nhẹ nhàng,nhạt tan.
Piano: chúng ta chơi nốt nhạc nhẹ nhàng,mềm mỏng nhưng không nhạt.
Mezzo-Piano: chúng ta chơi nốt nhạc nhẹ vừa,mềm vừa như đang xuống dốc.
Mezzo-Forte: chúng ta chơi nốt nhạc mạnh vừa,lớn vừa như đang lên dốc.
Forte: chúng ta chơi nốt nhạc mạnh,lớn hơn bình thường.Tạo sự tương phản.
Fortissimo: chúng ta chơi nốt nhạc rất lớn,rất mạnh tạo cảm giác hùng tráng.
Fortississimo: chúng ta chơi nốt nhạc cự kỳ mạnh bạo,lớn tiếng như cơn sóng thần.
Sforzando: chúng ta chơi trên cùng một nốt nhạc đột ngột mạnh lên rồi nhẹ lại.
Cresando: chúng ta chơi đoạn nhạc với âm thanh tăng dần.
Decresando: chúng ta chơi đoạn nhạc với âm thanh giảm dần.
Nốt /dấu lặng tròn bậc tám: chúng ta chơi/nghỉ nốt nhạc trong 32 phách.
Nốt/dấu lặng tròn bậc bốn: chúng ta chơi/nghỉ nốt nhạc trong 16 phách.
Nốt/dấu lặng tròn kép: chúng ta chơi/nghỉ nốt nhạc trong 8 phách.
Nốt/dấu lặng tròn: chúng ta chơi/nghỉ nốt nhạc trong 4 phách.
Nốt/dấu lặng trắng: chúng ta chơi/nghỉ nốt nhạc trong 2 phách.
Nốt/dấu lặng đen: chúng ta chơi/nghỉ nốt nhạc trong 1 phách.
Nốt/dấu lặng móc đơn: chúng ta chơi/nghỉ nốt nhạc trong 1/2 phách.
Nốt/dấu lặng móc kép: chúng ta chơi/nghỉ nốt nhạc trong 1/4 phách.
Nốt/dấu lặng móc ba: chúng ta chơi/nghỉ nốt nhạc trong 1/8 phách.
Nốt/dấu lặng móc tư: chúng ta chơi/nghỉ nốt nhạc trong 1/16 phách
Nốt/dấu lặng móc năm: chúng ta chơi/nghỉ nốt nhạc trong 1/35 phách
Nốt/dấu lặng móc sáu: chúng ta chơi/nghỉ nốt nhạc trong khoảng 1/70 phách.
Ottava: chúng ta chơi nốt nhạc cao lên 1 quãng 8 so với bình thường.
Quindicesima: chúng ta chơi nốt nhạc cao lên 1 quãng 16 so với bình thường(2
quãng 8).
Lưu ý: 8va và 15ma là quãng cao hơn bình thường.8vb và 15mb là quãng thấp hơn nốt thường