Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Nghiên cứu Y học
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC VÀ LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN
MỤN TRỨNG CÁ ĐẾN KHÁM TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU TP HCM
Tchiu Bích Xuân*, Châu Văn Trở*, Vũ Hồng Thái*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát một số đặc điểm dịch tễ học, xác định tỉ lệ các đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân bị mụn
trứng cá (MTC) và tìm hiểu sự liên hệ giữa các yếu tố trên.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện tại bệnh viện trên 408 bệnh nhân (BỆNH
NHÂN) bị MTC từ tháng 07/2011 đến 04/2012. Các số liệu được thu thập dựa trên phỏng vấn trực tiếp và
khám lâm sàng.
Kết quả: Tỉ lệ nam và nữ là 42,4% và 57,6%. Tuổi trung bình là 21,5 ± 6,0 và nhóm tuổi thường gặp nhất
là 16‐20 (40,7%). Tuổi khởi phát trung bình là 16,6 ± 5,0. Đa số bệnh nhân đều có thương tổn viêm (96,8%). Vị
trí thương tổn thường trên mặt (48,5%) hay mặt kết hợp với thân mình (49,3%). Tỉ lệ MTC nhẹ, trung bình,
nặng lần lượt là: 22,8%, 63,5% và 13,7%. Nam có khả năng bị MTC nặng hơn nữ (p < 0,001) và bệnh nhân có
chu kì kinh không đều khả năng bị MTC nặng hơn so với chu kì kinh đều (OR = 2,3; 95% CI: 1,2‐4,4; p = 0,02).
Hơn một nửa số bệnh nhân có sẹo mụn (61,0%). Nam có khả năng bị sẹo mụn cao hơn nữ (OR = 1,7; 95% CI:
1,1‐2,6; p = 0,01). Bệnh nhân dưới 25 tuổi khả năng bị sẹo mụn cao hơn người trên 25 tuổi (OR = 1,8; 95% CI:
1,1‐3,0; p = 0,02). Bệnh nhân ở nhóm tuổi khởi phát sớm khả năng bị sẹo mụn cao hơn nhóm khởi phát muộn
(OR = 16,8; 95% CI: 3,8‐73,0; p < 0,001). Ngoài ra, bệnh nhân bị MTC nặng khả năng bị sẹo mụn cao hơn MTC
nhẹ (OR = 3,3; 95% CI: 1,5‐7,0; p = 0,002) và trung bình (OR = 2,4; 95% CI: 1,2‐4,8; p = 0,01).
Kết luận: Bệnh nhân bị MTC tập trung nhiều nhất trong nhóm 16‐20 tuổi. Đa số đều có thương tổn trên
mặt. Thương tổn viêm chiếm một tỉ lệ cao. Hơn một nửa số bệnh nhân bị MTC trung bình và bị sẹo mụn. Độ
nặng của bệnh có liên hệ với giới tính và chu kì kinh. Bên cạnh đó, sự liên hệ có ý nghĩa thống kê giữa khả năng
bị sẹo mụn và giới tính, tuổi, tuổi khởi phát, độ nặng MTC.
Từ khoá: Mụn trứng cá.
ABSTRACT
EPIDEMIOLOGY AND CLINICAL FEATURES OF ACNE IN HOSPITAL OF DERMATO –
VENEREOLOGY OF HOCHIMINH CITY
Tchiu Bich Xuan, Chau Van Tro, Vu Hong Thai
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 22 ‐ 29
Objectives: To determine the epidemiology of acne, its clinical features and find the relationships between
them.
Methods: A hospital‐based cross‐section study was conducted on 408 patients from 07/2011 to 04/2012.
The data was collected by interviewing and examination.
Results: 42,4% of cases were male while 57,6% were female. Mean age of participants was 21,5 ± 6,0 years
and the most common age group was 16 to 20 years (40,7%). Mean age of onset was 16,6 ± 5,0 years. The
majority of cases had inflammatory acne (96,8%). The acne lesions were on face (48,5%) or face and body
(49,3%). The patients were classified into three groups with mild, moderate and severe (22,8%, 63,5%, 13,7%
respectively) acne. It was more severe in male patients than female patients (p < 0,001). The female patients with
* Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: Tchiu Bích Xuân
22
ĐT: 098 612 7255
Email:
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Nghiên cứu Y học
irregular menstrual cycles had more severe acne compared to the others (OR = 2,3; 95% CI: 1,2‐4,4; p = 0,02).
More than half (61,0%) of cases had acne scars. Male patients had more chance to develop acne scars than female
(OR = 1,7; 95% CI: 1,1‐2,6; p = 0,01). Moreover, the patients who were under 25 years old had more chance to
have acne scars than others (OR = 1,8; 95% CI: 1,1‐3,0; p = 0,02). Early onset acne was also associated with acne
scars (OR = 16,8; 95% CI: 3,8‐73,0; p < 0,001). Besides, severe acne group had more chance to have acne scars
than mild (OR = 3,3; 95% CI: 1,5‐7,0; p = 0,02) and moderate (OR = 2,4; 95% CI: 1,2‐4,8; p = 0,01) ones.
Conclusion: We found that the most common age group suffered from acne was 16 to 20 years. Face was
involved in most patients. A high of proportion of these cases had inflammatory acne. More than half of cases
were moderate acne and had acne scars. Acne severity was associated with sex and menstrual cycles. Significant
associations were also found between acne scars and sex, age, age onset, mild and severe acne, moderate and
severe acne.
Keywords: acne.
ĐẶT VẤN ĐỀ
MTC là bệnh lý của nang lông tuyến bã, có
thể gặp ở mọi lứa tuổi. Bệnh thường biểu hiện
với những thương tổn đa dạng: nhân trứng cá,
sẩn, mụn mủ, nốt và nang(13). Diễn biến của
bệnh có thể tự giới hạn, nhưng nếu bệnh
không được điều trị hay điều trị không đúng
sẽ có thể để lại di chứng về sau. Nguyên nhân
của bệnh vẫn chưa được biết một cách rõ ràng
và đầy đủ, song bệnh được cho là chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố: di truyền (3), chế độ
ăn(6), tình trạng lo âu, căng thẳng(12), nội tiết(13),
tác động cơ học(7)… MTC là một bệnh không
nguy hiểm nhưng có thể ảnh hưởng đến chất
lượng cuộc sống và tâm lý của bệnh nhân(4,14).
Đây là bệnh da thường gặp ở nhóm tuổi
thanh thiếu niên, chiếm tỉ lệ khoảng từ 60‐
90%(3,4,9). Tỉ lệ MTC ở nam thường cao hơn
nữ(3,9). Độ tuổi trung bình khởi phát bệnh là
17 tuổi(10). Theo thống kê năm 2010 tại BV Da
Liễu TP HCM, tỉ lệ số lượt bệnh nhân bị
MTC chiếm 15,7% trên tổng số lượt bệnh
nhân đến khám.
Trên thế giới, hiện đã có nhiều nghiên
cứu khảo sát đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng
và những yếu tố liên quan đến MTC(1,3,4,9,10).
Những nghiên cứu đã giúp cho các nhà lâm
sàng quản lý bệnh, góp phần hỗ trợ cho việc
điều trị. Riêng tại Việt Nam, theo chúng tôi
biết hiện có rất ít nghiên cứu tập trung khảo
sát những vấn đề trên. Với mong muốn làm
rõ thêm về đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng
và các yếu tố liên quan đến bệnh, chúng tôi
tiến hành thực hiện đề tài này với mục tiêu:
Khảo sát các điểm dịch tễ học
Xác định tỉ lệ các đặc điểm lâm sàng
Tìm hiểu sự liên hệ giữa độ nặng MTC với
một số yếu tố dịch tễ
Tìm hiểu sự liên hệ giữa di chứng với một số
yếu tố dịch tễ và độ nặng của bệnh
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang.
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Địa điểm: Khoa khám bệnh bệnh viện Da
Liễu TP HCM.
Thời gian: tháng 07/2011 đến tháng 04/2012.
Đối tượng nghiên cứu
Dân số đích: Tất cả bệnh nhân MTC đến
khám tại bệnh viện Da Liễu TP HCM.
Dân số chọn mẫu: Những bệnh nhân MTC
đến khám tại khoa khám bệnh BV Da Liễu TP
HCM từ tháng 07/2011 đến tháng 04/2012.
Tiêu chuẩn chọn mẫu:
Tiêu chuẩn nhận vào: Bệnh nhân được chẩn
đoán MTC trên lâm sàng và đồng ý tham gia
nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân không đồng
ý tham gia nghiên cứu hay không thể hoàn
thành bảng thu thập số liệu.
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
23
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Nghiên cứu Y học
Cỡ mẫu:
Do nghiên cứu khảo sát tỉ lệ của nhiều biến
số và chúng tôi không có đầy đủ thông tin tỉ lệ
của các biến số, nên chọn p = 0,5 để có cỡ mẫu
lớn nhất. Thay vào công thức:
n = Z 12−α / 2
p (1 − p )
d
2
= 1,96 2
0,5(1 − 0,5)
= 384
0,05 2
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã chọn
được 408 bệnh nhân.
Cách chọn mẫu: Chọn lần lượt các bệnh
nhân thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu.
Cách thức thu thập số liệu
Những trường hợp thỏa tiêu chuẩn chọn
mẫu sẽ được phỏng vấn trực tiếp. Thời gian
phỏng vấn không hạn chế. Nội dung phỏng vấn
bao gồm:
Ghi nhận thông tin chung của bệnh nhân
và tiền sử MTC của bệnh nhân và gia đình:
tuổi khởi phát bệnh, thời gian điều trị, phương
pháp điều trị trước đây, tiền sử dùng thuốc,
tiền sử MTC của gia đình.
Ghi nhận một số yếu tố liên quan MTC: chế
độ ăn uống, uống rượu bia, hút thuốc lá, sử
dụng mỹ phẩm, tì tay lên mặt, tình trạng MTC
khi lo âu hay căng thẳng, tình trạng nội tiết.
Đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh
nhân bằng bảng câu hỏi về chỉ số chất lượng
cuộc sống về bệnh da (Dermatology Life
Quality Index‐DLQI).
Khám lâm sàng ghi nhận: vị trí thương tổn,
loại thương tổn, di chứng, phân loại độ nặng
theo tác giả Karen McKoy và chẩn đoán.
Xử lí và phân tích số liệu
Bằng phần mềm Epi Info phiên bản 3.5.3.
Kiểm định bằng test χ2 hay test chính xác
Fisher để so sánh hai tỉ lệ, sự liên hệ có ý nghĩa
về mặt thống kê khi p < 0,05.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm dịch tễ học
Tỉ lệ nữ chiếm 57,6%. Bệnh nhân có trình độ
học vấn từ cấp 3 trở lên chiếm 81,4%. Học sinh,
24
sinh viên chiếm 64,5%. Về nơi cư ngụ, 79,4%
bệnh nhân sống tại TP HCM. 90,7% bệnh nhân
là độc thân.
MTC nhiều nhất trong 2 nhóm từ 16‐20 tuổi
(40,7%) và 21‐25 tuổi (32,6%). Tuổi trung bình là
21,5 ± 6,0, nhỏ nhất là 9 và lớn nhất là 46 tuổi.
Tuổi khởi phát tập trung nhiều nhất trong 2
nhóm từ 11‐15 tuổi (46,3%) và 16‐20 tuổi (37,7%).
Tuổi khởi phát trung bình 16,6 ± 5,0 tuổi, nhỏ
nhất là 5 và lớn nhất là 41 tuổi.
Số bệnh nhân điều trị lần đầu chỉ chiếm
16,9%. Trong những bệnh nhân đa từng điều
trị mụn, bệnh nhân tự mua thuốc và kem điều
trị mụn chiếm 26,0%, dùng thuốc nam thuốc
bắc chiếm 7,4% và đi lể mụn chiếm 4,9%. Thời
gian điều trị trung bình là 4,5 ± 9,1 tháng.
Về các yếu tố liên quan đến tình trạng MTC,
61,0% bệnh nhân có thói quen nặn mụn, 58,3%
có tiền sử gia đình bị MTC, 56,6% nhận thấy
MTC nặng hơn khi lo âu căng thẳng, 44,1% có
thói quen tì đè tay lên mặt, 39,7% có thói quen
uống sữa, 27,0% có chế độ ăn nhiều bột đường,
11,5% có sử dụng mỹ phẩm, 7,4% có uống rượu
bia và 3,4% có hút thuốc lá.
Trong 235 bệnh nhân nữ được khảo sát,
75,3% nhận thấy MTC nặng hơn khi gần hành
kinh, 35,5% có chu kì kinh không đều, 3,8% có
kinh thưa và 1,3% bị rậm lông. Ngoài ra, trong
18 bệnh nhân nữ từng mang thai có 38,9% nhận
thấy MTC nặng hơn khi mang thai.
Qua khảo sát chất lượng cuộc sống của 338
đối tượng trên 16 tuổi, 75,8% bệnh nhân bị ảnh
hưởng mức độ ít và trung bình. Điểm trung bình
về chỉ số chất lượng cuộc sống là 5,6 ± 3,6 điểm,
thấp nhất là 0 và cao nhất là 19 điểm.
Tỉ lệ các đặc điểm lâm sàng
Bảng 1: Phân bố theo các đặc điểm lâm sàng
Đặc điểm lâm sàng
Loại thương tổn
Không viêm đơn thuần
Viêm
Vị trí thương tổn
Mặt
Mặt, ngực, lưng ± vị trí khác
Tần số
Tỉ lệ (%)
13
395
3,2
96,8
198
97
48,5
23,8
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Đặc điểm lâm sàng
Mặt, lưng ± vị trí khác
Mặt, ngực ± vị trí khác
Mặt + vị trí khác
Không có thương tổn trên mặt
Chẩn đoán
Mụn trứng cá thông thường
Phát ban mụn trứng cá
Độ nặng
Tần số
77
18
9
9
Tỉ lệ (%)
18,9
4,4
2,2
2,2
381
27
93,4
6,6
Nghiên cứu Y học
Đặc điểm lâm sàng
Nhẹ
Trung bình
Nặng
Di chứng
Không sẹo
Sẹo lõm
Sẹo lồi, phì đại
Tần số
56
259
93
Tỉ lệ (%)
22,8
63,5
13,7
159
242
7
39,0
59,3
1,7
Sự liên hệ giữa độ nặng và yếu tố dịch tễ
Bảng 2: Liên hệ giữa độ nặng của bệnh và yếu tố dịch tễ
Yếu tố
Nam giới
Tuổi < 25
Tuổi khởi phát ≤ 25
Tiền sử gia đình bị MTC
Ăn bột đường
Uống sữa
Uống rượu, bia
Hút thuốc lá ở nam
Tì đè tay lên mặt
Nặn mụn
Mỹ phẩm
Chu kì kinh không đều
Trung bình Nhẹ
107/259
28/93
212/259
70/93
249/259
87/93
153/259
50/93
64/259
26/93
106/259
39/93
18/259
5/93
7/107
1/28
114/259
45/93
168/259
50/93
28/259
12/93
62/152
15/64 a
Nhận xét: a Sự liên hệ có ý nghĩa thống kê với
p < 0,05.
Đối với MTC nặng và trung bình, nam
có khả năng bị MTC nặng gấp 3 lần so với
nữ (OR = 3,0 95% CI: 1,6‐5,5; p < 0,001).
Đối với MTC nặng và nhẹ, nam có khả
năng bị MTC nặng gấp 5 lần so với nữ (OR =
4,9; 95% CI: 2,4‐10,0; p < 0,001).
Bệnh nhân có chu kì kinh không đều khả
năng bị MTC nặng hơn gấp 2 lần so với chu
kì kinh đều (OR = 2,3; 95% CI: 1,2‐4,4; p =
0,02).
Sự liên hệ giữa di chứng và yếu tố dịch tễ,
độ nặng
Bảng 3.3: Liên hệ giữa di chứng và yếu tố dịch tễ
Yếu tố
Nam giới
Tuổi < 25
Tuổi khởi phát ≤ 25
Sẹo mụn
Có
118/249
209/249
247/249
không
55/159 a
118/159 a
140/159 a
Độ nặng
Nặng Trung bình
38/56 107/259 a
45/56 212/259
51/56 249/259
35/56 153/259
20/56 64/259
17/56 106/259
7/56
18/259
6/38
7/107
21/56 114/259
31/56 168/259
7/56
28/259
6/18
62/152
Đi lể mụn
Nặn mụn
Nặng
38/56
45/56
51/56
35/56
20/56
17/56
7/56
6/38
21/56
31/56
7/56
6/18
12/249
156/249
Nhẹ
28/93 a
70/93
87/93
50/93
26/93
39/93
5/93
1/28
45/93
50/93
12/93
15/64
8/159
93/159
Nhận xét:
Nam có khả năng bị sẹo mụn gấp 2 lần so
với nữ (OR = 1,7; 95% CI: 1,1‐2,6; p = 0,01).
Bệnh nhân dưới 25 tuổi khả năng bị sẹo mụn
gấp 2 lần so với trên 25 tuổi (OR = 1,8; 95% CI:
1,1‐3,0; p = 0,02).
Bệnh nhân ở nhóm tuổi khởi phát sớm khả
năng bị sẹo mụn gấp 17 lần so với nhóm khởi
phát muộn (OR = 16,8; 95% CI: 3,8‐73,0; p <
0,001).
Bảng 3.4: Liên hệ giữa di chứng và độ nặng
Độ nặng
Trung bình
Nhẹ
Nặng
Trung bình
Nặng
Nhẹ
Sẹo mụn
Có
156
49
44
156
44
49
không
103
44
12
103 a
12
44 a
Nhận xét:
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
25
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Bệnh nhân bị MTC nặng khả năng bị sẹo
mụn cao gấp 2 lần so với MTC trung bình (OR =
2,4; 95% CI: 1,2‐4,8; p = 0,01).
Bệnh nhân bị MTC nặng khả năng bị sẹo
mụn cao gấp 3 lần so với MTC nhẹ (OR = 3,3;
95% CI: 1,5‐7,0; p = 0,002).
BÀN LUẬN
Đặc điểm dịch tễ học
Tuổi
MTC gặp nhiều nhất trong 2 nhóm từ 16‐20
tuổi (40,7%) và 21‐25 tuổi (32,6%), trung bình
21,5 ± 6,0 tuổi, nhỏ nhất là 9 và lớn nhất là 46
tuổi. Nghiên cứu khác của tác giả Balaji Adityan
và cộng sự cho thấy nhóm tuổi 16‐20 chiếm tỉ lệ
cao nhất (59,8%), tiếp đến là nhóm 21‐25 tuổi
(19,4%), bệnh nhân từ 13 đến 45 tuổi và trung
bình là 19,8 ± 4,9 tuổi(1). Đối chiếu với trên thế
giới, độ tuổi trung bình và nhóm tuổi tập trung
đông bệnh nhân đến khám mà chúng tôi ghi
nhận được khá phù hợp.
Tuổi khởi phát
Tuổi khởi phát MTC tập trung nhiều nhất
trong 2 nhóm từ 11‐15 (46,3%) và 16‐20 tuổi
(37,7%), trung bình 16,6 ± 5,0 tuổi. Nghiên cứu
của tác giả Dae Hun Suh và cộng sự cho thấy
tuổi khởi phát MTC chủ yếu tập trung từ 11‐18
tuổi (70,7%), trung bình 17,2 ± 5,5 tuổi(10). Các
nghiên cứu đều cho thấy tuổi khởi phát thường
ở giai đoạn dậy thì, khi có sự tăng tiết hormon
liên quan đến MTC.
Phương pháp điều trị
Tỉ lệ bệnh nhân tự mua thuốc, kem điều trị
mụn chiếm 26,0%, phù hợp với nghiên cứu của
tác giả Nguyễn Thị Phương An, Tô Lê Na là
29,5%(8). Nguyên nhân có lẽ do việc mua bán
thuốc, kem trị mụn trên thị trường khá dễ dàng
và giúp tiết kiệm thời gian hay có lẽ do tâm lý e
ngại đi khám bệnh. Tỉ lệ bệnh nhân dùng thuốc
nam, thuốc bắc chiếm 7,4% và đi lể mụn chiếm
4,9%. Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị
Phương An và Tô Lê Na, 14,8% điều trị bằng
26
thuốc nam, thuốc bắc và 19,0% đi lể mụn(8). Qua
so sánh, kết quả của chúng tôi có phần thấp hơn.
Yếu tố liên quan đến tình trạng mụn trứng
cá
Tỉ lệ bệnh nhân có tiền sử gia đình bị MTC
chiếm 58,3%. Tỉ lệ này phù hợp với nghiên cứu
của tác giả Dae Hun Suh (58,5%) và nghiên cứu
của tác giả Yasuo Kubota (56,8%)(4,10). Bệnh nhân
có chế độ ăn nhiều bột đường chiếm 27,0% và có
thói quen uống sữa chiếm 39,7%. Sữa và thức ăn
giàu chất bột đường làm gia tăng nồng độ
insulin và insulin‐like growth factor‐1 (IGF‐1)
trong huyết thanh. Insulin cũng gây tăng chế tiết
IGF‐1 ở gan. Cả hai nội tiết tố này đều kích thích
sự tổng hợp lipid của tuyến bã. Ở bệnh nhân bị
MTC, có mối liên hệ giữa nồng độ IGF‐1 tăng
trong huyết thanh với số lượng thương tổn và
sự bài tiết chất bã trên mặt(6). Bệnh nhân có thói
quen nặn mụn chiếm 61,0% và tì đè tay lên mặt
chiếm 44,1%. Động tác tì đè tay lên mặt sẽ làm ứ
đọng chất bã, tắc nghẽn ống bài xuất nang lông
tuyến bã góp phần gây nên thương tổn MTC(7).
Bên cạnh đó, việc nặn mụn sẽ làm tình trạng
viêm trở nên nặng hơn và hình thành sẹo xấu về
sau. Bệnh nhân có sử dụng mỹ phẩm chiếm
11,5% tương đồng với nghiên cứu của tác giả
Nguyễn Thị Phương An và Tô Lê Na (12,3%)(8).
Cơ chế tình trạng lo âu, căng thẳng gây nên
MTC vẫn chưa rõ, mặc dù mối liên hệ này đã
được chứng minh trong nghiên cứu của tác giả
Gil Yosipovitch và cộng sự. Ngoài ra, ông và
cộng sự cũng nhận thấy rằng cơ chế của mối liên
hệ này không phải do sự tăng tiết lượng chất
bã(12). Bệnh nhân nhận thấy MTC nặng hơn khi
lo âu, căng thẳng chiếm 56,6%. Kết quả này cũng
khá phù hợp với nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Thị Phương An và Tô Lê Na (55,5%) và nghiên
cứu của tác giả Yasuo Kubota và cộng sự
(63,1%)(8,4).
Tỉ lệ bệnh nhân nhận thấy tình trạng MTC
nặng hơn khi gần đến ngày hành kinh chiếm
75,3%. Đối chiếu kết quả với một số nghiên
cứu khác cho thấy tỉ lệ này khá dao động từ
35,5%‐61,3%(1,3,4,10). Cơ chế của tình trạng MTC
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
bùng phát khi gần đến ngày hành kinh vẫn
chưa rõ. Giả thuyết cho rằng sự bùng phát
MTC khi gần đến giai đoạn hành kinh có thể
thứ phát từ sự thay đổi chức năng miễn dịch
hay sự co nhỏ lỗ ống nang lông tuyến bã liên
quan đến hormon ở cuối pha hoàng thể của
chu kì kinh nguyệt(5). Ngoài ra, chu kì kinh
không đều có thể làm dao động nội tiết tố liên
quan đến MTC. Nghiên cứu ghi nhận được
35,3% bệnh nhân có chu kì kinh không đều
tương tự với nghiên cứu của tác giả Dae Hun
Suh và cộng sự là 31,0%(10). Androgen có vai
trò quan trọng trong bệnh sinh MTC(13).
Nghiên cứu này chỉ khảo sát một số dấu hiệu
chỉ điểm tình trạng cường androgen, kết quả
cho thấy: 3,8% kinh thưa và 1,3% rậm lông.
Mặt khác, tỉ lệ bệnh nhân nhận thấy tình trạng
MTC nặng hơn khi mang thai chiếm 38,9% cao
hơn so với nghiên cứu của tác giả Dae Hun
Suh và cộng sự (28,4%)(10). Sự thay đổi nội tiết
trong thời kì mang thai có lẽ ảnh hưởng đến
tình trạng MTC.
MTC là một bệnh không nguy hiểm nhưng
có thể ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của
bệnh nhân. Chúng tôi ghi nhận điểm trung bình
chỉ số chất lượng cuộc sống là 5,6 ± 3,6 điểm. Kết
quả này thấp hơn so với nghiên cứu của tác giả
S.S. Zaghloul và cộng sự (17,7 ± 8,1 điểm)(14).
Tỉ lệ các đặc điểm lâm sàng
3,2% đối tượng có thương tổn không viêm
đơn thuần trong khi đến 96,8% có thương tổn
viêm. Trong cộng đồng, nghiên cứu của tác giả
G Uslu và cộng sự cho thấy có 161/350 người chỉ
có thương tổn không viêm và 189/350 người có
thương viêm(11). Tỉ lệ đối tượng chỉ có thương
tổn không viêm đơn thuần ở nghiên cứu của
chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu của tác giả
G Ulsu có lẽ do sự khác biệt về dân số đích và
dân số chọn mẫu của hai nghiên cứu.
Đa số đối tượng có vị trí thương tổn trên mặt
(97,8%). Trong đó, gần 1/2 có vị trí duy nhất trên
mặt (48,5%) và gần 1/2 mặt kết hợp với vị trí
khác (49,3%). Nghiên cứu của tác giả Balaji
Adityan và cộng sự cho thấy 100% bệnh nhân
Nghiên cứu Y học
đều có vị trí thương tổn trên mặt và 65,4% bệnh
nhân bị thương tổn duy nhất ở mặt(1). Kết quả
hai nghiên cứu khá tương đồng. Theo y văn,
mặt chính là vị trí tập trung nhiều tuyến bã nhất
nên phần lớn bệnh nhân đều có thương tổn trên
mặt.
Tỉ lệ MTC nhẹ, trung bình, nặng lần lượt là
22,8%, 63,5% và 13,7%. Theo nghiên cứu tiến
hành tại bệnh viện của tác giả Balaji Adityan và
cộng sự sử dụng hệ thống phân loại MTC đơn
giản dựa trên loại thương tổn chiếm ưu thế cho
thấy MTC độ 1, 2, 3, và 4 lần lượt là: 60,2%,
27,5%, 2,6%, 9,7%(1). Với nghiên cứu tiến hành
trong cộng đồng của tác giả Yiwei Shen và cộng
sự, tỉ lệ MTC nhẹ, trung bình và nặng lần lượt là:
68,4%, 26,0%, 5,6%(9). Khi so sánh nghiên cứu
dựa trên cộng đồng, tỉ lệ MTC trung bình, nặng
của nghiên cứu chúng tôi cao hơn. Nguyên nhân
có thể do nơi chúng tôi khảo sát là bệnh viện
chuyên khoa, tập trung đông những bệnh nhân
bị MTC trung bình và nặng hơn so với trong
cộng đồng. Mặt khác, nghiên cứu của chúng tôi
và nghiên tác giả Balaji Adityan sử dụng hệ
thống phân loại khác nhau nên có thể đã dẫn
đến kết quả khác nhau.
Sự liên hệ giữa độ nặng và yếu tố dịch tễ
Nam có khả năng bị MTC nặng hơn so với
nữ (p < 0,001). Nghiên cứu của tác giả Balaji
Adityan và cộng sự cho thấy nam giới cũng bị
MTC mức độ nặng hơn (p < 0,001)(1). Nguyên
nhân có lẽ do nồng độ androgen trong máu ở
nam cao hơn nữ hoặc có thể do nam ít quan tâm
đến việc chăm sóc vệ sinh da hơn.
Ngoài ra, bệnh nhân nữ có chu kì kinh
không đều khả năng bị MTC nặng hơn so với
chu kì kinh đều (p = 0,02). Tuy nhiên, nghiên
cứu của tác giả JM Amado và nghiên cứu của tác
giả S. Zahra Ghodsi đều không tìm thấy mối liên
hệ giữa độ nặng của MTC với chu kì kinh đều
hay không(2,3). Do nghiên cứu của chúng tôi chỉ
là nghiên cứu cắt ngang và MTC là bệnh chịu tác
động của nhiều yếu tố khác nhau, kết quả của
chúng tôi có thể xảy ra do biến thiên ngẫu nhiên.
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
27
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Sự liên hệ giữa di chứng và yếu tố dịch tễ,
độ nặng của bệnh
Nam có khả năng bị sẹo mụn cao hơn so với
nữ (p = 0,01), có lẽ do nam bị MTC nặng hơn nữ
nên dễ để lại di chứng hơn. Bệnh nhân dưới 25
tuổi khả năng bị sẹo mụn cao hơn so với trên 25
tuổi (p =0,02) vì MTC người trưởng thành có thể
bị bùng phát trong thời gian ngắn do sử dụng
mỹ phẩm hay thuốc nên ít để lại di chứng. Bệnh
nhân ở nhóm tuổi khởi phát sớm khả năng bị
sẹo mụn cao hơn so với nhóm khởi phát muộn
(p<0,001). Thời gian bị MTC càng lâu thì càng
tăng nguy cơ bị sẹo. Tương tự với nguyên nhân
trên, MTC khởi phát muộn thường có thể do
những yếu tố gây bùng phát bệnh trong gian
thời ngắn nên ít để lại sẹo. Ngoài ra, di chứng có
liên hệ với độ nặng của bệnh. Trong đó, bệnh
nhân bị MTC nặng khả năng bị sẹo mụn cao hơn
so với MTC trung bình (p = 0,01) và MTC nhẹ (p
= 0,002). Nguyên nhân là do bệnh càng nặng thì
số lượng thương tổn càng nhiều và nhiều khả
năng để lại sẹo.
KIẾN NGHỊ
Giáo dục sức khỏe cho cộng đồng, đặc biệt là
học sinh, sinh viên về các yếu tố liên quan đến
MTC: tình trạng lo âu, căng thẳng; nặn mụn; tì
đè tay lên mặt; chế độ ăn; sử dụng mỹ phẩm,
kinh nguyệt…và chọn lựa phương pháp điều trị
đúng, trách việc tự ý mua thuốc, kem điều trị
mụn hay đi lể mụn.
Tình trạng nội tiết có lẽ liên quan đến độ
nặng của MTC ở nữ giới. Do đó cần xem xét đến
liệu pháp hormon trong điều trị.
Bên cạnh đó, trong điều trị lưu ý đến những
đối tượng có nguy cơ dễ bị sẹo mụn: nam giới,
người dưới 25 tuổi, MTC khởi phát sớm, MTC
nặng. Điều trị sớm và tích cực cho các đối tượng
trên để tránh biến chứng của bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.
KẾT LUẬN
Tỉ lệ nam và nữ là 42,4% và 57,6%. MTC
nhiều nhất trong nhóm từ 16‐20 tuổi, trung bình
là 21,5 ± 6,0 tuổi. Tuổi khởi phát trung bình là
16,6 ± 5,0 tuổi. Bệnh nhân vẫn còn tự mua thuốc,
kem điều trị mụn và đi lể mụn. Một số yếu tố
liên quan đến tình trạng MTC là tiền sử gia đình
bị MTC; lo âu, căng thẳng, nặn mụn, tì đè tay lên
mặt, chế độ ăn, sử dụng mỹ phẩm, kinh
nguyệt… Điểm trung bình về chỉ số chất lượng
cuộc sống là 5,6 ± 3,6 điểm.
Đa số bệnh nhân đều có thương tổn viêm.
Thương tổn chủ yếu trên mặt. Độ nặng bệnh
thường ở mức trung bình. Tỉ lệ di chứng sẹo còn
cao.
Nam có khả năng bị MTC nặng hơn nữ và
bệnh nhân có chu kì kinh không đều khả năng
bị MTC nặng hơn so với chu kì kinh đều.
Nam có khả năng bị sẹo mụn cao hơn nữ.
Bệnh nhân dưới 25 tuổi khả năng bị sẹo mụn cao
hơn so với trên 25 tuổi và bệnh nhân ở nhóm
28
tuổi khởi phát sớm khả năng bị sẹo mụn cao hơn
so với nhóm khởi phát muộn. Ngoài ra, bệnh
nhân bị MTC nặng khả năng bị sẹo mụn cao hơn
MTC trung bình và nhẹ.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
Adityan B and Thappa MD (2009), “Profile of acne vulgaris ‐
A hospital‐based study from South India”, Indian Journal of
Dermatology, Vereneology and Leprology, 75(3): 272‐278.
Amado JM., Matos ME et al (2006), “The prevalence of acne in
the north of Portugal”, Journal of the European Academy of
Dermatology and Venereology, 20(10): 1287‐1295.
Ghodsi ZS, Orawa H and Zouboulis CC (2009), “Prevalence,
severity, and severity risk factors of acne in high school
pupils: a community‐based study”, Journal of Investigative
Dermatology, 129: 2136‐2141.
Kubota Y, Shirahige Y, and Nakai K (2010), “Community‐
based epidemiological study of psychosocial effects of acne in
Japanese adolescents”, The Journal of Dermatology, 37(7):
617‐622.
Laufer RL and Gambone CJ (2007), “Menstrual Cycle‐
Influenced Disorders”, Essentials of Obstetric and
Gynecology, pp. 429‐434.
Melnik CB and Schmitz G (2009), “Role of insulin, insulin‐like
growth factor‐1, hyperglycaemic food and milk consumption
in the pathogenesis of acne vulgaris”, Experimental
Dermatology, 18(10): 833‐841.
Mills HO and Kligman A (1975), “Acne Mechanica”, Archives
Dermatology, 111: 481‐483.
Nguyễn Thị Phương An, Tô Lê Na, Trần Ngọc Ánh, Châu
Văn Trở (2008), “Kiến thức, thái độ, thực hành về điều trị và
chăm sóc của bệnh nhân bị mụn trứng cá đến khám tại Bệnh
viện Da Liễu Tp HCM từ 01/01/2008 đến 30/04/2008”, Luận
văn tốt nghiệp Bác Sĩ Y Khoa, Đại học Y khoa Phạm Ngọc
Thạch Tp HCM.
Shen Y, Wang T, and Zhou C (2011), “Prevalence of Acne
Vulgaris in Chinese Adolescents and Adults: A Community‐
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
10.
11.
12.
based Study of 17,345 Subjects in Six Cities”, Acta Dermato
Venereologica, 91: 1‐5.
Suh DH, Kim BY, and Min SU (2011), “A multicenter
epidemiological study of acne vulgaris in Korea”,
International Journal of Dermatology, 50(6): 673‐681.
Uslu G et al (2008), “Acne: prevalence, perceptions and effects
on psychological health among adolescents in Aydin,
Turkey”, Journal of the European Academy of Dermatology
and Venereology, 22(4): 462‐469.
Yosipovitch G et al (2007), “Study of Psychological Stress,
Sebum Production and Acne Vulgaris in Adolescents”, Acta
Dermato Venereologica, 87(2): 135‐139.
13.
14.
Nghiên cứu Y học
Zaenglein LA, Graber ME, Thiboutot MD and Strauss SJ
(2008), “Acne Vulgaris and Acneiform Eruptions”,
Fitzpatrickʹs Dermatology in General Medicine, 7th edition,
pp. 690‐703.
Zaghloul SS, Cunliffe WJ and Goodfield MJD (2005),
“Objective assessment of compliance with treatments in
acne”, British Journal of Dermatology, 152(5): 1015‐1021.
Ngày nhận bài báo
Ngày phản biện nhận xét bài báo:
Ngày bài báo được đăng:
30‐01‐2013
06‐03‐2013
25–09‐2013
Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
29