Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Thơ tượng trưng Pháp: Đặc điểm và ảnh hưởng đối với phong trào thơ mới ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.38 KB, 8 trang )

v VĂN HÓA - VĂN HỌC

THƠ TƯỢNG TRƯNG PHÁP:
ĐẶC ĐIỂM VÀ ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI
PHONG TRÀO THƠ MỚI Ở VIỆT NAM
ThS. NGUYỄN THỊ THU HÒA1
Học viện Khoa học Quân sự ✉
Ngày nhận: 07/11/2016; Ngày hoàn thiện: 28/11/2016; Ngày duyệt đăng: 30/11/2016
Phản biện khoa học: PGS. TS. NGUYỄN LÂN TRUNG, NGUYỄN THỊ BÌNH
1

TÓM TẮT
Thơ tượng trưng là một trường phái thơ hiện đại ra đời đầu tiên ở Pháp năm 1886. Các nhà thơ
tượng trưng đề cao quan niệm tương giao các giác quan, cảm nhận thế giới bằng trực giác, thiên
về dùng biểu tượng, ẩn dụ để gợi cảm xúc chứ không mô tả cụ thể. Thơ tượng trưng là sự sáng tạo
về ngôn từ, mang đậm tính nhạc và luôn chứa đựng những yếu tố huyền bí về một thế giới vô hình.
Tư tưởng và phong cách của các nhà thơ tượng trưng Pháp đã thổi một luồng gió mới cho phong
trào Thơ Mới ở Việt Nam. Việc nghiên cứu trường phái thơ tượng trưng Pháp và những ảnh hưởng
đối với thơ ca Việt Nam hiện đại những năm đầu thế kỷ XX giúp người học hai ngôn ngữ, hai nền
văn hóa có cái nhìn tổng quan về thơ tượng trưng, về sự giao thoa ngôn ngữ-văn hóa Việt Nam và
Pháp trong một khúc ngoặt của dòng chảy lịch sử.
Từ khóa: chủ nghĩa tượng trưng, thơ tượng trưng Pháp.

C

hủ nghĩa tượng trưng (Symbolisme) là một
trào lưu nghệ thuật, một quan điểm triết họcmỹ học xuất hiện vào cuối thế kỉ XIX, đầu
thế kỉ XX. Ở Pháp, ngày 18 tháng 9 năm 1886, Jean
Moréas cho đăng trên tờ báo Figaro bài viết có tựa đề
“Symbolisme” (Chủ nghĩa tượng trưng) được coi như
bản tuyên ngôn tượng trưng (Manifeste symboliste);


trong đó Moréas đề xuất một quan niệm thi ca mới
khởi nguồn từ phái Thi Sơn (Parnasse) và đoạn tuyệt
với triết lý khoa học, vật chất của chủ nghĩa tự nhiên
(Naturalisme) lúc bấy giờ. Những đại diện tiêu biểu
cho thơ tượng trưng Pháp là Charles Beaudelaire
(1821-1867), Arthur Rimbaud (1855-1891), Paul
Verlaine (1844-1896), Guillaume Apollinaire (18801918), Paul Valéry (1871-1945) và Stéphane Mallarmé
(1842-1898).

48

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 4 - 11/2016

1. NGUYÊN TẮC MỸ HỌC TƯỢNG TRƯNG
Mỹ học tượng trưng quan niệm giữa vũ trụ và con
người có một mối tương giao bí ẩn: tương giao về ý
niệm, về cảm giác, về không gian, về màu sắc, về mùi
vị... Với quan niệm tâm linh về thế giới (conception
spirituelle du monde), các nhà thơ theo chủ nghĩa
tượng trưng cho rằng thế giới hữu hình chỉ là hình
ảnh, là cái bóng, là tượng trưng cho một thế giới
vô hình huyền bí. Nếu như chủ nghĩa lãng mạn
(Romantisme) giao cảm với thiên nhiên chủ yếu bằng
trực cảm (perception directe) qua cách miêu tả cụ thể
bằng hình ảnh thì thơ tượng trưng gợi lên mối tương
hợp, tương giao (analogie, correspondance) giữa con
người và vũ trụ thông qua các biểu tượng được cảm
nhận bằng trực giác (intuition).



VĂN HÓA - VĂN HỌC v

Trong bài Tương hợp (Correspondances) in trong tập
thơ Hoa khổ đau (Les fleurs du Mal, 1857), Charles
Beaudelaire, người đi tiên phong cho trường phái thơ
tượng trưng Pháp đã thể hiện rất rõ quan điểm mỹ
học của mình qua những vần thơ đầy biểu tượng:
“La Nature est un temple où de vivants piliers
Laissent parfois sortir de confuses paroles:
L’homme y passe à travers des forêts de symboles
Qui l’observent avec des regards familiers.”
Rõ ràng yếu tố thần bí của vũ trụ, thiên nhiên
(Nature) được hình tượng hóa qua hình ảnh ngôi
đền (temple) với những cây cột sống (vivants piliers)
tựa như những cây lớn trong khu rừng biểu tượng
(forêts des symboles) nơi con người (homme) phải
băng qua. Con người được nói đến ở đây ngầm hiểu
là nhà thơ; hình ảnh con người vượt qua những khu
rừng để đến ngôi đền là hình ảnh ẩn dụ về hành
trình cảm nhận bằng trực giác, hành trình nhà thơ
đi tìm cái bí ẩn của thế giới vô hình-thế giới đích
thực. Nhà thơ quan niệm biểu tượng (symboles) tựa
như những lời nói không rõ ràng (confuses paroles),
là những dấu hiệu cụ thể biểu đạt một ý nghĩa trừu
tượng, phản ánh thế giới siêu hình huyền bí, nơi mọi
thứ hòa quyện thành một thực thể thống nhất (une
ténébreuse et profonde unité) mà ở đó mùi hương,
màu sắc và âm thanh hòa hợp với nhau. (Les parfums,

les couleurs et les sons se répondent.)
2. QUAN ĐIỂM THƠ CA
Xuất phát từ quan điểm mỹ học nói trên, các nhà thơ
tượng trưng rất chú trọng đến quan niệm tương ứng
các giác quan. Với Paul Verlaine, thơ là sự dao động
kéo dài giữa âm thanh và ý nghĩa (La poésie, cette
hésitation prolongée entre le son et le sens).
Rimbaud lại cho rằng, người nghệ sĩ phải đến với
thơ ca bằng con đường thấu thị của một kẻ có thiên
nhãn: Thi sĩ phải làm cho mình thành người có thiên
nhãn bằng sự rối loạn lâu dài, rộng khắp và có sự suy
tính tất cả các giác quan (Le poète se fait voyant par
un long, immense et raisonné dérèglement de tous
les sens), bởi lẽ các giác quan gắn bó ta với thực tại,
trở thành tấm màn chắn ngăn ta chẳng thấy được gì
xa hơn…
Các nhà thơ tượng trưng Pháp coi thơ như một thứ
siêu cảm giác, không giải thích được. Thơ tượng
trưng là kẻ thù của các hình thức giáo khoa, ngâm

nga, cảm xúc giả tạo, mô tả chủ quan (ennemie de
l’enseignement, la déclamation, la fausse sensibilité, la
description objective), nghĩa là thơ phải gợi chứ không
vẽ các đường nét, hình thể.
Bàn về vấn đề này, chủ soái của thơ tượng trưng Pháp,
Stéphane Mallarmé, đã chỉ rõ: Thơ không phải là vẽ
một sự vật mà vẽ hiệu ứng do sự vật đó tạo ra (Peindre
non une chose mais l’effet qu’elle produit).
Trong một tuyên ngôn khác, nhà thơ lý giải một cách
cụ thể hơn: Gọi tên một vật, tức là làm giảm đi ¾ niềm

hạnh phúc được khám phá dần dần một bài thơ: Gợi
ra nó mới thực sự là lý tưởng. Đó chính là việc sử dụng
nhuần nhuyễn những bí ẩn, những biểu tượng: gợi
dần dần một vật để diễn đạt tâm trạng hoặc ngược lại
chọn một vật, giải mã nó để diễn đạt một tâm trạng.
(Nommer un objet, c’est supprimer les trois quarts de la
jouissance du poème qui est faite du bonheur de deviner
peu à peu: le suggérer, voilà le rêve. C’est le parfait
usage de ce mystère qui constitue le symbole: évoquer
petit à petit un objet pour montrer un état d’âme, ou,
inversement, choisir un objet et en dégager un état
d’âme, par une série de déchiffrements.)
Theo đó, thơ tượng trưng không cần hình tượng rõ nét
và phải gắn chặt với âm nhạc. Mỗi bài thơ là một bản
hòa âm huyền ảo, mỗi lời thơ là một điệu nhạc, mỗi
từ trong thơ phải gắn liền với một nốt nhạc. Về điểm
này, trong bài thơ Nghệ thuật thi ca (Art poétique),
Paul Verlaine đã khẳng định âm nhạc là nghệ thuật
cao siêu nhất vượt trên tất cả: “De la musique avant
toute chose”. Âm nhạc chắp cánh cho thơ bay cao (Que
ton vers soit la chose envolée), phiêu du trong làn gió
run rẩy sớm mai (Que ton vers soit la bonne aventure.
Eparse au vent crispé du matin). Âm nhạc thổi tâm hồn
vươn tới những khung trời lạ, những tình yêu mới mẻ
(Qu’on sent qui fuit d’une âme en allée. Vers d’autres
cieux à d’autres amours.) Và những gì đọng lại chính là
văn học, là thi ca (Et tout le reste est littérature.)
3. MỘT SỐ NÉT ĐẶC TRƯNG VỀ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT
3.1. Về nội dung
Chủ đề yêu thích của các nhà thơ tượng trưng là sự

chết chóc, sự huyền bí, mờ ảo, là nỗi buồn, là những
giấc mộng, những cảnh sắc phản chiếu góc khuất
tâm hồn. Điểm này được thể hiện tương đối rõ ngay
trong tiêu đề các tuyển tập thơ, các bài thơ tượng
trưng. Đó là những thi phẩm trong Hoa khổ đau (Les
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 4 - 11/2016

49


v VĂN HÓA - VĂN HỌC

fleurs du Mal) của Charles Beaudelaire: Ái tình và sọ
người (L’amour et le crâne), Thuốc độc (Le poison),
Rượu của kẻ sát nhân (Le vin de l’assassin), Cái chết
của tình nhân (La mort des amants), Cái chết của nghệ
sỹ (La mort des artistes), Cái chết của người nghèo (La
mort des pauvres), Người chết vui vẻ (Le mort joyeux),
Chiều hoàng hôn (Le crépuscule du soir), Khúc chiều
tà (Harmonie du soir), Bóng tối (Les ténèbres), Nỗi
buồn của mặt trăng (Tristesses de la lune), Sương mù
và mưa (Brumes et pluies)... Đó là Một mùa ở địa ngục
(Une saison en Enfer), Vũ điệu của những người bị treo
cổ (Bal des pendus), Người ngủ trong thung lũng (Le
dormeur du val), Giấc mộng nghèo (Le pauvre songe)
của Arthur Rimbaud. Đó là Cái chết (La mort), Đào
huyệt (L’enterrement), Mưa trong tim (Il pleure dans
mon coeur), Giấc mơ quen thuộc (Mon rêve familier),

Thu ca (Chanson d’automne), Ánh trăng (Clair de
lune) của Paul Verlaine; là Mộ phần (Tombeau), Nỗi
kinh hoàng (Angoisse), Lâu đài hi vọng (Le château de
l’espérance), Giấc mơ cổ đại (Rêve antique), Hạ buồn
(Tristesse d’été) của Stéphane Mallarmé…
Soi vào hoàn cảnh lịch sử của nước Pháp thế kỷ XIX,
chúng ta có thể lý giải tại sao các nhà thơ tượng
trưng Pháp lúc bấy giờ lại mang tâm trạng buồn bã,
chán chường, tuyệt vọng vào thơ ca như vậy. Bất
bình, hoang mang trước một xã hội đầy rẫy những
biến động, nhà thơ nhiều lúc muốn chối bỏ thực tại,
có lúc muốn tìm đến cái chết, có khi lại tìm về một
quá khứ huy hoàng hoặc bay đến thế giới tương lai
mộng tưởng.
3.2. Về nghệ thuật
3.2.1. Sử dụng biểu tượng (symbole), hình ảnh so sánh
(comparaison), ẩn dụ (métaphore)
Như trên chúng tôi đã trình bày, thơ tượng trưng đề
cao tính bí ẩn, huyền diệu của thi ca. Để gợi lên thế
giới vô hình, các nhà thơ tượng trưng thường sử dụng
những biểu tượng, hình ảnh so sánh, ẩn dụ nhằm
biểu đạt một cách gián tiếp, ngầm ẩn thông điệp cần
truyền tải cho độc giả. Điểm này hoàn toàn khác với
lối miêu tả và biểu lộ tình cảm trực tiếp của chủ nghĩa
lãng mạn. Chúng ta hãy cùng phân tích bài thơ Chim
hải âu (L’albatros) của Charles Beaudelaire để hiểu
thêm về đặc điểm này.
Ba khổ thơ đầu vẽ ra một cảnh đại dương mênh mông
qua hình ảnh con tàu (navire), những vực sâu chết
người (les gouffres amers), những người thủy thủ (les


50

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 4 - 11/2016

hommes d’équipage) và những chú chim hải âu (des
albatros) - vua của biển cả (ces rois de l’azur) với đôi
cánh rộng màu trắng (leurs grandes ailes blanches)…
để rồi đến khổ thơ cuối, tác giả đột ngột chuyển
hướng nói về Thi sĩ (Le Poète):
“Le Poète est semblable au prince des nuées
Qui hante la tempête et se rit de l’archer;
Exilé sur le sol au milieu des huées,
Ses ailes de géant l’empêchent de marcher.”
Vậy ra chim hải âu chỉ là biểu tượng, nói cách khác
là hình ảnh tượng trưng cho Thi sĩ. “Thi sĩ giống vua
ngàn mây gió. Khoái phong ba, cung nỏ xá chi. Lưu đầy
giữa tiếng cười chê. Mang đôi cánh rộng khó bề bước đi”
(Phạm Nguyên Phẩm). Thi sĩ - người được các nghệ
sĩ theo chủ nghĩa tượng trưng coi là nắm giữ quyền
lực duy nhất để giải mã thế giới vô hình - lại trở nên
kẻ tội đày cô độc (exilé sur le sol au milieu des huées)
trong con mắt người đời. Sự cô đơn, nỗi khổ đau của
Thi sĩ được gợi lên qua hình ảnh những chú chim hải
âu bị đám thủy thủ hành hạ, trêu chọc làm trò tiêu
khiển, mua vui: “Người dùng tẩu gõ chim chơi. Kẻ thời
bắt chước chim trời què chân.” (Phạm Nguyên Phẩm)
(L’un agace son bec avec un brûle-gueule. L’autre mime,

en boîtant, l’infirme qui volait !)
Một ví dụ khác minh chứng cho nghệ thuật sử dụng
biểu tượng, ẩn dụ, uyển ngữ tài tình của các nhà thơ
tượng trưng Pháp: Bài thơ Người ngủ trong thung lũng
(Le dormeur du val) của Arthur Rimbaud.
Mở đầu bài thơ, tác giả vẽ cảnh một thung lũng xanh
rờn, nơi có suối hát ca, cỏ mọc đua chen, nơi lấp lánh
những tia nắng bạc rọi xuống từ đỉnh núi cao vót:
“C’est un trou de verdure où chante une rivière,
Accrochant follement aux herbes des haillons
D’argent ; où le soleil, de la montagne fière,
Luit : c’est un petit val qui mousse de rayons.”
Khổ thơ thứ hai đi vào cận cảnh một người lính trẻ
đang ngủ say sưa trên thảm cỏ, gối đầu trần lên đám
cải xanh, làn da tái nhợt dưới ánh nắng mặt trời:
“Un soldat jeune, bouche ouverte, tête nue,
Et la nuque baignant dans le frais cresson bleu,
Dort ; il est étendu dans l’herbe, sous la nue,
Pâle dans son lit vert où la lumière pleut.”
Những khổ thơ kế tiếp vẫn miêu tả người lính ấy
nhưng nhấn vào những dấu hiệu bất bình thường: nụ


VĂN HÓA - VĂN HỌC v

cười như đứa trẻ bị bệnh (Souriant comme; Sourirait
un enfant malade), cái lạnh của người lính giữa ngày
nắng rực (Nature, berce-le chaudement: il a froid), cánh
mũi bất động (Les parfums ne font pas frissonner sa
narine). Bài thơ khép lại với hình ảnh hai lỗ màu đỏ

trên ngực phải của chàng trai (Tranquille. Il a deux
trous rouges au côté droit.), hé lộ một sự thật đau
lòng: Người lính trẻ đã hi sinh. Nhà thơ không dùng
những từ như chết chóc (mourir), máu (sang) để nói
về sự hi sinh của người lính, mà sử dụng uyển ngữ
“người ngủ” (dormeur), “ngủ” (dormir), “ngủ trưa” (faire
un somme), kết hợp những dấu hiệu gợi mở (signes
suggestifs ou révélateurs) cùng hình ảnh ẩn dụ “deux
trous rouges au côté droit” để chỉ hai vết thương chảy
máu trên ngực chàng trai. Cái tài của Rimbaud là ở
đó, chỉ gợi chứ không nói thẳng ra, làm cho người
đọc phải khám phá; hiệu ứng của câu trả lời ở cuối
bài thơ nhờ thế càng được nâng lên. Bài thơ thực chất
là một bản cáo trạng chiến tranh dù không mảy may
đả động đến những từ chiến tranh, đổ máu, hi sinh,
chết chóc như lẽ thường. Nỗi đau, sự tàn phá mà chiến
tranh gây ra được khắc họa bằng sự đối lập đầy ẩn ý
qua hình ảnh người lính trẻ tuổi đời phơi phới lại phải
từ giã cuộc sống tươi đẹp (được ngầm ví với thung
lũng xanh non ngập tràn ánh nắng và sự sống); qua
hiệu ứng sắc màu (màu bạc của nắng - argent, màu
xanh của cỏ cây - vert, màu xanh tái của làn da - pâle,
màu đỏ nhức nhối của vết thương - rouge). Thông
điệp tố cáo chiến tranh không vì thế mà mờ nhạt, trái
lại còn khắc sâu trong tâm trí người đọc bởi cái kết
đau thương, bất ngờ.
3.2.2. Tính nhạc (Musicalité)
Cùng với việc dùng biểu tượng, ẩn dụ để gợi tâm
trạng, gợi thông điệp, các nhà thơ tượng trưng mặc
dù rất chuộng thể thơ tự do song cũng đặc biệt chú

ý tới vần (rime) và nhịp (rythme) tạo cho thơ mang
đậm tính nhạc.
Hãy cùng đến với bài thơ Mưa trong tim (Il pleure dans
mon coeur) của Paul Verlaine để cảm nhận những nốt
nhạc ấy. Nhịp thơ biến đổi uyển chuyển từ 3/3 sang
2/4, tựa như tiếng mưa rơi tí tách: “Ô bruit doux de la
pluie. Par terre et sur les toits!” Lối gieo vần cũng rất
lạ, không phải theo kiểu đan chéo (rimes croisées ABAB) hay bao bọc (rimes embrassées - ABBA) thường
gặp mà gieo ba lần một vần trong một khổ thơ bốn
câu (ABAA); khổ thơ thứ nhất và thứ ba gieo rime
masculine (coeur, langueur, coeur/raison, trahison,
raison), hai khổ còn lại gieo rime féminine (kết thúc

bởi e câm: pluie, s’ennuie, pluie/peine, haine, peine).
Chính sự lặp lại của các âm, các vần, đặc biệt là âm
[r] tràn ngập đã tạo nên chất nhạc cho bài thơ, êm
ái, du dương, đượm buồn man mác. Cái Tôi trữ tình
của nhà thơ giao cảm với mưa theo kiểu “Người buồn
cảnh có vui đâu bao giờ.” Bài thơ có thể ví như một sự
hòa quyện giữa mưa ngoài đời và mưa trong lòng tác
giả. Mỗi từ ngân lên như một nốt nhạc hòa thành một
khúc mưa buồn. Cũng dễ hiểu tại sao bài thơ lại được
Christophe Bourdoiseau giữ nguyên vẹn phần lời và
phổ nhạc thành bài hát cùng tên.
3.2.3. Sự sáng tạo về ngôn từ
Một điểm nổi bật khác của thơ tượng trưng Pháp là sự
sáng tạo về ngôn từ, trong đó phải kể đến Stéphane
Mallarmé, người được coi là thần tượng của trường
phái Tượng trưng. Mallarmé thật sự đã thay đổi quan
niệm thơ ca, khai phóng ngôn ngữ. Theo ông, thơ ca là

tôn giáo, là ngôn ngữ tượng trưng cho cuộc đời. Ông
tìm kiếm một thứ ngôn ngữ toàn diện, mới mẻ, xa lạ
với ngôn ngữ thông thường, tựa như bùa chú, cho
phép diễn tả điều cốt lõi.
Để minh họa cho thứ ngôn ngữ thần thánh đó, khi thì
Mallarmé chọn cách chơi vần độc, vần lạ kiểu như trong
bài Móng vuốt trong sạch (Ses purs ongles…): onyx,
Phénix, ptyx, Styx, nixe, fixe, lampadophore, amphore,
sonore, s’horore, or, décor, encore, septuor, nhằm tạo
nên một không gian thần bí với đuốc, phượng hoàng,
vò cổ, vàng, mã não, thủy thần…; lúc phá cách về ngữ
pháp bằng cách ngắt tưởng chừng như vô lý chủ ngữ
và động từ của câu (Quel sépulcral naufrage, tu/Le sais,
écume, mais y baves) trong bài thơ Trên đám mây trĩu
nặng, em… (À la nue accablante, tu…); có khi lại dựa vào
những khoảng trống tạo hình từ việc trình bày thả lỏng
theo kiểu ziczac mô phỏng nội dung như trong bài thơ
May rủi (Un coup de dés jamais n’abolira le Hasard)…
Sự sáng tạo về ngôn từ ở các nhà thơ tượng trưng Pháp
còn cho độc giả được thưởng thức những hình ảnh
đẹp và mới lạ. Cùng là mùi hương nhưng tùy theo tâm
trạng mà được cảm nhận khác nhau. Nếu như trong
bài Tương hợp (Correspondances), Charles Beaudelaire
gợi lên những mùi hương mát như da thịt trẻ con, ngọt
ngào như tiếng sáo, xanh mượt như cỏ non: “II est des
parfums frais comme des chairs d’enfants,/ Doux comme
les hautbois, verts comme les prairies,” thì trong Khúc
chiều tà (Harmonie du soir), nhà thơ lại tả hương hoa
như hương trầm qua hình ảnh ví von hoa nở như lư trầm
ngút khói hương: “Chaque fleur s’évapore ainsi qu’un

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 4 - 11/2016

51


v VĂN HÓA - VĂN HỌC

encensoir ;”. Cũng trong Khúc chiều tà, Beaudelaire đã
vẽ lên một cảnh hoàng hôn đỏ rực, buồn sâu lắng qua
những hình ảnh so sánh, nhân hóa đầy táo bạo: Tiếng
dương cầm run rẩy như trái tim sầu não; bầu trời đẹp và
buồn như một hương án khổng lồ; mặt trời ngút trong
biển máu đặc quánh.
“Le violon frémit comme un coeur qu’on afflige,
Un coeur tendre, qui hait le néant vaste et noir!
Le ciel est triste et beau comme un grand reposoir;
Le soleil s’est noyé dans son sang qui se fige.”
Với những nét đặc trưng về nội dung và nghệ thuật độc
đáo nêu trên, thơ tượng trưng đã thổi luồng gió mới vào
thi đàn Pháp, góp phần tạo nên cuộc cách mạng trong
văn học Pháp những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
4. ẢNH HƯỞNG CỦA THƠ TƯỢNG TRƯNG PHÁP
ĐỐI VỚI PHONG TRÀO THƠ MỚI Ở VIỆT NAM THẾ
KỶ XX
Đầu thế kỷ XX, văn học Pháp du nhập vào Việt Nam với
một khối lượng tác phẩm dịch tương đối đồ sộ. Các
nhà văn, nhà thơ lớn thời kì này phần lớn được đào
tạo từ các trường Pháp-Việt; một số du học từ Pháp

trở về như Vũ Đình Liên, Hoàng Ngọc Phách, Chế Lan
Viên, Khái Hưng, Nhất Linh, Nguyễn Mạnh Tường...
Cùng với những bài thơ ngụ ngôn của La Fontaine,
những vở kịch của Molière, tiểu thuyết của Alexandre
Dumas, Victor Hugo, Honoré de Balzac…, những thi
phẩm nổi tiếng của các nhà thơ lãng mạn và tượng
trưng Pháp cũng theo làn sóng tràn vào Việt Nam, tạo
nên một sự khởi sắc cho phong trào Thơ Mới ở nước ta.
Nếu như thơ Thế Lữ chịu ảnh hưởng của trường phái
lãng mạn Pháp (Chateaubriand, Lamartine, Musset)
thì nhiều nhà thơ như Xuân Diệu (1916-1985), Huy
Cận (1919-2005), Chế Lan Viên (1920-1989), Hàn Mặc
Tử (1912-1940), Bích Khê (1916-1946) ở các mức độ
đậm nhạt khác nhau đều chịu ảnh hưởng của trường
phái tượng trưng.
4.1. Ảnh hưởng về quan điểm mỹ học, thi ca và chủ
đề sáng tác
Quan niệm mỹ học và thi ca của các nhà thơ tượng
trưng Pháp in dấu rất rõ trong các sáng tác của các
nhà thơ mới Việt Nam. Dấu ấn về sự tương giao,
tương hợp của vạn vật trong vũ trụ, của các giác quan
trong Thơ Mới khá rõ nét… Đó là sự hòa hợp giữa các
loại cảm giác trong thơ của Bích Khê: Nàng hé môi ra.
Bay điệu nhạc; Mát như xuân mà ngọt tựa hương (Hiện

52

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 4 - 11/2016


hình);  Nàng bước tới như sông trăng chảy ngọc; Như
nắng thơm hớp đặc cả nguồn hương (Nàng bước
tới);  Có gì uyển chuyển trong da thịt; Nức một đường
thơm một điệu êm (Châu)… Hòa hợp đến độ khó có
thể tách bạch đâu là hương thơm, màu sắc, âm thanh
bởi tất cả đã tạo thành một khối, dệt nên những hình
ảnh, điệp ngữ, liên tưởng trùng phức đầy ám gợi và
mê hoặc như trong Mộng cầm ca: “Trăng gây vàng,
vàng gây lên sắc trắng/ Của gương hồ im lặng tợ bài
thơ/ Chân nhịp nhàng, lòng nghe hương nặng nặng/
Đây bài thơ không tiếng của đêm tơ/ Trăng gây vàng,
vàng gây lên sắc trắng/ Của hồn thu đi lạc ở trong mơ.”
Thế giới được gợi ra trong Thơ Mới là một thế giới bí
ẩn, huyền diệu. Thế giới của âm nhạc, của màu sắc,
của mùi hương. Không phải vô cớ mà Thơ Mới viết
nhiều về đề tài âm nhạc như vậy. Bích Khê có tuyển
tập Nhạc và Lệ với Mộng cầm ca, Tỳ bà, Nhạc, Thi vị…
còn Xuân Diệu lại vẽ lên thế giới của thơ và nhạc với
Nhị hồ, Nguyệt cầm, Huyền diệu:
“Hãy tự buông cho khúc nhạc hường 
Dẫn vào thế giới của Du Dương 
Ngừng hơi thở lại, xem trong ấy 
Hiển hiện hoa và phảng phất hương...”
(Huyền diệu - Xuân Diệu)
Trong cái thế giới ấy, Thi sĩ, bằng trực giác tinh tế của
mình cảm nhận đến tận cùng sự giao hòa của vũ trụ,
của vạn vật để rồi đôi lúc lại thấy cô đơn, lạc lõng giữa
cuộc đời. Về điểm này, xin được trích lời đề tựa của
Chế Lan Viên cho tập thơ Điêu tàn của ông: “Hàn Mặc

Tử nói: Làm thơ tức là điên. Tôi thêm: Làm thơ là sự phi
thường. Thi sĩ không phải là Người. Nó là Người Mơ,
Người Say, Người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tỉnh,
là Yêu. Nó thoát Hiện Tại. Nó xối trộn Dĩ Vãng. Nó ôm
trùm Tương Lai.” Chúng ta có thể thấy tuy sống cách
xa nhau một thế kỉ và thuộc hai dân tộc khác nhau
nhưng trên bối cảnh xã hội có phần tương đồng nên
các nhà thơ tượng trưng Pháp và các nhà thơ mới Việt
Nam mang tâm trạng giống nhau. Đó là tâm trạng
của những người trí thức tiểu tư sản trước những biến
đổi lớn lao của xã hội, cảm thấy mình bất lực chán
nản trước thời cuộc. Dễ dàng thấy sắc màu thơ tượng
trưng Pháp trong chủ đề sáng tác của Thơ Mới: Chế
Lan Viên với tập thơ Điêu tàn ngập tràn Trăng, Mộng,
Cái sọ người, Mồ không, Những nấm mồ, Xương khô,
Đám ma, Đầu rơi, Xương vỡ máu trào, Hồn trôi, Bóng
tối, Đêm tàn, Đêm xuân sầu, Mơ trăng, Tắm trăng, Ngủ
trong sao…; Hàn Mặc Tử với tập thơ Hương thơm,


VĂN HÓA - VĂN HỌC v

Mật đắng, Máu cuồng và hồn điên; Huy Cận với Buồn,
Buồn đêm mưa, Chiều xưa, Chết, Bi ca, Tràng Giang…
Xuân Diệu có Buồn trăng, Bến đêm biếc, Chiều, Chiều
đầu thu, Thu, Đây mùa thu tới, Ý thu, Huyền Diệu, Anh
đã giết em… còn Bích Khê nổi tiếng với tập thơ Tinh
huyết đầy rẫy Sọ người , Nấm mộ, Giờ trút linh hồn, Hiện
hình, Mộng, Xuân tượng trưng, Mơ tiên…
4.2. Ảnh hưởng trên bình diện nghệ thuật

Cùng với sự tiếp thu quan điểm mỹ học của trường
phái tượng trưng, các nhà thơ của phong trào Thơ
Mới Việt Nam thiên về sử dụng phép ẩn dụ, gợi nhiều
hơn tả. Nếu như ảnh hưởng của thơ tượng trưng
trong Đây mùa thu tới của Xuân Diệu là sự “thức nhọn
giác quan” để cảm nhận cái bước chuyển mùa rất cụ
thể, sinh động với “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang/
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng. Đây mùa thu tới,
mùa thu tới./ Với áo mơ phai dệt lá vàng.” thì trong Tỳ
bà, Bích Khê lại đi vào phía tiềm ẩn của mùa thu, tiến
đến một biểu tượng “vàng” trực giác bằng ý niệm:
“Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông”.
Bức tranh thu ở đây không được vẽ bằng hình ảnh
cụ thể nào mà được gợi lên bằng một khối vàng bao
trùm lên hết thảy, nhuốm chìm cả “cây ngô đồng”
trong nỗi “buồn vương”. Đó không phải là nàng thu
với vóc hình cụ thể mà là nàng thu mơ hồ trong ý
niệm: “Thu mênh mông”. Đều chịu ảnh hưởng của
chủ nghĩa tượng trưng nhưng thu của Xuân Diệu
được cảm nhận bằng trực cảm, nhấn vào sự tương
hợp của các giác quan còn thu trong thơ Bích Khê là
thu của trực giác, thu trong ý niệm, mơ hồ, huyền ảo.
Rồi cùng là tả màu xanh, trong khi Hàn Mặc Tử ví“Vườn
ai mướt quá, xanh như ngọc” (Đây thôn Vĩ Dạ) hay
Xuân Diệu tả “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá” (Thơ
duyên) thì Bích Khê chỉ gợi lên một màu của trực giác,
mang tính biểu tượng trong bài Hoàng hoa:  “màu
lưng chừng trời”, “màu phơi nơi nơi”. Tóm lại là một loại
màu tượng trưng, tinh tế, huyền diệu không thể vẽ

lại bằng hội họa. Rõ ràng sắc thái ảnh hưởng của chủ
nghĩa tượng trưng ở các nhà thơ mới có những nét
khác biệt trong tương đồng. “Xuân Diệu đứng cả hai
chân vững vàng ở bờ lãng mạn với tay hái những chùm
tượng trưng, Hàn Mặc Tử thì cả hai chân cũng đứng
vững trên nền của chủ nghĩa lãng mạn, nhưng hai chân
cứ nhún nhảy […] một cách điệu nghệ với tượng trưng,
siêu thực […] Còn Bích Khê thì một chân trụ vững ở bờ

chủ nghĩa lãng mạn nhưng một chân kia đã đưa sang
và gần chạm đến bờ tượng trưng chủ nghĩa một cách có
chủ ý, ngay từ đầu cầm bút.” (Mai Bá Ấn, 2011)
Một điểm tương đồng nữa trong thơ tượng trưng
Pháp và Thơ Mới, đó là tính nhạc. Xin được dẫn bài
Hoàng hoa của Bích Khê làm minh chứng:
Ở Hoàng hoa, cũng như Tỳ bà, chất nhạc bao trùm
lên toàn bài thơ ba khổ sáu câu, bảy chữ toàn vần
bằng. Nhạc tính ở đây còn được Bích Khê “kí âm” bằng
kiểu lặp ngữ, lặp từ, lặp vần thường thấy trong âm
nhạc (“Đây mùa hoàng hoa, mùa hoàng hoa”, rồi “Ngàn
khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi”)  hoặc những câu đầy
âm vang (“Làm mây theo chàng lên yên nhung”, “Non
yên tên bay ngang muôn đầu”, “Ai xây mồ hoa chôn đời
tươi”)... Cách ngắt nhịp trong toàn bài thơ cũng góp
phần làm đậm thêm chất nhạc: Lấy nhịp 2/2/3 làm
“tiết tấu” chủ đạo (chủ âm) ở ngay khúc dạo đầu; xen
kẽ một vài tiết tấu lạ nhịp 4/3, 2/2/1/2, 2/5 rồi lại trở về
hợp âm chính theo nguyên tắc của nhạc. Đọc bài thơ
mà ngỡ như đang hát. Muốn hát nhưng đó lại là thơ.
Ấy chính là thơ tượng trưng.

Cuối cùng, không thể không kể đến những đóng góp
của phong trào Thơ Mới trong việc cách tân thi ca, từ
việc đi khai phá những chủ đề mới lạ với một nhãn
quan mới lạ đến việc giải phóng ngòi bút cho ra đời
những tứ thơ cũng không kém phần mới lạ.
 Chịu ảnh hưởng của Mallarmé về cú pháp, với ý thức
cách tân, Bích Khê không thôi tìm tòi và sáng tạo,
đưa ngôn ngữ thơ lại gần hơn những bộ môn nghệ
thuật khác.
“Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới
Của lời thơ lóng đẹp. Hạt châu trong
Hạt châu trong ngời nhỏ giọt vô lòng
Tràn âm hưởng như chiều thu sóng nắng”
(Duy Tân)
Ngoài kiến trúc là là mỹ thuật: “Hỡi hội họa đến muôn
đời nức nở.”; là điêu khắc:  “Chữ điêu khắc, tỉa nghệ
thuật sâu câm - Đầy thẩm mỹ như một pho thần tượng”;
là âm nhạc: “Ròng âm nhạc của lòng trai ấp mái”; là vũ
đạo: “Múa song song khiêu vũ dưới đêm hồng”; là nhiếp
ảnh: “Đường nhiếp ảnh sắc khua màu”.
Cũng trong Duy tân, Bích Khê đã tạo sự phá cách về
lối trình bày thơ với những khoảng trống phảng phất
chất Mallarmé trong bài thơ May rủi.
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 4 - 11/2016

53



v VĂN HÓA - VĂN HỌC

“Mộng?
Thiên tài?
Trên hỗn độn khỏa thân.
Đẹp tỷ mỷ, hỡi rung động truyền thần.”

“Hồn tôi như đỉnh hương
Bốc lên mình thánh giá!
Ý xuân mát đến xương
Ngậm tuyết phun lã chã.”

Sự sáng tạo về ngôn từ, cú pháp của các nhà thơ mới
mang dấu ấn thơ tượng trưng Pháp khá rõ nét. Ở
Xuân Diệu, đó là việc Việt hóa những cấu trúc, những
cách diễn đạt phương Tây “plus d’un/une” (hơn một),
“voilà” (này đây), voici (này kia), “c’est” (đó là/đây là):
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh”
(Đây mùa thu tới)
“Của ong bướm này đây tuần trăng mật; 
Này đây hoa của đồng nội xanh rì; 
Này đây lá của cành tơ phơ phất; 
Của yến anh này đây khúc tình si. 
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi; 
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;”
(Vội vàng)
Là người tiếp thu nhuần nhuyễn phép tương giao
của lối thơ tượng trưng Pháp, Xuân Diệu đã phát huy
triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và

mô tả thế giới bằng đầy đủ các giác quan. Những tứ
thơ lạ ra đời từ đó: “Mùi tháng năm đều rớm vị chia
phôi”, “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”, “Này
lắng nghe em khúc nhạc thơm/ Say người như rượu tối
tân hôn;”,“Ta muốn ôm/ Cả sự sống mới bắt đầu mơn
mởn;/ Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,/ Ta muốn say
cánh bướm với tình yêu,/ Ta muốn thâu trong một cái
hôn nhiều/ Và non nước, và cây, và cỏ rạng,/ Cho chếnh
choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng/ Cho no nê
thanh sắc của thời tươi;/ - Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn
vào ngươi!”
Nhiều tứ thơ của Beaudelaire cũng truyền cảm hứng
cho các nhà thơ mới Việt Nam. Bài Đi giữa đường
thơm của Huy Cận chẳng phải đã mượn tứ thơ của
Beaudelaire đó sao: “Đường trong làng: hoa dại với mùi
rơm.../ Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm,/ Lòng
giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng./ […] Lên bề cao
hay đi xuống bề sâu?/ Không biết nữa - Có chút gì làm
ngợp/ Trong không khí... hương với màu hòa hợp...” (Les
parfums, les couleurs et les sons se répondent.) Hình
ảnh hoa nở như đỉnh hương của Beaudelaire (Chaque
fleur s’évapore ainsi qu’un encensoir) đã được Bích Khê
vận dụng một cách tài tình trong Xuân tượng trưng:

54

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 4 - 11/2016


Tiếp thu quan niệm mới mẻ của Beaudelaire cho rằng
cái đẹp không ở trong một thế giới riêng mà nằm ngay
trong những điều tầm thường nhất, thậm chí ngay
trong cái Ác, cái Xấu, Bích Khê đã biến Sọ người thành:
“Ôi khối mộng của hồn thơ chếnh choáng!
 Ôi buồng xuân hơ hớ cánh đào sương!
Ôi bình vàng! ôi chén ngọc đầy hương!
 Ôi hồ nguyệt đọng nhiều trăng lấp loáng!
 Ôi thần tình! Người chứa một trời thương.”
 Người đọc như thả hồn trong thế giới Sọ người của Bích
Khê với “khối mộng”, “hồn thơ”, “buồng xuân”, “cánh đào
sương”, “bình vàng”, “chén ngọc”, “hồ nguyệt”… Tất cả
gợi lên bóng dáng của một thế giới thần tiên, đầy “một
trời thương”, xua tan mọi cảm giác sợ hãi về sự vật được
miêu tả. Sự “vay mượn” này cũng dễ hiễu khi trong bài
thơ Ăn mày, Bích Khê đã gọi tên Charles Baudelaire với
sự ngưỡng vọng và niềm tôn kính sâu xa:
Baudelaire! Người là Vua Thi Sĩ!
Cho xin trụm bao nhiêu mùi thi vị,
Phả hơi lên, truyền nhiễm thấu trần ai…
Sức ảnh hưởng của các nhà thơ tượng trưng Pháp
cũng đi vào thơ Xuân Diệu trong bài Tình trai:
“Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine
Hai chàng thi sĩ choáng hơi men
Say thơ xa lạ, mê tình bạn
Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen.”
Có thể nói, thơ tượng trưng Pháp là nguồn mạch
quan trọng góp phần làm đổi mới thơ ca Việt Nam
hiện đại trong những thập niên đầu thế kỷ XX, đặc
biệt là phong trào Thơ Mới. Tuy nhiên, TS. Trần Huyền

Sâm phát hiện: “Mỗi nhà thơ chịu ảnh hưởng của chủ
nghĩa tượng trưng ở mỗi phương diện khác nhau, phù
hợp với quan điểm thẩm mỹ của mình. Và ngay trong
mỗi nhà thơ, tính chất lãng mạn và tượng trưng luôn
giao thoa cùng nhau. Xuân Diệu tìm thấy ở chủ nghĩa
tượng trưng một bản nhạc huyền diệu giữa ánh sáng,
hương thơm và màu sắc. Vũ Hoàng Chương và Bích Khê
tìm thấy một thế giới âm nhạc mênh mông, hư ảo. Hàn
Mạc Tử tìm trong thế giới vô thức, siêu thực, bí ẩn.” (Trần
Huyền Sâm, 2002)


VĂN HÓA - VĂN HỌC v

5. DOUMIC R. (1901), Les oeuvres complètes de Paul
Verlaine, Revue des Deux Mondes, 5è période, tome 1.

Nghiên cứu thơ tượng trưng Pháp, kết hợp đối chiếu
với thơ ca Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX không
chỉ giúp chúng ta hiểu thêm những nét đặc trưng về
nội dung và nghệ thuật của trường phái thơ hiện đại
này mà còn thấy được những nét giao thoa về ngôn
ngữ, văn hóa của hai quốc gia, hai dân tộc. Sức mạnh
của thi ca có thể làm “mềm” đi những bất đồng, làm
cho những trái tim xích lại gần nhau hơn trên con
đường tìm kiếm những giá trị Chân, Thiện, Mỹ./.

6. HÀ Văn Lượng, Những ảnh hưởng của văn học
phương Tây đối với văn học Việt Nam hiện đại, Tạp chí
Sông Hương số 141 (Tháng 11).


Tài liệu tham khảo:

8. LEPAGE M. (1995), Le Symbolisme, Revue bimestrielle
no 372, Broché.

1. BARTHES R. (1973), Le plaisir du texte, Le Seuil.
2. BEAUDELAIRE C. (1857), Les Fleurs du Mal, Auguste
Poulet-Malassis.
3. CHRISTOPHE B. (2008), L’édition originale d’Une
Saison en enfer d’Arthur Rimbaud, Revue d’histoire
litté raire de la France, Vol 108, p.651-665.
4. DURAND P. (2008), Mallarmé. Du sens des formes au
sens des formalités, Le Seuil.

7. HOÀNG Nhân (1998), Phác thảo quan hệ Văn học
Pháp với Văn học Việt Nam hiện đại, NXB Mũi Cà Mau.

9. MAI Bá Ấn (2011), Bích Khê và chủ nghĩa tượng trưng,
PhongDiep.net.
10. NGUYỄN Thanh Mừng (1992), Bích Khê - Tinh hoa
và Tinh huyết, NXB Hội Nhà văn.
11. TRẦNHuyềnSâm(2002),Tiếngnóithơca,NXB Vănhọc.
12. RINCÉ D., LECHERBONNIER B. (1986), Littérature du
XIXè textes et documents, Nathan.

FRENCH SYMBOLIC POETRY: CHARACTERISTICS AND INFLUENCES ON NEW POETRY
MOVEMENT IN VIETNAM
NGUYEN THI THU HOA
Abstract: Symbolist poetry represents a modern school of poetry first launched in France in

1886. Symbolist poet emphasize the correspondence between the senses, perceiving the world
intuitively; prefer using symbols and metaphors to inspire emotions to applying concrete
description. Therefore, symbolist poetry is verbal creativity, rich in music and always contains
mysterious elements of an unseen world. Ideology and style of French symbolists poets has blown
a new wind into the New Poetry Movement in Vietnam. The study of the French symbolist poetry
and her influence on modern Vietnamese poetry in the first years of the twentieth century helps
people who learn two languages, two cultures to have an overview of symbolist poetry, of crossculture and cross-language of Vietnam and France in a turning point in the history flow.
Keywords: Symbolism, Frech symbolic poetry.

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 4 - 11/2016

55



×