Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đặc điểm dịch tễ học và lâm sàng của bệnh nhân mụn trứng cá đến khám tại Bệnh viện Da Liễu TP.HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.69 KB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Nghiên cứu Y học 

ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC VÀ LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN  
MỤN TRỨNG CÁ ĐẾN KHÁM TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU TP HCM 
Tchiu Bích Xuân*, Châu Văn Trở*, Vũ Hồng Thái* 

TÓM TẮT  
Mục tiêu: Khảo sát một số đặc điểm dịch tễ học, xác định tỉ lệ các đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân bị mụn 
trứng cá (MTC) và tìm hiểu sự liên hệ giữa các yếu tố trên. 
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện tại bệnh viện trên 408 bệnh nhân (BỆNH 
NHÂN) bị MTC từ tháng 07/2011 đến 04/2012. Các số liệu được thu thập dựa trên phỏng vấn trực tiếp và 
khám lâm sàng. 
Kết quả: Tỉ lệ nam và nữ là 42,4% và 57,6%. Tuổi trung bình là 21,5 ± 6,0 và nhóm tuổi thường gặp nhất 
là 16‐20 (40,7%). Tuổi khởi phát trung bình là 16,6 ± 5,0. Đa số bệnh nhân đều có thương tổn viêm (96,8%). Vị 
trí thương tổn thường trên mặt (48,5%) hay mặt kết hợp với thân mình (49,3%). Tỉ lệ MTC nhẹ, trung bình, 
nặng lần lượt là: 22,8%, 63,5% và 13,7%. Nam có khả năng bị MTC nặng hơn nữ (p < 0,001) và bệnh nhân có 
chu kì kinh không đều khả năng bị MTC nặng hơn so với chu kì kinh đều (OR = 2,3; 95% CI: 1,2‐4,4; p = 0,02). 
Hơn một nửa số bệnh nhân có sẹo mụn (61,0%). Nam có khả năng bị sẹo mụn cao hơn nữ (OR = 1,7; 95% CI: 
1,1‐2,6; p = 0,01). Bệnh nhân dưới 25 tuổi khả năng bị sẹo mụn cao hơn người trên 25 tuổi (OR = 1,8; 95% CI: 
1,1‐3,0; p = 0,02). Bệnh nhân ở nhóm tuổi khởi phát sớm khả năng bị sẹo mụn cao hơn nhóm khởi phát muộn 
(OR = 16,8; 95% CI: 3,8‐73,0; p < 0,001). Ngoài ra, bệnh nhân bị MTC nặng khả năng bị sẹo mụn cao hơn MTC 
nhẹ (OR = 3,3; 95% CI: 1,5‐7,0; p = 0,002) và trung bình (OR = 2,4; 95% CI: 1,2‐4,8; p = 0,01). 
Kết luận: Bệnh nhân bị MTC tập trung nhiều nhất trong nhóm 16‐20 tuổi. Đa số đều có thương tổn trên 
mặt. Thương tổn viêm chiếm một tỉ lệ cao. Hơn một nửa số bệnh nhân bị MTC trung bình và bị sẹo mụn. Độ 
nặng của bệnh có liên hệ với giới tính và chu kì kinh. Bên cạnh đó, sự liên hệ có ý nghĩa thống kê giữa khả năng 
bị sẹo mụn và giới tính, tuổi, tuổi khởi phát, độ nặng MTC. 
Từ khoá: Mụn trứng cá. 

ABSTRACT 


EPIDEMIOLOGY AND CLINICAL FEATURES OF ACNE IN HOSPITAL OF DERMATO – 
VENEREOLOGY OF HOCHIMINH CITY 
Tchiu Bich Xuan, Chau Van Tro, Vu Hong Thai 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 22 ‐ 29 
Objectives: To determine the epidemiology of acne, its clinical features and find the relationships between 
them. 
Methods: A  hospital‐based  cross‐section  study  was  conducted  on  408  patients  from  07/2011  to  04/2012. 
The data was collected by interviewing and examination. 
Results: 42,4% of cases were male while 57,6% were female. Mean age of participants was 21,5 ± 6,0 years 
and  the  most  common  age  group  was  16  to  20  years  (40,7%).  Mean  age  of  onset  was  16,6  ±  5,0  years.  The 
majority  of  cases  had  inflammatory  acne  (96,8%).  The  acne  lesions  were  on  face  (48,5%)  or  face  and  body 
(49,3%). The patients were classified into three groups with mild, moderate and severe (22,8%, 63,5%, 13,7% 
respectively) acne. It was more severe in male patients than female patients (p < 0,001). The female patients with 
* Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch 
Tác giả liên lạc: Tchiu Bích Xuân 

22

ĐT: 098 612 7255   

Email:  

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

irregular menstrual cycles had more severe acne compared to the others (OR = 2,3; 95% CI: 1,2‐4,4; p = 0,02). 

More than half (61,0%) of cases had acne scars. Male patients had more chance to develop acne scars than female 
(OR = 1,7; 95% CI: 1,1‐2,6; p = 0,01). Moreover, the patients who were under 25 years old had more chance to 
have acne scars than others (OR = 1,8; 95% CI: 1,1‐3,0; p = 0,02). Early onset acne was also associated with acne 
scars (OR = 16,8; 95% CI: 3,8‐73,0; p < 0,001). Besides, severe acne group had more chance to have acne scars 
than mild (OR = 3,3; 95% CI: 1,5‐7,0; p = 0,02) and moderate (OR = 2,4; 95% CI: 1,2‐4,8; p = 0,01) ones. 
Conclusion: We found that the most common age group suffered from acne was 16 to 20 years. Face was 
involved in most patients. A high of proportion of these cases had inflammatory acne. More than half of cases 
were moderate acne and had acne scars. Acne severity was associated with sex and menstrual cycles. Significant 
associations  were  also  found  between  acne  scars  and  sex,  age,  age  onset,  mild  and  severe  acne,  moderate  and 
severe acne. 
Keywords: acne.  

ĐẶT VẤN ĐỀ 
MTC là bệnh lý của nang lông tuyến bã, có 
thể gặp ở mọi lứa tuổi. Bệnh thường biểu hiện 
với những thương tổn đa dạng: nhân trứng cá, 
sẩn,  mụn  mủ,  nốt  và  nang(13).  Diễn  biến  của 
bệnh  có  thể  tự  giới  hạn,  nhưng  nếu  bệnh 
không  được  điều  trị  hay  điều  trị  không  đúng 
sẽ có thể để lại di chứng về sau. Nguyên nhân 
của bệnh vẫn chưa được biết một cách rõ ràng 
và  đầy  đủ,  song  bệnh  được  cho  là  chịu  ảnh 
hưởng  của  nhiều  yếu  tố:  di  truyền  (3),  chế  độ 
ăn(6), tình trạng lo âu, căng thẳng(12), nội tiết(13), 
tác  động  cơ  học(7)…  MTC  là  một  bệnh  không 
nguy  hiểm  nhưng  có  thể  ảnh  hưởng  đến  chất 
lượng cuộc sống và tâm lý của bệnh nhân(4,14). 

Đây là bệnh da thường gặp ở nhóm tuổi 
thanh  thiếu  niên,  chiếm  tỉ  lệ  khoảng  từ  60‐

90%(3,4,9).  Tỉ  lệ  MTC  ở  nam  thường  cao  hơn 
nữ(3,9). Độ tuổi trung bình khởi phát bệnh là 
17 tuổi(10). Theo thống kê năm 2010 tại BV Da 
Liễu  TP  HCM,  tỉ  lệ  số  lượt  bệnh  nhân  bị 
MTC  chiếm  15,7%  trên  tổng  số  lượt  bệnh 
nhân đến khám. 
Trên  thế  giới,  hiện  đã  có  nhiều  nghiên 
cứu khảo sát đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng 
và  những  yếu  tố  liên  quan  đến  MTC(1,3,4,9,10). 
Những nghiên cứu đã giúp cho các nhà lâm 
sàng quản lý bệnh, góp phần hỗ trợ cho việc 
điều trị. Riêng tại Việt Nam, theo chúng tôi 
biết hiện có rất ít nghiên cứu tập trung khảo 

sát những vấn đề trên. Với mong muốn làm 
rõ  thêm  về  đặc  điểm  dịch  tễ  học,  lâm  sàng 
và các yếu tố liên quan đến bệnh, chúng tôi 
tiến hành thực hiện đề tài này với mục tiêu: 
Khảo sát các điểm dịch tễ học  
Xác định tỉ lệ các đặc điểm lâm sàng  
Tìm  hiểu  sự  liên  hệ  giữa  độ  nặng  MTC  với 
một số yếu tố dịch tễ 
Tìm hiểu sự liên hệ giữa di chứng với một số 
yếu tố dịch tễ và độ nặng của bệnh 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang. 
Địa điểm và thời gian nghiên cứu 
Địa  điểm:  Khoa  khám  bệnh  bệnh  viện  Da 
Liễu TP HCM. 

Thời gian: tháng 07/2011 đến tháng 04/2012. 
Đối tượng nghiên cứu 
Dân  số  đích:  Tất  cả  bệnh  nhân  MTC  đến 
khám tại bệnh viện Da Liễu TP HCM. 
Dân  số  chọn  mẫu:  Những  bệnh  nhân  MTC 
đến  khám  tại  khoa  khám  bệnh  BV  Da  Liễu  TP 
HCM từ tháng 07/2011 đến tháng 04/2012. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu: 
Tiêu chuẩn nhận vào: Bệnh nhân được chẩn 
đoán  MTC  trên  lâm  sàng  và  đồng  ý  tham  gia 
nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân không đồng 
ý  tham  gia  nghiên  cứu  hay  không  thể  hoàn 
thành bảng thu thập số liệu. 

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 

23


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Nghiên cứu Y học 
Cỡ mẫu: 

Do nghiên cứu khảo sát tỉ lệ của nhiều biến 
số và chúng tôi không có đầy đủ thông tin tỉ lệ 
của các biến số, nên chọn p = 0,5 để có cỡ mẫu 
lớn nhất. Thay vào công thức: 


n = Z 12−α / 2

p (1 − p )
d

2

= 1,96 2

0,5(1 − 0,5)
= 384
0,05 2

Trong  nghiên  cứu  này,  chúng  tôi  đã  chọn 
được 408 bệnh nhân. 
Cách  chọn  mẫu:  Chọn  lần  lượt  các  bệnh 
nhân thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu. 
Cách thức thu thập số liệu 
Những  trường  hợp  thỏa  tiêu  chuẩn  chọn 
mẫu  sẽ  được  phỏng  vấn  trực  tiếp.  Thời  gian 
phỏng vấn không hạn chế. Nội dung phỏng vấn 
bao gồm: 
Ghi  nhận  thông  tin  chung  của  bệnh  nhân 
và  tiền  sử  MTC  của  bệnh  nhân  và  gia  đình: 
tuổi khởi phát bệnh, thời gian điều trị, phương 
pháp  điều  trị  trước  đây,  tiền  sử  dùng  thuốc, 
tiền sử MTC của gia đình. 
Ghi nhận một số yếu tố liên quan MTC: chế 
độ  ăn  uống,  uống  rượu  bia,  hút  thuốc  lá,  sử 
dụng mỹ phẩm, tì tay lên mặt, tình trạng MTC 

khi lo âu hay căng thẳng, tình trạng nội tiết.  
Đánh  giá  chất  lượng  cuộc  sống  của  bệnh 
nhân  bằng  bảng  câu  hỏi  về  chỉ  số  chất  lượng 
cuộc  sống  về  bệnh  da  (Dermatology  Life 
Quality Index‐DLQI). 
Khám lâm sàng ghi nhận: vị trí thương tổn, 
loại  thương  tổn,  di  chứng,  phân  loại  độ  nặng 
theo tác giả Karen McKoy và chẩn đoán. 

Xử lí và phân tích số liệu 
Bằng phần mềm Epi Info phiên bản 3.5.3.  
Kiểm  định  bằng  test  χ2  hay  test  chính  xác 
Fisher để so sánh hai tỉ lệ, sự liên hệ có ý nghĩa 
về mặt thống kê khi p < 0,05. 

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Đặc điểm dịch tễ học 
Tỉ lệ nữ chiếm 57,6%. Bệnh nhân có trình độ 
học vấn từ cấp 3 trở lên chiếm 81,4%. Học sinh, 

24

sinh  viên  chiếm  64,5%.  Về  nơi  cư  ngụ,  79,4% 
bệnh nhân sống tại TP HCM. 90,7% bệnh nhân 
là độc thân. 
MTC nhiều nhất trong 2 nhóm từ 16‐20 tuổi 
(40,7%) và 21‐25 tuổi (32,6%). Tuổi trung bình là 
21,5 ± 6,0, nhỏ nhất là 9 và lớn nhất là 46 tuổi. 
Tuổi khởi phát tập trung nhiều nhất trong 2 
nhóm từ 11‐15 tuổi (46,3%) và 16‐20 tuổi (37,7%). 

Tuổi  khởi  phát  trung  bình  16,6  ±  5,0  tuổi,  nhỏ 
nhất là 5 và lớn nhất là 41 tuổi.  
Số  bệnh  nhân  điều  trị  lần  đầu  chỉ  chiếm 
16,9%.  Trong  những  bệnh  nhân  đa  từng  điều 
trị mụn, bệnh nhân tự mua thuốc và kem điều 
trị  mụn  chiếm  26,0%,  dùng  thuốc  nam  thuốc 
bắc chiếm 7,4% và đi lể mụn chiếm 4,9%. Thời 
gian điều trị trung bình là 4,5 ± 9,1 tháng. 
Về các yếu tố liên quan đến tình trạng MTC, 
61,0%  bệnh  nhân  có  thói  quen  nặn  mụn,  58,3% 
có  tiền  sử  gia  đình  bị  MTC,  56,6%  nhận  thấy 
MTC  nặng  hơn  khi  lo  âu  căng  thẳng,  44,1%  có 
thói  quen  tì  đè  tay  lên  mặt,  39,7%  có  thói  quen 
uống sữa, 27,0% có chế độ ăn nhiều bột đường, 
11,5% có sử dụng mỹ phẩm, 7,4% có uống rượu 
bia và 3,4% có hút thuốc lá. 
Trong  235  bệnh  nhân  nữ  được  khảo  sát, 
75,3%  nhận  thấy  MTC  nặng  hơn  khi  gần  hành 
kinh,  35,5%  có  chu  kì  kinh  không  đều,  3,8%  có 
kinh thưa và 1,3% bị rậm lông. Ngoài ra, trong 
18 bệnh nhân nữ từng mang thai có 38,9% nhận 
thấy MTC nặng hơn khi mang thai. 
Qua khảo sát chất lượng cuộc sống của 338 
đối tượng trên 16 tuổi, 75,8% bệnh nhân bị ảnh 
hưởng mức độ ít và trung bình. Điểm trung bình 
về chỉ số chất lượng cuộc sống là 5,6 ± 3,6 điểm, 
thấp nhất là 0 và cao nhất là 19 điểm. 

Tỉ lệ các đặc điểm lâm sàng 
Bảng 1: Phân bố theo các đặc điểm lâm sàng 

Đặc điểm lâm sàng
Loại thương tổn
Không viêm đơn thuần
Viêm
Vị trí thương tổn
Mặt
Mặt, ngực, lưng ± vị trí khác

Tần số

Tỉ lệ (%)

13
395

3,2
96,8

198
97

48,5
23,8

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
Đặc điểm lâm sàng
Mặt, lưng ± vị trí khác

Mặt, ngực ± vị trí khác
Mặt + vị trí khác
Không có thương tổn trên mặt
Chẩn đoán
Mụn trứng cá thông thường
Phát ban mụn trứng cá
Độ nặng

Tần số
77
18
9
9

Tỉ lệ (%)
18,9
4,4
2,2
2,2

381
27

93,4
6,6

Nghiên cứu Y học

Đặc điểm lâm sàng
Nhẹ

Trung bình
Nặng
Di chứng
Không sẹo
Sẹo lõm
Sẹo lồi, phì đại

Tần số
56
259
93

Tỉ lệ (%)
22,8
63,5
13,7

159
242
7

39,0
59,3
1,7

Sự liên hệ giữa độ nặng và yếu tố dịch tễ 
Bảng 2: Liên hệ giữa độ nặng của bệnh và yếu tố dịch tễ 
Yếu tố
Nam giới
Tuổi < 25

Tuổi khởi phát ≤ 25
Tiền sử gia đình bị MTC
Ăn bột đường
Uống sữa
Uống rượu, bia
Hút thuốc lá ở nam
Tì đè tay lên mặt
Nặn mụn
Mỹ phẩm
Chu kì kinh không đều

Trung bình Nhẹ
107/259
28/93
212/259
70/93
249/259
87/93
153/259
50/93
64/259
26/93
106/259
39/93
18/259
5/93
7/107
1/28
114/259
45/93

168/259
50/93
28/259
12/93
62/152
15/64 a

Nhận xét: a Sự liên hệ có ý nghĩa thống kê với 
p < 0,05. 

Đối  với  MTC  nặng  và  trung  bình,  nam 
có khả năng bị MTC  nặng gấp 3  lần so  với 
nữ (OR = 3,0 95% CI: 1,6‐5,5; p < 0,001). 
Đối  với  MTC  nặng  và  nhẹ,  nam  có  khả 
năng bị MTC nặng gấp 5 lần so với nữ (OR = 
4,9; 95% CI: 2,4‐10,0; p < 0,001). 
Bệnh nhân có chu kì kinh không đều khả 
năng bị MTC nặng hơn gấp 2 lần so với chu 
kì  kinh  đều  (OR  =  2,3;  95%  CI:  1,2‐4,4;  p  = 
0,02). 
Sự liên hệ giữa di chứng và yếu tố dịch tễ, 
độ nặng 
Bảng 3.3: Liên hệ giữa di chứng và yếu tố dịch tễ 
Yếu tố
Nam giới
Tuổi < 25
Tuổi khởi phát ≤ 25

Sẹo mụn


118/249
209/249
247/249

không
55/159 a
118/159 a
140/159 a

Độ nặng
Nặng Trung bình
38/56 107/259 a
45/56 212/259
51/56 249/259
35/56 153/259
20/56 64/259
17/56 106/259
7/56
18/259
6/38
7/107
21/56 114/259
31/56 168/259
7/56
28/259
6/18
62/152
Đi lể mụn
Nặn mụn


Nặng
38/56
45/56
51/56
35/56
20/56
17/56
7/56
6/38
21/56
31/56
7/56
6/18
12/249
156/249

Nhẹ
28/93 a
70/93
87/93
50/93
26/93
39/93
5/93
1/28
45/93
50/93
12/93
15/64
8/159

93/159

Nhận xét: 
Nam  có  khả  năng  bị  sẹo  mụn  gấp  2  lần  so 
với nữ (OR = 1,7; 95% CI: 1,1‐2,6; p = 0,01). 
Bệnh nhân dưới 25 tuổi khả năng bị sẹo mụn 
gấp 2 lần so với trên 25 tuổi (OR = 1,8; 95% CI: 
1,1‐3,0; p = 0,02).  
Bệnh nhân ở nhóm tuổi khởi phát sớm khả 
năng  bị  sẹo  mụn  gấp  17  lần  so  với  nhóm  khởi 
phát  muộn  (OR  =  16,8;  95%  CI:  3,8‐73,0;  p  < 
0,001).  
Bảng 3.4: Liên hệ giữa di chứng và độ nặng 
Độ nặng
Trung bình
Nhẹ
Nặng
Trung bình
Nặng
Nhẹ

Sẹo mụn

156
49
44
156
44
49


không
103
44
12
103 a
12
44 a

Nhận xét: 

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 

25


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Bệnh  nhân  bị  MTC  nặng  khả  năng  bị  sẹo 
mụn cao gấp 2 lần so với MTC trung bình (OR = 
2,4; 95% CI: 1,2‐4,8; p = 0,01).  
Bệnh  nhân  bị  MTC  nặng  khả  năng  bị  sẹo 
mụn  cao  gấp  3  lần  so  với  MTC  nhẹ  (OR  =  3,3; 
95% CI: 1,5‐7,0; p = 0,002). 

BÀN LUẬN 
Đặc điểm dịch tễ học 
Tuổi 
MTC gặp nhiều nhất trong 2 nhóm từ 16‐20 

tuổi  (40,7%)  và  21‐25  tuổi  (32,6%),  trung  bình 
21,5  ±  6,0  tuổi,  nhỏ  nhất  là  9  và  lớn  nhất  là  46 
tuổi. Nghiên cứu khác của tác giả Balaji Adityan 
và cộng sự cho thấy nhóm tuổi 16‐20 chiếm tỉ lệ 
cao  nhất  (59,8%),  tiếp  đến  là  nhóm  21‐25  tuổi 
(19,4%),  bệnh  nhân  từ  13  đến  45  tuổi  và  trung 
bình  là  19,8  ±  4,9  tuổi(1).  Đối  chiếu  với  trên  thế 
giới, độ tuổi trung bình và nhóm tuổi tập trung 
đông  bệnh  nhân  đến  khám  mà  chúng  tôi  ghi 
nhận được khá phù hợp. 
Tuổi khởi phát 
Tuổi  khởi  phát  MTC  tập  trung  nhiều  nhất 
trong  2  nhóm  từ  11‐15  (46,3%)  và  16‐20  tuổi 
(37,7%),  trung  bình  16,6  ±  5,0  tuổi.  Nghiên  cứu 
của  tác  giả  Dae  Hun  Suh  và  cộng  sự  cho  thấy 
tuổi khởi phát MTC chủ yếu tập trung từ 11‐18 
tuổi  (70,7%),  trung  bình  17,2  ±  5,5  tuổi(10).  Các 
nghiên cứu đều cho thấy tuổi khởi phát thường 
ở giai đoạn dậy thì, khi có sự  tăng tiết  hormon 
liên quan đến MTC. 
Phương pháp điều trị 
Tỉ lệ  bệnh nhân tự mua thuốc, kem điều trị 
mụn chiếm 26,0%, phù hợp với nghiên cứu của 
tác  giả  Nguyễn  Thị  Phương  An,  Tô  Lê  Na  là 
29,5%(8).  Nguyên  nhân  có  lẽ  do  việc  mua  bán 
thuốc, kem trị mụn trên thị trường khá dễ dàng 
và giúp tiết kiệm thời gian hay có lẽ do tâm lý e 
ngại đi khám bệnh. Tỉ lệ bệnh nhân dùng thuốc 
nam, thuốc bắc chiếm 7,4% và đi lể mụn chiếm 
4,9%.  Theo  nghiên  cứu  của  tác  giả  Nguyễn  Thị 

Phương  An  và  Tô  Lê  Na,  14,8%  điều  trị  bằng 

26

thuốc nam, thuốc bắc và 19,0% đi lể mụn(8). Qua 
so sánh, kết quả của chúng tôi có phần thấp hơn. 

Yếu tố liên quan đến tình trạng mụn trứng 
cá 
Tỉ lệ bệnh nhân có tiền sử gia đình bị MTC 
chiếm 58,3%. Tỉ lệ này phù hợp với nghiên cứu 
của tác giả Dae Hun Suh (58,5%) và nghiên cứu 
của tác giả Yasuo Kubota (56,8%)(4,10). Bệnh nhân 
có chế độ ăn nhiều bột đường chiếm 27,0% và có 
thói quen uống sữa chiếm 39,7%. Sữa và thức ăn 
giàu  chất  bột  đường  làm  gia  tăng  nồng  độ 
insulin  và  insulin‐like  growth  factor‐1  (IGF‐1) 
trong huyết thanh. Insulin cũng gây tăng chế tiết 
IGF‐1 ở gan. Cả hai nội tiết tố này đều kích thích 
sự tổng hợp lipid của tuyến bã. Ở bệnh nhân bị 
MTC,  có  mối  liên  hệ  giữa  nồng  độ  IGF‐1  tăng 
trong  huyết  thanh  với  số  lượng  thương  tổn  và 
sự bài tiết chất bã trên mặt(6). Bệnh nhân có thói 
quen nặn mụn chiếm 61,0% và tì đè tay lên mặt 
chiếm 44,1%. Động tác tì đè tay lên mặt sẽ làm ứ 
đọng chất bã, tắc nghẽn ống bài xuất nang lông 
tuyến bã góp phần gây nên thương tổn MTC(7). 
Bên  cạnh  đó,  việc  nặn  mụn  sẽ  làm  tình  trạng 
viêm trở nên nặng hơn và hình thành sẹo xấu về 
sau.  Bệnh  nhân  có  sử  dụng  mỹ  phẩm  chiếm 

11,5%  tương  đồng  với  nghiên  cứu  của  tác  giả 
Nguyễn Thị Phương An và Tô Lê Na (12,3%)(8). 
Cơ  chế  tình  trạng  lo  âu,  căng  thẳng  gây  nên 
MTC  vẫn  chưa  rõ,  mặc  dù  mối  liên  hệ  này  đã 
được chứng minh trong nghiên cứu của tác giả 
Gil  Yosipovitch  và  cộng  sự.  Ngoài  ra,  ông  và 
cộng sự cũng nhận thấy rằng cơ chế của mối liên 
hệ  này  không  phải  do  sự  tăng  tiết  lượng  chất 
bã(12). Bệnh nhân nhận thấy MTC nặng hơn khi 
lo âu, căng thẳng chiếm 56,6%. Kết quả này cũng 
khá phù hợp với nghiên cứu của tác giả Nguyễn 
Thị Phương An và Tô Lê Na (55,5%) và nghiên 
cứu  của  tác  giả  Yasuo  Kubota  và  cộng  sự 
(63,1%)(8,4).  
Tỉ lệ bệnh nhân nhận thấy tình trạng MTC 
nặng  hơn  khi  gần  đến  ngày  hành  kinh  chiếm 
75,3%.  Đối  chiếu  kết  quả  với  một  số  nghiên 
cứu  khác  cho  thấy  tỉ  lệ  này  khá  dao  động  từ 
35,5%‐61,3%(1,3,4,10). Cơ chế của tình trạng MTC 

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 
bùng  phát  khi  gần  đến  ngày  hành  kinh  vẫn 
chưa  rõ.  Giả  thuyết  cho  rằng  sự  bùng  phát 
MTC  khi  gần  đến  giai  đoạn  hành  kinh  có  thể 
thứ  phát  từ  sự  thay  đổi  chức  năng  miễn  dịch 
hay sự  co nhỏ  lỗ ống nang lông tuyến  bã  liên 
quan  đến  hormon  ở  cuối  pha  hoàng  thể  của 

chu  kì  kinh  nguyệt(5).  Ngoài  ra,  chu  kì  kinh 
không đều có thể làm dao động nội tiết tố liên 
quan  đến  MTC.  Nghiên  cứu  ghi  nhận  được 
35,3%  bệnh  nhân  có  chu  kì  kinh  không  đều 
tương tự với nghiên cứu của tác giả Dae Hun 
Suh  và  cộng  sự  là  31,0%(10).  Androgen  có  vai 
trò  quan  trọng  trong  bệnh  sinh  MTC(13). 
Nghiên cứu này chỉ khảo sát một số dấu hiệu 
chỉ  điểm  tình  trạng  cường  androgen,  kết  quả 
cho  thấy:  3,8%  kinh  thưa  và  1,3%  rậm  lông. 
Mặt khác, tỉ lệ bệnh nhân nhận thấy tình trạng 
MTC nặng hơn khi mang thai chiếm 38,9% cao 
hơn  so  với  nghiên  cứu  của  tác  giả  Dae  Hun 
Suh và cộng sự (28,4%)(10). Sự thay đổi nội tiết 
trong  thời  kì  mang  thai  có  lẽ  ảnh  hưởng  đến 
tình trạng MTC.  
MTC là một bệnh không nguy hiểm nhưng 
có thể ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của 
bệnh nhân. Chúng tôi ghi nhận điểm trung bình 
chỉ số chất lượng cuộc sống là 5,6 ± 3,6 điểm. Kết 
quả này thấp hơn so với nghiên cứu của tác giả 
S.S. Zaghloul và cộng sự (17,7 ± 8,1 điểm)(14). 

Tỉ lệ các đặc điểm lâm sàng 
3,2%  đối  tượng  có  thương  tổn  không  viêm 
đơn  thuần  trong  khi  đến  96,8%  có  thương  tổn 
viêm. Trong cộng đồng, nghiên cứu của tác giả 
G Uslu và cộng sự cho thấy có 161/350 người chỉ 
có thương tổn không viêm và 189/350 người có 
thương  viêm(11).  Tỉ  lệ  đối  tượng  chỉ  có  thương 

tổn  không  viêm  đơn  thuần  ở  nghiên  cứu  của 
chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu của tác giả 
G Ulsu có lẽ do sự  khác biệt về dân số đích và 
dân số chọn mẫu của hai nghiên cứu.  
Đa số đối tượng có vị trí thương tổn trên mặt 
(97,8%). Trong đó, gần 1/2 có vị trí duy nhất trên 
mặt  (48,5%)  và  gần  1/2  mặt  kết  hợp  với  vị  trí 
khác  (49,3%).  Nghiên  cứu  của  tác  giả  Balaji 
Adityan  và  cộng  sự  cho  thấy  100%  bệnh  nhân 

Nghiên cứu Y học

đều có vị trí thương tổn trên mặt và 65,4% bệnh 
nhân  bị  thương  tổn  duy  nhất  ở  mặt(1).  Kết  quả 
hai  nghiên  cứu  khá  tương  đồng.  Theo  y  văn, 
mặt chính là vị trí tập trung nhiều tuyến bã nhất 
nên phần lớn bệnh nhân đều có thương tổn trên 
mặt.  
Tỉ lệ MTC nhẹ, trung bình, nặng lần lượt là 
22,8%,  63,5%  và  13,7%.  Theo  nghiên  cứu  tiến 
hành tại bệnh viện của tác giả Balaji Adityan và 
cộng  sự  sử  dụng  hệ  thống  phân  loại  MTC  đơn 
giản dựa trên loại thương tổn chiếm ưu thế cho 
thấy  MTC  độ  1,  2,  3,  và  4  lần  lượt  là:  60,2%, 
27,5%,  2,6%,  9,7%(1).  Với  nghiên  cứu  tiến  hành 
trong cộng đồng của tác giả Yiwei Shen và cộng 
sự, tỉ lệ MTC nhẹ, trung bình và nặng lần lượt là: 
68,4%,  26,0%,  5,6%(9).  Khi  so  sánh  nghiên  cứu 
dựa trên cộng đồng, tỉ lệ MTC trung bình, nặng 
của nghiên cứu chúng tôi cao hơn. Nguyên nhân 

có  thể  do  nơi  chúng  tôi  khảo  sát  là  bệnh  viện 
chuyên khoa, tập trung đông những bệnh nhân 
bị  MTC  trung  bình  và  nặng  hơn  so  với  trong 
cộng đồng. Mặt khác, nghiên cứu của chúng tôi 
và  nghiên  tác  giả  Balaji  Adityan  sử  dụng  hệ 
thống  phân  loại  khác  nhau  nên  có  thể  đã  dẫn 
đến kết quả khác nhau. 

Sự liên hệ giữa độ nặng và yếu tố dịch tễ 
Nam có  khả  năng  bị  MTC  nặng  hơn  so  với 
nữ  (p  <  0,001).  Nghiên  cứu  của  tác  giả  Balaji 
Adityan  và  cộng  sự  cho  thấy  nam  giới  cũng  bị 
MTC  mức  độ  nặng  hơn  (p  <  0,001)(1).  Nguyên 
nhân  có  lẽ  do  nồng  độ  androgen  trong  máu  ở 
nam cao hơn nữ hoặc có thể do nam ít quan tâm 
đến việc chăm sóc vệ sinh da hơn.  
Ngoài  ra,  bệnh  nhân  nữ  có  chu  kì  kinh 
không  đều  khả  năng  bị  MTC  nặng  hơn  so  với 
chu  kì  kinh  đều  (p  =  0,02).  Tuy  nhiên,  nghiên 
cứu của tác giả JM Amado và nghiên cứu của tác 
giả S. Zahra Ghodsi đều không tìm thấy mối liên 
hệ  giữa  độ  nặng  của  MTC  với  chu  kì  kinh  đều 
hay không(2,3). Do nghiên cứu của chúng tôi  chỉ 
là nghiên cứu cắt ngang và MTC là bệnh chịu tác 
động  của  nhiều  yếu  tố  khác  nhau,  kết  quả  của 
chúng tôi có thể xảy ra do biến thiên ngẫu nhiên.  

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 

27



Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Sự liên hệ giữa di chứng và yếu tố dịch tễ, 
độ nặng của bệnh 
Nam có khả năng bị sẹo mụn cao hơn so với 
nữ (p = 0,01), có lẽ do nam bị MTC nặng hơn nữ 
nên dễ để lại di chứng hơn. Bệnh nhân dưới 25 
tuổi khả năng bị sẹo mụn cao hơn so với trên 25 
tuổi (p =0,02) vì MTC người trưởng thành có thể 
bị  bùng  phát  trong  thời  gian  ngắn  do  sử  dụng 
mỹ phẩm hay thuốc nên ít để lại di chứng. Bệnh 
nhân  ở  nhóm  tuổi  khởi  phát  sớm  khả  năng  bị 
sẹo mụn cao hơn so với nhóm khởi phát muộn 
(p<0,001).  Thời  gian  bị  MTC  càng  lâu  thì  càng 
tăng nguy cơ bị sẹo. Tương tự với nguyên nhân 
trên,  MTC  khởi  phát  muộn  thường  có  thể  do 
những  yếu  tố  gây  bùng  phát  bệnh  trong  gian 
thời ngắn nên ít để lại sẹo. Ngoài ra, di chứng có 
liên  hệ  với  độ  nặng  của  bệnh.  Trong  đó,  bệnh 
nhân bị MTC nặng khả năng bị sẹo mụn cao hơn 
so với MTC trung bình (p = 0,01) và MTC nhẹ (p 
= 0,002). Nguyên nhân là do bệnh càng nặng thì 
số  lượng  thương  tổn  càng  nhiều  và  nhiều  khả 
năng để lại sẹo. 

KIẾN NGHỊ 

Giáo dục sức khỏe cho cộng đồng, đặc biệt là 
học sinh, sinh viên về các yếu tố  liên quan đến 
MTC: tình trạng lo âu, căng thẳng; nặn mụn; tì 
đè  tay  lên  mặt;  chế  độ  ăn;  sử  dụng  mỹ  phẩm, 
kinh nguyệt…và chọn lựa phương pháp điều trị 
đúng,  trách  việc  tự  ý  mua  thuốc,  kem  điều  trị 
mụn hay đi lể mụn. 
Tình  trạng  nội  tiết  có  lẽ  liên  quan  đến  độ 
nặng của MTC ở nữ giới. Do đó cần xem xét đến 
liệu pháp hormon trong điều trị. 
Bên cạnh đó, trong điều trị lưu ý đến những 
đối tượng có nguy cơ dễ bị sẹo mụn: nam giới, 
người  dưới  25  tuổi,  MTC  khởi  phát  sớm,  MTC 
nặng. Điều trị sớm và tích cực cho các đối tượng 
trên để tránh biến chứng của bệnh. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO: 
1.

KẾT LUẬN 
Tỉ  lệ  nam  và  nữ  là  42,4%  và  57,6%.  MTC 
nhiều nhất trong nhóm từ 16‐20 tuổi, trung bình 
là  21,5  ±  6,0  tuổi.  Tuổi  khởi  phát  trung  bình  là 
16,6 ± 5,0 tuổi. Bệnh nhân vẫn còn tự mua thuốc, 
kem  điều  trị  mụn  và  đi  lể  mụn.  Một  số  yếu  tố 
liên quan đến tình trạng MTC là tiền sử gia đình 
bị MTC; lo âu, căng thẳng, nặn mụn, tì đè tay lên 
mặt,  chế  độ  ăn,  sử  dụng  mỹ  phẩm,  kinh 
nguyệt… Điểm trung bình về chỉ số chất lượng 
cuộc sống là 5,6 ± 3,6 điểm. 

Đa  số  bệnh  nhân  đều  có  thương  tổn  viêm. 
Thương  tổn  chủ  yếu  trên  mặt.  Độ  nặng  bệnh 
thường ở mức trung bình. Tỉ lệ di chứng sẹo còn 
cao. 
Nam  có  khả  năng  bị  MTC  nặng  hơn  nữ  và 
bệnh nhân có chu kì kinh không đều khả năng 
bị MTC nặng hơn so với chu kì kinh đều. 
Nam  có  khả  năng  bị  sẹo  mụn  cao  hơn  nữ. 
Bệnh nhân dưới 25 tuổi khả năng bị sẹo mụn cao 
hơn  so  với  trên  25  tuổi  và  bệnh  nhân  ở  nhóm 

28

tuổi khởi phát sớm khả năng bị sẹo mụn cao hơn 
so  với  nhóm  khởi  phát  muộn.  Ngoài  ra,  bệnh 
nhân bị MTC nặng khả năng bị sẹo mụn cao hơn 
MTC trung bình và nhẹ. 

2.

3.

4.

5.

6.

7.
8.


9.

Adityan B and Thappa MD (2009), “Profile of acne vulgaris ‐ 
A hospital‐based study from South India”, Indian Journal of 
Dermatology, Vereneology and Leprology, 75(3): 272‐278. 
Amado JM., Matos ME et al (2006), “The prevalence of acne in 
the north of Portugal”, Journal of the European Academy of 
Dermatology and Venereology, 20(10): 1287‐1295. 
Ghodsi ZS, Orawa H and Zouboulis CC (2009), “Prevalence, 
severity,  and  severity  risk  factors  of  acne  in  high  school 
pupils:  a  community‐based  study”,  Journal  of  Investigative 
Dermatology, 129: 2136‐2141. 
Kubota  Y,  Shirahige  Y,  and  Nakai  K  (2010),  “Community‐
based epidemiological study of psychosocial effects of acne in 
Japanese  adolescents”,  The  Journal  of  Dermatology,  37(7): 
617‐622. 
Laufer  RL  and  Gambone  CJ  (2007),  “Menstrual  Cycle‐
Influenced  Disorders”,  Essentials  of  Obstetric  and 
Gynecology, pp. 429‐434. 
Melnik CB and Schmitz G (2009), “Role of insulin, insulin‐like 
growth factor‐1, hyperglycaemic food and milk consumption 
in  the  pathogenesis  of  acne  vulgaris”,  Experimental 
Dermatology, 18(10): 833‐841. 
Mills HO and Kligman A (1975), “Acne Mechanica”, Archives 
Dermatology, 111: 481‐483. 
Nguyễn  Thị  Phương  An,  Tô  Lê  Na,  Trần  Ngọc  Ánh,  Châu 
Văn Trở (2008), “Kiến thức, thái độ, thực hành về điều trị và 
chăm sóc của bệnh nhân bị mụn trứng cá đến khám tại Bệnh 
viện  Da  Liễu  Tp  HCM  từ  01/01/2008  đến  30/04/2008”,  Luận 

văn  tốt  nghiệp  Bác  Sĩ  Y  Khoa,  Đại  học  Y  khoa  Phạm  Ngọc 
Thạch Tp HCM. 
Shen  Y,  Wang  T,  and  Zhou  C  (2011),  “Prevalence  of  Acne 
Vulgaris in Chinese Adolescents and Adults: A Community‐

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

10.

11.

12.

based  Study  of  17,345  Subjects  in  Six  Cities”,  Acta  Dermato 
Venereologica, 91: 1‐5. 
Suh  DH,  Kim  BY,  and  Min  SU  (2011),  “A  multicenter 
epidemiological  study  of  acne  vulgaris  in  Korea”, 
International Journal of Dermatology, 50(6): 673‐681. 
Uslu G et al (2008), “Acne: prevalence, perceptions and effects 
on  psychological  health  among  adolescents  in  Aydin, 
Turkey”, Journal of the European Academy of Dermatology 
and Venereology, 22(4): 462‐469. 
Yosipovitch  G  et  al  (2007),  “Study  of  Psychological  Stress, 
Sebum Production and Acne Vulgaris in Adolescents”, Acta 
Dermato Venereologica, 87(2): 135‐139. 

13.


14.

Nghiên cứu Y học

Zaenglein  LA,  Graber  ME,  Thiboutot  MD  and  Strauss  SJ 
(2008),  “Acne  Vulgaris  and  Acneiform  Eruptions”, 
Fitzpatrickʹs  Dermatology  in  General  Medicine,  7th  edition, 
pp. 690‐703. 
Zaghloul  SS,  Cunliffe  WJ  and  Goodfield  MJD  (2005), 
“Objective  assessment  of  compliance  with  treatments  in 
acne”, British Journal of Dermatology, 152(5): 1015‐1021.   

 

 
Ngày nhận bài báo   
 
   
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 
Ngày bài báo được đăng: 
 

 

 

30‐01‐2013 
06‐03‐2013 


 25–09‐2013 

 

Hội nghị Khoa Học Kỹ thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 

29



×