Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

1 ảnh hưởng của nha chu đối với sinh non – sinh nhẹ cân một nghiên cứu bệnh chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.94 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

1 ẢNH HƯỞNG CỦA NHA CHU ĐỐI VỚI SINH NON – SINH NHẸ 
CÂN MỘT NGHIÊN CỨU BỆNH CHỨNG 
Vũ Trần Bảo Châu*, Ngô Thị Quỳnh Lan*  

TÓM TẮT 
Mở đầu: Bệnh nha chu là một bệnh tương đối thường gặp và được xem là một trong những yếu tố nguy cơ 
gây sinh non‐sinh nhẹ cân, tuy nhiên chưa có nhiều nghiên cứu trong nước về vấn đề này. 
Mục tiêu: Xác định nguy cơ của bệnh nha chu lên tình trạng sinh non‐sinh nhẹ cân (SN‐SNC) 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu bệnh chứng với tỉ lệ 1 bệnh/2 chứng. Nhóm bệnh 
gồm  67  sản  phụ  sinh  con  non  tháng  (tuổi  thai  dưới  37  tuẩn)  sinh  nhẹ  cân  (cân  nặng<  2500gram)  và  nhóm 
chứng gồm134 sản phụ sinh đủ tháng – đủ cân nặng. Khám nha chu được thực hiện trên tất cả các răng cho các 
sản phụ tại khoa hậu sản bệnh viện Từ Dũ trong vòng 48 giờ sau sinh. 
Kết  quả: Hai nhóm bệnh‐chứng tương đối đồng nhất về tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn, tình trạng 
kinh tế. Về tình trạng sức khỏe răng miệng: tỉ lệ viêm nướu ở nhóm bệnh là 98,5%, ở nhóm chứng là 85,1%. Tỉ 
lệ viêm nha chuở nhóm bệnh là: 38,8%, ở nhóm chứng là 20,2%. Phân tích hồi quy logistic cho thấy viêm nha 
chu là yếu tố nguy cơ gây SN‐SNC: OR=2,4 (95% KTC: 1,1‐4,9) 
Kết luận: sản phụ bị nha chu có nguy cơ SN‐SNC tăng gấp 2,5 lần OR=2,4(95%KTC:1,1‐4,9) p=0,0095. 
Từ khóa: Viêm nha chu, viêm nướu, sinh non, sinh nhẹ cân. 

ABSTRACT  
EFFECT OF PERIODONTAL STATUS FOR PRETERM LOW BIRTHWEIGHT:  
A CASE CONTROL STUDY 
Ngo Thi Quynh Lan, Vu Tran Bao Chau 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 270 ‐ 275 
Background: Previous studies have suggested that periodontal disease may be an important risk factor for 
preterm low birth weight, however there are not many domestic researches about this issue.  
Objective: To investigate the role of periodontitis as a risk factorfor preterm low birth weight. 


Method: Case control study with ratio 1 case/2 control. Sixty seven postpartum women having a preterm 
low birth weight infant: cases (group 1), as well as 134 control women having term normal birth weight infant 
(group 2) were examined. Clinical periodontal status was recorded on a full mouth basis. 
Results:  Patients  in  2  groups  case  and  control  were  relatively  homogeneous  based  on  ages,  profession, 
educational level and economic status. About oral health: the rate of gingivitis in group 1 is 98.5% and in group 
2 is 85.1%. The rate of periodontitis in group 1 is 38.8% and is 20.2% in group 2. Using a logistic regression 
model: periodontitis is a risk factor for preterm low birth weight, OR=2.4 (95%CI: 1.1‐4.9). 
Conclusion: Periodontitis is a risk factor for preterm low birth weight and affords 2.5fold increase in this 
risk, OR=2.4 (95%CI: 1.1‐4.9) p=0.0095. 
Keywords: Periodontitis, gingivitis, preterm low birth weight. 

* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược TP HCM  
Tác giả liên lạc: SV. Vũ Trần Bảo Châu  
ĐT: 0934120590

270

Email: 

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
MỞ ĐẦU 
Bệnh  nha  chu  ở  nhiều  mức  độ  từ  nhẹ  tới 
nặng  là  một  bệnh  tương  đối  thường  gặp,  đặc 
biệt  trầm  trọng  hơn  ở  thai  phụ.  Tỉ  lệ  viêm  nha 
chu ở phụ nữ mang thai thay đổi từ 11,6%(9) theo 
một  nghiên  cứu  trên  146  thai  phụ  ở  bệnh  viện 
Đa Khoa Cai Lậy, Tiền Giang, năm 2006, tới 30% 

theo một nghiên cứu trên 237 thai phụ tại bệnh 
viện S. João, E.P.E, Portuguese(1) năm 2011.Trong 
thai kỳ, nồng độ progesterone cao làm tăng tính 
thấm  thành  mạch  tạo  điều  kiện  cho  tình  trạng 
nhiễm  trùng  từ  mô  nướu  lan  rộng  đến  toàn 
thân(8). Sự phơi nhiễm với các vi khuẩn gram âm 
ở dưới nướu răng như Porphyromonas gingivalis, 
Actinobacillus  actinomycetemcomitans  có  thể  gây 
nên  một  đáp  ứng  miễn  dịch  toàn  thân(2).  Năm 
1994,  Collins  và  cộng  sự  (4,7)  đã  chứng  minh  cơ 
chế  vi  khuẩn  hoạt  hoá  các  tế  bào  trung  gian 
miễn  dịch,  sản  xuất  ra  cytokines  (như 
interleukins IL‐1 và IL‐6), yếu tố hoại tử khối u 
alpha  (tumor  necrosis  factor  alpha:  TNF‐  α), 
prostaglandin (đặc biệt prostaglandin E2: PGE2). 
Những  chất  nói  trên  có  thể  gây  ra  cơn  co  tử 
cung, dẫn đến tình trạng sinh non, sinh nhẹ cân.  
Sinh non (tuổi thai dưới 37 tuần) và sinh nhẹ 
cân (trọng lượng thai dưới 2500 gram) là nguyên 
nhân chính gây nên tử suất và bệnh suất sơ sinh 
cao,  ảnh  hưởng  đáng  kể  đến  tình  trạng  y  khoa 
và  kinh  tế  của  xã  hội.  Bệnh  viện  Từ  Dũ  là  một 
bệnh viện sản khoa đầu ngành ở phía nam nước 
ta với số sinh trong năm 2012 lên đến 62.022 ca, 
số trẻ sinh non ‐ sinh nhẹ cân (SN‐SNC) là 6051 
bé,  chiếm  tỉ  lệ  khoảng  10%  (theo  số  liệu  của 
phòng kế hoạch tổng hợp bệnh viện Từ Dũ), con 
số này cho thấy đây là một vấn đề rất đáng quan 
tâm. Do bệnh nha chu là một trong nguyên nhân 
gây  SN‐SNC,  nên  chúng  tôi  thực  hiện  một 

nghiên cứu bệnh chứng với tên “Ảnh hưởng của 
bệnh  nha  chu  đối  với  sinh  non  –  sinh  nhẹ  cân: 
một  nghiên  cứu  bệnh  chứng”  tại  bệnh  viện  Từ 
Dũ nhằm trả lời câu hỏi nghiên cứu: nguy cơ của 
bệnh nha chu đối với SN‐SNC ra sao? 
Mục tiêu nghiên cứu: xác định nguy cơ của 
bệnh nha chu lên tình trạng SN‐SNC. 

Răng Hàm Mặt 

Nghiên cứu Y học

Giả  thuyết  không  là:  bệnh  nha  chu  không 
gây SN‐SNC. 

ĐỐI TƯỢNG‐PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Từ  tháng  3  đến  tháng  10  năm  2013,  một 
nghiên cứu bệnh chứngđược thực hiện tại bệnh 
viện  Từ  Dũ  TP  HCM,  với  dân  số  chọn  mẫu  là 
thai phụ đã sinh và đang nằm tại khoa hậu sản 
bệnh việntrong thời gian nghiên cứu. 
Cỡ mẫu: được tính theo công thức: 
 
 Giả thuyết Ho  ORo=1 
 Giả thuyết Ha, kiểm định hai phía
  ORa≠ORo 
Sử dụng công thức ước lượng cỡ mẫu cho 
nghiên  cứu  bệnh  chứng  nói  trên,  với  các  thông 
số sau: tỉ lệ thai phụ sinh con đủ tháng bị viêm 
nha  chu  là:  P1=11,6%(9),  tỉ  lệ  thai  phụ  sinh  con 

non  tháng,  nhẹ  cân  bị  viêm  nha  chu  là: 
P2=34,8%(9), tỉ số chênh: OR=3, sai số cho phép α 
=  0,05,  năng  lực  cần  thiết  (Power)  =  80%,  tỉ  số 
chứng/bệnh:  2/1.  Cỡ  mẫu  tính  được  là:  nhóm 
bệnh: 66, nhóm chứng: 132. Thực tế chúng tôi đã 
thu  thập  được  67  sản  phụ  cho  nhóm  bệnh  và 
nhóm chứng có 134 bệnh nhân. 

Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Nhóm bệnh gồm những thai phụ sinh con 
thiếu  tháng,  sinh  trước  37  tuần  (tuổi  thai  dưới 
259 ngày) hoăc sinh con nhẹ cân (cân nặng dưới 
2500 gram). Nhóm chứng gồm những thai  phụ 
sinh  con  đủ  tháng  (tuổi  thai  trên  38  tuần)  hoăc 
sinh con đủ cân (cân nặng trên 2500 gram). 

Tiêu chuẩn loại trừ 
Thai phụ có bệnh toàn thân: đái tháo đường, 
tăng huyết áp thai kỳ, cường giáp, nhiễm trùng 
sinh  dục  –  tiết  niệu,  hoặc  đang  điều  trị  kháng 
sinh trong thời gian nghiên cứu, hoặc hút thuốc 
lá, uống rượu hoặc đa thai. 

Nhóm thu thập số liệu  
Gồm  một  phỏng  vấn  viên  là  bác  sĩ  sản  của 

271


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014


Nghiên cứu Y học 

bệnh  viện  Từ  Dũ  và  hai  bác  sĩ  Răng  Hàm  Mặt 
(RHM)  đã  được  tập  huấn  khám  định  chuẩn  và 
xác  định  tính  kiên  định  tại  bộ  môn  nha  chu, 
khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược TP HCM. 
Mức độ nhất trí giữa hai bác sĩ điều tra viên so 
sánh  với  giảng  viên  của  Bộ  Môn  Nha  Chu  là 
82%  và  85%,  và  mức  nhất  trí  giữa  hai  điều  tra 
viên là 97%(chỉ số KAPPA=0,97). Người nghiên 
cứu  tham  gia  viết  đề  cương,  liên  hệ  với  bệnh 
viện  Từ  Dũ  để  được  phép  thực  hiện  nghiên 
cứu,thu thập, nhập, phân tích số liệu, và viết báo 
cáo. 

Cách tiến hành 
Tại khoa Hậu Sản bệnh viện Từ Dũ, trong 
vòng  48  giờ  sau  sinh,  những  sản  phụ  hội  đủ 
tiêu  chuẩn  đưa  vào  và  không  có  tiêu  chuẩn 
loại  trừ  sẽ  được  phỏng  vấn  viên  giải  thích  và 
mời  tham  gia  nghiên  cứu.  Nếu  đồng  ý,  thai 
phụ sẽ ký tên vào bản đồng thuận, trả lời bản 
câu hỏi cấu trúc, sau đó sẽ được khám nha chu 
và  được  tư  vấn  cách  giữ  vệ  sinh  răng 
miệng.Nếu  sản  phụ  không  đồng  ý  tham  gia 
nghiên  cứu,  việc  chăm  sóc  tại  bệnh  viện  vẫn 
không  thay  đổi.  Bác  sĩ  RHM  khám  đánh  giá 
tình  trạng  nha  chu  tại  giường  bệnh  bằng  các 
thông số: chỉ số mảng bám (Plaque index: PlI), 

chỉ  số  nướu  (Gingival  index:  GI),  độ  sâu  qua 
thăm  dò  túi  nha  chu  (Probing  Pocket  Depth: 
PPD),  mức  bám  dính  lâm  sàng  (Clinical 
attachment  level:  CAL),  chảy  máu  nướu  khi 
thăm dò (Bleeding on Probing: BOP) bằng cây 

thăm  dò  túi  nha  chu  Williams  dưới  nguồn 
sáng. Bệnh nha chu có hai dạng chính là viêm 
nướu và viêm nha chu, trong đó viêm nha chu 
được  chia  làm  2  mức  độ  theoHội  Hàn  Lâm 
Nha  Chu  Hoa  Kỳ  (American  Academy  of 
Periodontology: AAP): 
Viêm nha chu trung bình: bệnh nhân có ≥ 2 
vị  trí  tiếp  cận  có  mất  bám  dính  ≥4mm  ‐  <6mm 
không trên cùng 1 răng, hoặc ≥ 2 vị trí tiếp cận 
có túi nha chu ≥ 5mm, không trên cùng 1 răng. 
Viêm nha chu nặng: cá thể có ≥ 2 vị trí tiếp 
cận  có  mất  bám  dính≥6mm  không  trên  cùng  1 
răng và ≥ 1 vị trí tiếp cận có túi nha chu ≥ 5mm. 
 Các  thông  số  về  tuổi  thai,  trọng  lượng  thai 
được ghi theo hồ sơ bệnh án. 
 Số liệu được nhập bằng phần mềm EXCEL 
và  phân  tích  bằngphần  mềm  STATA.  10.  Đề 
cương  được  thông  qua  Hội  Đồng  Y  Đức  của 
Khoa  Răng  Hàm  Mặt  ĐHYD  TPHCM  và  Bệnh 
Viện Từ Dũ. 

KẾT QUẢ 
Qua khám nha chu cho 201 trường hợp gồm 
67 sản phụ SN‐SNC (nhóm bệnh)và 134 ca sinh 

đủ  tháng‐đủ  cân  nặng  (nhóm  chứng),  kết  quả 
trình bày trong bảng 1 cho thấy hai nhóm bệnh 
và  chứng  không  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê 
về các yếu tố tuổi tác, nghề nghiệp, trình độ học 
vấn, tình trạng kinh tế và tình hình giữ vệ sinh 
răng  miệng  biểu  lộ  qua  số  lần  chải  răng  trung 
bình mỗi ngày. 

Bảng 1: Phân bố các đặc tính dịch tễ của hai nhóm bệnh và chứng 
Đặc điểm

Nhóm bệnh (n=67)
Tần số

Nhóm chứng (n=134)
(Tỉ lệ %)

Tần số

p
(Tỉ lệ %)

Nhóm tuổi

P=0,45

<20

7


(10.5%)

9

(6,7%)

20 - 29

43

(64,2%)

79

(59%)

30 - 39

16

(23,9%)

43

(32,1%)

1

(1,5%)


3

(2,2%)

25,8±6,2

(15-41)

27,5±5,2

(15-43)

≥40
a

Tuổi trung bình
Nghề nghiệp

272

P=0,08

Nội trợ

23

(34,3%)

35


(26,1%)

Lao động trí óc

7

(10,5%)

23

(17,2%)

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
Đặc điểm

Nhóm bệnh (n=67)

Lao động chân tay

Nghiên cứu Y học

Nhóm chứng (n=134)

p

Tần số


(Tỉ lệ %)

Tần số

(Tỉ lệ %)

37

(55,2%)

76

(56,7%)

Trình độ học vấn

P=0,67

Dưới lớp 12

53

(79,1%)

106

(79,1%)

14


(20,9%)

28

(20,9%)

Số năm học trung bình
Tình trạng kinh tế

10 ± 0,4

(1-15)

9 ± 0,32

(1-15)

Khó khăn

5

(7,5%)

9

(6,7%)

Trung bình

54


(80,6%)

96

(71,6%)

Khá giả

8

(11,9%)

29

(21,6%)

Số lần chải răng*

1,9 ± 0,5 (1-3)

Trên lớp 12
a

a

: số trung bình ± độ lệch chuẩn (số tối thiểu – tối đa ) 

Kết quả khám nha chu cho thấy: 
Nhóm bệnh (SN‐SNC): trong số 67 sản phụ 

chỉ có 1 người bình thường, 40 ca viêm nướu, 21 
ca  viêm  nha  chu  trung  bình  và  5  trường  hợp 
viêm  nha  chu  nặng,  chiếm  tỉ  lệ  lần  lượt  là 
(1/67=1,5%), 
(40/67=59,7%), 
(21/67=31,3%), 
(5/67=7,5%). 
Nhóm chứng: trong số 134 sản phụ sanh đủ 
tháng, đủ cân nặng có 20 người bình thường, 87 
ca viêm nướu, 21 ca viêm nha chu trung bình và 
6 trường hợp viêm nha chu nặng, chiếm tỉ lệ lần 
lượt  là  (20/134=14,9%),  (87/134=64,9%), 
(21/134=15,7%), (6/134=4,5%). 
Phân tích hồi quy logistic cho kết quả: 
Tỉ số chênh (Odd Ratio: OR) của viêm nướu 
nhẹ  giữa  2  nhóm  bệnh  và  chứng  là:  OR=3,22 
(KTC  95%:  0,91‐11,42)  p=0,07  chứng  tỏ  sự  khác 
biệt không có ý nghĩa về phương diện thống kê. 
Như vậy viêm nướu không phải là yếu tố nguy 
cơ gây sinh non‐sinh nhẹ cân. 
Tỉ  số  chênh  (Odd  Ratio:  OR)  của  viêm  nha 
chu trung bình giữa 2  nhóm  bệnh  và  chứng  là: 
OR=6,63(KTC 95%: 1,68‐26,11) p=0,007. Như vậy 
viêm nha chu trung bình là yếu tố nguy cơ gây 
sinh non‐sinh nhẹ cân. 
Tỉ  số  chênh  (Odd  Ratio:  OR)  của  viêm  nha 
chu nặng giữa 2 nhóm bệnh và chứng là: OR=7 
(KTC  95%:  1,23‐39,56)  p=0,028.  Như  vậy  viêm 

2,1 ± 0,3 (1-3)


0,24
P=0,20

0,29

nha  chu  nặng  là  yếu  tố  nguy  cơ  cao  gây  sinh 
non‐sinh nhẹ cân. 
Những  kết  quả  này  được  thể  hiện  trong 
bảng 2. 
Bảng 2: Phân bố các mức độ bệnh nha chu giữa hai 
nhóm bệnh và chứng 
Chẩnđoán Nhóm bệnh
Nhóm
OR (KTC 95%)
(N=67)
chứng (N=
134)
Tần số
Tần số
(Tỉ lệ %)
(Tỉ lệ %)
Bình thường 1 (1,5%) 20 (14,9%)
OR= 1
Viêm nướu 40 (59,7%) 87 (64,9%) OR= 3,22 (0,91nhẹ
11,42) p=0,07
Viêm nha chu 21 (31,3%) 21 (15,7%) OR=6,63(1,68trung bình
26,11) p=0,007
Viêm nha chu 5 (7,5%)
6 (4,5%) OR=7(1,23-39,56)

nặng
p=0,028

KTC: khoảng tin cậy 

Kết quả của bảng 2 cho thấy viêm nướu nhẹ 
không  có  ảnh  hưởng  đến  tình  trạng  SN‐SNC, 
viêm  nha  chu  trung  bình  và  nặng  có  nguy  cơ 
làm tăng tình trạng SN‐SNC lên đến 6‐7 lần, tuy 
nhiên khoảng tin cậy 95% quá rộng, có thể vì cỡ 
mẫu nhỏ. 
Nếu  chỉ  xem  xét  tình  trạng  bệnh  nhân  bị 
viêm nha chu (gồm viêm nha chu trung bình và 
nặng)  và  không  bị  viêm  nha  chu  (gồm  bình 
thường  và  viêm  nướu  nhẹ)  ảnh  hưởng  thế  nào 
lên kết cục thai kỳ SN‐SNC, kết quả được trình 
bày trong bảng 3. 

Bảng 3: Ảnh hưởng của viêm nha chu với SN‐SNC 

Răng Hàm Mặt 

273


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 
Chẩn đoán
Không viêm nha chu

Viêm nha chu

Nhóm bệnh (N=67)
Tần số (Tỉ lệ %)
41 (61,2%)
26 (38,8%)

Nhóm chứng (N= 134)
Tần số (Tỉ lệ %)
107 (79,8%)
27 (20,2%)

Như vậy, viêm nha chu (gồm viêm nha chu 
trung bình và nặng) là yếu tố nguy cơ gây tăng tỉ 
lệ  bị  SN‐SNC  lên  2,4  lần  và  sự  khác  biệt  có  ý 

OR (KTC 95%)
OR= 1
OR=2,4 (1,1-4,9) p=0,0095

nghĩa về phương diện thống kê. 

Bảng 4: So sánh trung bình các chỉ số nha chu giữa hai nhóm bệnh và chứng 
Chỉ số

Nhóm bệnh
TB±ĐLC(TT-TĐ)

Nhóm chứng
TB±ĐLC(TT-TĐ)


OR (KTC 95%)P

PlI
PPD
CAL
GI
BOP

1,3±0,3 (0,5-2,1)
1,7± 0,4 (0,8-2,9)
1,7± 0,05(0,8-2,9)
0,9 ±0,4 (0,2-1,7)
10,1± 12,1 (0-56,2)

1,3 ± 0,3 (0,4 - 2,2)
1,7 ± 0,4 (0,04 – 3,1)
1,7 ± 0,4 (0,04-4,4)
0,8 ±0,4 (0-1,6)
7,5 ± 9,4 (0- 45,8)

0,97(0,62-1,8)p=0,9
0,96(0,46-2)p=0,9
0,89(0,45- 2,0)p=0,74
2,36(1,08-5,17)p=0,03
1,02(0,99-1,05) p=0,07

TB: trung bình, ĐLC: độ lệch chuẩn, TT: tối thiểu, TĐ: tối đa 

Kết quả của bảng 4 cho thấy khi so sánh các 

chỉ số nha chu giữa hai nhóm bệnh và chứng:  

làm  nghề  lao  động  chân  tay  và  mức  kinh  tế 
trung bình, đủ ăn. 

Các  chỉ  số  PlI,  PPD,  CAL,  GI,  BOP  không 
khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa  hai  nhóm 
bệnh và chứng. 

Nhận xét về kết quả bệnh nha chu cho thấy 
ở 67 sản phụ thuộc nhóm bệnh, chỉ có 1 trường 
hợp  bình  thường,  chiếm  tỉ  lệ  1,5%,  trong  khi  ở 
nhóm  chứng  là  14,9%  (20/134).  Như  vậy  tỉ  lệ 
viêm  nướu  ở  nhóm  bệnh  là  98,5%  và  nhóm 
chứng là 85,1%, kết quả này phù hợp với y văn 
thế  giới(5,6,10),  nhưng  thấp  hơn  kết  quả  của  hai 
nghiên cứu thực hiện năm 2007 tại Cần Thơ[3]và 
Tiền Giang(9) cho thấy tỉ lệ viêm nướu ở thai phụ 
là  100%.  Điều  này  có  thể  giải  thích  do  sự  khác 
biệt về thời gian nghiên cứu cũng như địa điểm 
nghiên  cứu:  hiện  nay  ý  thức  giữ  vệ  sinh  răng 
miệng  của  thai  phụ  ở  TP  HCM  có  tiến  bộ  hơn. 
Nếu chỉ xét riêng viêm nướu nhẹ, nhóm bệnh có 
40 ca tỉ lệ 59,7%, nhóm chứng có 87 ca (64,9%), tỉ 
số chênh OR: 3,22 (KTC 95%: 0,91‐11,42) p=0,07, 
sự  khác  biệt  không  có  ý  nghĩa  về  phương  diện 
thống kê. Như  vậy  viêm  nướu  nhẹ  không  phải 
là  yếu  tố  nguy  cơ  gây  SN‐SNC,  điều  này  phù 
hợp  với  y  văn:  tất  cả  thai  phụ  đều  dễ  bị  viêm 
nướu do ảnh hưởng nội tiết tố progesterone làm 

tăng tính thấm thành mạch(8). Kết quả của bảng 2 
cho thấy viêm nha chu trung bình và viêm nha 
chu  nặng  là  yếu  tố  nguy  cơ  làm  tăng  tỉ  lệ  SN‐
SNC lên 6‐7 lần, nhưng khoảng tin cậy 95% quá 
rộng vì cỡ mẫu nhỏ, chỉ có 21 ca viêm nha chu 
trung bình  và  5  ca  viêm  nha  chu  nặng  ở  nhóm 

Chỉ số GI của nhóm bệnh cao gấp 2,3 lần chỉ 
số  này  của  nhóm  chứng,  và  sự  khác  biệt  có  ý 
nghĩa về phương diện thống kê. 

BÀN LUẬN 
Nghiên cứu được thực hiện với thiết kế bệnh 
chứng đáp ứng được mục tiêu nghiên cứu là xác 
định  nguy  cơ  gây  SN‐SNC  của  bệnh  nha  chu. 
Khám  nha  chu  được  thực  hiện  do  hai  bác  sĩ 
RHM đã được tập huấn định chuẩn tại bộ môn 
Nha Chu cho thấy kết quả khám có mức chính 
xác  cao  (>80%  khi  so  sánh  với  giảng  viên)  và 
đồng nhất cao (KAPPA = 97% khi so sánh giữa 
hai  bác  sĩ  RHM  là  điều  tra  viên),  điều  này  bảo 
đảm cho các kết quả tìm được có độ tin cậy tốt. 
Sự  phân  bố  về  các  yếu  tố  dịch  tễ  như  tuổi, 
nghề nghiệp, trình độ học vấn, tình trạng kinh tế 
giữa  nhóm  bệnh  (gồm  67  sản  phụ)  và  nhóm 
chứng (gồm 134 sản phụ) tương đối đồng nhất 
do nghiên cứu được thực hiện tại khoa hậu sản 
nhận  những  phụ  nữ  vào  bệnh  viện  sanh  với 
mức chi phí bình thường (không phải dịch vụ). 
Do  đó,  trong  mẫu,  đại  đa  số  sản  phụ  ở  cả  hai 

nhóm bệnh, chứng đều có học vấn dưới lớp 12, 

274

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
bệnh, ở nhóm chứng cũng chỉ có 21 ca viêm nha 
chu trung bình và  6  ca  viêm  nha  chu  nặng.  Do 
đó  khi  gộp  chung  nhóm  bình  thường  và  viêm 
nướu  nhẹ  thành  nhóm  “không  viêm  nha  chu”, 
nhóm viêm nha chu trung bình và viêm nha chu 
nặng thành nhóm “viêm nha chu”, kết quả tìm 
được  OR=2,4  (1,1‐4,9)  p=0,0095.  Kết  quả  này  có 
độ tin cậy cao và phù hợp với kết quả của Cao 
Thị  Hương  Huyền  OR=2,86  (1,14‐7,26)p=0,013(3) 
và y văn thế giới. Năm 2007 Vergnes JN, Sixou 
M.(10) thực hiện một phân tích gộp trên 17 nghiên 
cứu,  tổng  số  bệnh  nhân  là  7150  người  cho  kết 
quả: viêm nha chu là yếu tố nguy cơ độc lập của 
SN‐SNC với OR=2,83(1,95‐4,10). Kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả của 
Barkaradoss(1)  và  cộng  sự  năm  2012,  thực  hiện 
một  nghiên  cứu  bệnh  chứng  trên  100  phụ  nữ 
SN‐SNC và 200 phụ nữ sinh đủ tháng cho thấy 
viêm nha chu có nguy cơ gây SN‐SNC tăng 2,7 
lần: OR=2,72 (KTC 95%= 1,68‐6,84).  
Nhận  xét  về  các  chỉ  số  nha  chu  cho  thấy 
ngoại trừ chỉ số nướu (GI), các chỉ số mảng bám 

(PlI),  độ  sâu  túi  nha  chu  (PPD),  mức  bám  dính 
lâm  sàng  (CAL),  chảy  máu  nướu  khi  thăm  dò 
(BOP) ở nhóm bệnh và nhóm chứng không khác 
biệt có ý nghĩa về phương diện thống kê. Chỉ số 
nướu ở nhóm SN‐SNC cao gấp 2,3 lần chỉ số này 
ở nhóm sinh đủ tháng, đủ cân.  

38,8%(26/67), tỉ lệ viêm nha chu ở nhóm sinh đủ 
tháng‐ đủ cân là 20,2%(27/134). 
Do đó nên khuyến cáo thai phụ giữ vệ sinh 
răng  miệng  tốt  trong  khi  có  thai  để  có  kết  cục 
thai kỳ tốt, tránh được sinh non‐sinh nhẹ cân. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.


KẾT LUẬN 
Nghiên  cứu  bệnh  chứng  thực  hiện  trên  201 
sản phụ gồm 67 ca sinh non‐sinh nhẹ cân và 134 
ca sinh đủ tháng ‐ đủ cân tại bệnh viện Từ Dũ, 
cho kết quả sau: 
Viêm  nha  chu  là  yếu  tố  nguy  cơ  gây  sinh 
non‐sinh  nhẹ  cân  tăng  khoảng  2,5  lần  với  tỉ  số 
chênh OR=2,4 (KTC 95%: 1,1‐4,9) p=0,0095. 

Nghiên cứu Y học

9.

10.

Baskaradoss JK, Geevarghese A, Al Dosari AA (2012). Causes 
of  Adverse  Pregnancy  Outcomes  and  the  Role  of  Maternal 
Periodontal Status – A Review of the Literature. Open Dent J;6: 
79‐84. 
Bộ môn Nha Chu (2012). Mối liên quan giữa bệnh nha chu và 
bệnh  toàn  thân.  Hà  Thị  Bảo  Đan.  Nha Chu Học,  tập  1,  Khoa 
Răng Hàm Mặt Đại Học Y Dược TP.HCM, tr 47‐50.Nhà Xuất 
Bản Y Học chi nhánh TP HCM 
Cao Thị Hương Huyền (2007). Mối liên quan giữa bệnh nha chu 
của mẹ và trẻ sanh non – nhẹ cân nghiên Cứu Tại Bệnh Viện Đa 
Khoa Trung Ương Cần Thơ. Luận Văn thạc sĩ y học, Đại Học Y 
Dược TP. HCM, trang 33‐43. 
Collins  JG,  Windley  HW  3rd,  Arnold  RR,  Offenbacher
 S 
(1994).  Effects  of  a  Porphyromonas  gingivalis  infection  on 
inflammatory mediator response and pregnancy outcome in 

hamsters. Infection and Immunity; 62(10):4356–61. 
Jeffcoat  MK,  Geurs  NC,  Reddy  MS,  Cliver  SP,  Goldenberg 
RL, Hauth JC (2001). Periodontal infection and preterm birth: 
results  of  a  prospective  study.  Journal  of  the  American  Dental 
Association;132(7): 875–80. 
McGaw T (2002). Periodontal disease and preterm delivery of 
low‐birth‐weight  infants.  Journal  of  the  Canadian  Dental 
Association;68(3): 165–9.  
Offenbacher S, Katz V, Fertik G, Collins J, Boyd D, Maynor G, 
et al (1996). Periodontal infection as a possible risk factor for 
preterm  low  birth  weight.  Journal  of  Periodontology;  67  (10 
Suppl): 1103–13. 
Silvana  PB,  Heather  LJ,  Offenbacher  S  (2010).  Periodontal 
disease  and  pregnancy  complications.  Robert  JG,  Ray  CW. 
Periodontaldisease  and  Overall  Health:  A  Clinician’s  Guide. 
Professional Audience Communications, Inc, pp 132‐141. 
 Phan Thị Kim Tuyết (2006). Tình Trạng Nha Chu Của Phụ Nữ 
Mang Thai Nghiên Cứu Tại Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Cai Lậy 
– Tiền Giang. Luận Văn thạc sĩ y học, trang 33‐43. 
 Vergnes  JN,  Sixou  M  (2007).  Preterm  low  birth  weight  and 
maternal  periodontal  status:  a  meta  analysis.  Am  J  Obstet 
Gynecol, 196: 135. el‐7. 

Ngày nhận bài báo   

 

: 5/11/2013 

Ngày phản biện nhận xét bài báo   : 09/12/2013 

Ngày bài báo được đăng 

 

: 5/01/2014 

Tỉ  lệ  viêm  nha  chu  ở  nhóm  SN‐SNC  là 
 

Răng Hàm Mặt 

275



×