DIỄN ĐÀN
XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
Trong xu hướng toàn cầu hóa, các đô thị
muốn tồn tại và phát triển không những phải
cạnh tranh với các đô thị trong nước, trong khu
vực mà cả với các đô thị trên thế giới. Việc nghiên
cứu về năng lực cạnh tranh đô thị đã được các
học giả và các nhóm học giả tiến hành trong
những thập niên vừa qua. Nhiều nhà nghiên
MÔ HÌNH
CẠNH TRANH ĐÔ THỊ
VÀ CÁC YẾU TỐ
ẢNH HƯỞNG
cứu sử dụng các phương pháp cũng như tạo
ra những công cụ để phân tích đánh giá năng
lực cạnh tranh của các địa phương trong đó có
các đô thị. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu
chủ yếu tập trung vào yếu tố kinh tế nhằm xác
định vị trí cạnh tranh; các lĩnh vực khác như xã
hội, lịch sử, văn hoá, pháp luật, chính trị, môi
trường ... chưa nhận được sự quan tâm hoặc đã
có nhưng ở mức độ khá khiêm tốn. Nghiên cứu
năng lực cạnh tranh đô thị dưới góc độ những
khái niệm, các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực
cạnh tranh trên cơ sở hệ thống hóa thành mô
TS. Phạm Văn Bộ*
*Phó Giám đốc Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị
16 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
hình với các yếu tố bên ngoài và bên trong đô
thị sẽ được đề cập trong nghiên cứu này.
Đối tượng nghiên cứu: Các yếu tố chính ảnh hưởng
trong mô hình cạnh tranh đô thị.
Mục tiêu nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu các lý
thuyết cơ bản và những nội dung liên quan đến hoạt
động của đô thị, đưa ra các yếu tố và các nhân tố then
chốt của môi trường vĩ mô và môi trường vi mô ảnh
hưởng đến cạnh tranh của một thành phố đương đại
trong một mô hình cạnh tranh để thấy rõ được bức tranh
tổng thể.
Phương pháp nghiên cứu: Phân tích những lý thuyết
liên quan để phân tích vấn đề như lý thuyết đô thị, chính
sách công, quản lý, kinh tế học, xã hội học và địa lý. Nền
tảng của nhận thức luận và phương pháp luận của nghiên
cứu dựa trên cơ sở những lý thuyết như lý thuyết về cạnh
tranh, lý thuyết hệ thống, lý thuyết về tổ chức, lý thuyết
về phát triển đô thị, lý thuyết về cải tiến quản lý. Để xác
minh cơ sở lý thuyết nhằm đưa ra các yếu tố cạnh tranh
chính của đô thị, nghiên cứu thực nghiệm đã được tiến
hành. Các chuyên gia đại diện cho các tổ chức của chính
quyền địa phương và quốc gia, các đơn vị kinh doanh và
các tổ chức phi chính phủ được phỏng vấn.
Các vấn đề về cạnh tranh đô thị dưới giác độ lý thuyết
đã được phân tích bằng cách sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học sau: Phân tích theo hệ thống, phân
tích so sánh và logic các tài liệu khoa học, phân tích
trường hợp cụ thể, phân loại, dự đoán, mô hình lý thuyết,
giải thích, tổng quát lý thuyết.
KHÁI NIỆM CẠNH TRANH ĐÔ THỊ
Đô thị là trung tâm và động lực cho sự phát triển kinh
tế - xã hội của quốc gia và quốc tế. Các đô thị góp phần
lớn để các quốc gia đạt được các mục tiêu của đất nước
đã đặt ra và các đô thị cũng đại diện cho các tâm điểm
của sự tồn tại và lối sống của con người. Sự thịnh vượng
của dân cư hầu hết các đô thị trên thế giới phụ thuộc rất
lớn vào cơ chế của chính quyền địa phương. Những khía
cạnh quan trọng của một đô thị được trình bày bằng khái
niệm sau đây: Các đô thị là các đơn vị hành chính cấp
dưới của quốc gia, có sự phân bổ dân cư với ranh giới
đường biên xác định rõ ràng theo luật định, có quyền tự
chủ về quản trị, một bộ phận lớn dân cư đô thị làm việc ở
những ngành phi nông nghiệp.
Có thể tóm tắt những quan điểm của những nhà khoa
học đưa ra những nhận định khác nhu về đô thị như sau:
Đô thị là một tiến trình; Đô thị là một hệ thống; Đô thị
là nơi chốn; Đô thị là kết quả; Đô thị là tổ chức; Đô thị là
những chức năng.
Dựa trên cơ sở hai quan điểm đầu tiên, chúng ta có sơ
đồ như sau:
Sơ đồ 1: Đô thị là một hệ thống
Để đưa ra khái niệm về cạnh tranh, người ta đã đưa ra
bốn nhóm quan điểm chính sau:
1) Quan điểm về năng lực cạnh tranh và/ hoặc lợi thế
cạnh tranh (Durand and Giorno, 1987; Fagerberg, 1988),
2) Các nghiên cứu thực nghiệm (Fakiolas, 1985, Clegg,
1987, Fagerberg, 1988, Porter, 1990, Cartwright, 1993,
Rugman và D.Cruz, 1993),
Số 55.2017
XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
17
DIỄN ĐÀN
XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
3) Quan điểm chiến lược và quản lý (Day and Wensley,
1988, Yip, 1989, Porter, 1985, 1990, 1999, D.Cruz và
Rugman, 1993, Peters, 1988, Porter and Millar, 1985,
Kogut, 1985),
4) Quan điểm lịch sử và văn hoá-xã hội (Hofstede,
1980, 1983, Kenedy, 1987, Hofstede và Bond, 1988,
Aakers, 1989, Franke và cộng sự, 1991).
Các tài liệu khoa học về chủ đề này cho thấy năng lực
cạnh tranh là muôn hình vạn trạng, phụ thuộc vào chủ
đề phân tích nghiên cứu, và có thể xác định được ở các
mức độ khác nhau – mức độ lớn, vĩ mô, trung bình và vi
mô (Bảng 1).
Bảng 1: Một số khía cạnh phân tích mức độ
cạnh tranh
Mức độ
phân tích
Cực lớn
Vĩ mô
Tầm trung
Vi mô
Người nghiên cứu/ Viện
nghiên cứu
Hội đồng Châu Âu, 1999
Porter, 1990; Dollar and Wolff,
1993; Bramezza, 1996; van
der Berg, Braun, 1999; Harvey,
1989; Webster and Muller, 2000;
Kaldor, 1970; Rowthom, 1999;
Diễn đàn kinh tế Thế Giới 2005; và
những nghiên cứu khác
Bryan,1994; Markusen, 1992;
Blunck, 2006
Casson 1991; Rugman, Hodgetts
2000; Faulkner, Bowman 1995;
Porter 1998; Hamel, Prahalad
1990; Stalk, Evans, Schulman
1992; Hill, Jones 1992; Blunck,
2006; Chikan, 2001; Tyson,1993,
những nghiên cứu khác.
Những khía cạnh nổi
bật về cạnh tranh
Thu nhập và việc làm ổn
định ở mức độ cao
Thu nhập, thịnh vượng
ở mức độ cao, mức độ
việc làm cao, các doanh
nghiệp duy trì được sự
thành công
Giá cả, năng suất cạnh
tranh, chia sẻ thị trường
bên ngoài
Năng suất, tính ưu việt
của giá cả sản phẩm,
chia sẻ thị phần, chia sẻ
lợi nhuận
Trong những năm gần đây, trọng tâm nghiên cứu của
các học giả thế giới về vấn đề năng lực cạnh tranh của
các chủ thể ở mức độ cực đại và vĩ mô đang tăng một
18 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
cách đáng kể. Năng lực cạnh tranh đô thị, với tư cách là
một đơn vị quản trị địa phương, nhận được nhiều sự quan
tâm về học thuật. Mặc dù vậy, số lượng các nghiên cứu
năng lực cạnh tranh đô thị tiếp tục còn rất hạn chế và các
phương pháp phân tích vấn đề này mới đưa ra ở mức độ
sơ khai mà thôi.
Những mô hình về năng lực cạnh tranh được đưa ra
phân tích ở 4 cấp độ: Cực đại, vĩ mô, trung mô và vi mô.
Phần lớn những mô hình về năng lực cạnh tranh được biết
ở mức độ vĩ mô như của Porter (1990) “Lý thuyết về lợi
thế cạnh tranh”, “Mô hình 9 yếu tố về cạnh tranh quốc tế”
của Cho (1994), “Mô hình đôi kim cương” của Rugman và
D’Cruz (1993), các mô hình thể hiện trong những báo cáo
về sự cạnh tranh các nền kinh tế của Diễn đàn Kinh tế Thế
giới (2006), Viện nghiên cứu Thế giới về Phát triển Quản lý
(2006), WB (2006). Mô hình phân tích về cạnh tranh ở cấp
chính quyền địa phương như Chỉ số kinh tế mới của đô
thị (2006), mô hình về chỉ số cạnh tranh Châu Âu (2006),
và Chỉ số sáng tạo của Florida (2002)… Điểm lại về mô
hình cạnh tranh được sử dụng cho phân tích về những
vấn đề ở cấp địa phương đều chỉ ra rằng phần lớn các mô
hình nhấn mạnh vào yếu tố kinh tế ảnh hưởng đến cạnh
tranh đô thị không đề cập hoặc để ý nhiều đến các yếu
tố khác, đặc biệt là những yếu tố bên ngoài tác động trực
tiếp đến đô thị. Như kết quả nghiên cứu lý thuyết khác
nhau cho thấy, vấn đề cạnh tranh có thể được giải quyết
hiệu quả hơn nếu quan tâm nhiều hơn đến vấn đề vốn
xã hội (Putnam, 1993), Thiết chế thể chế (Amin và Thrift,
1995), Môi trường sáng tạo (Camagni, 1991) và các lĩnh
vực khác theo chức năng của đô thị.
Đánh giá tổng quan chi tiết về các thị trường chung
và các loại cạnh tranh đô thị, cũng như việc phân tích các
khía cạnh khác nhau của thuật ngữ “năng lực cạnh tranh
đô thị” do các tác giả đưa ra cho thấy các thành phố cạnh
tranh trên các quy mô khác nhau và theo loại sản phẩm.
Theo Turok và các cộng sự (2004), các thành phố cạnh
tranh dưới các khía cạnh như sau: Dành vị trí trung tâm
dịch vụ vùng, dành các sản phẩm thương mại mang tính
quốc gia và quốc tế, đầu tư vào thị trường theo chiều sâu,
Melbourne là thành phố đáng sống nhất thế giới
có đội ngũ dân số di cư lành nghề và tổ chức các hội nghị, lễ hội văn hoá,
thi đấu thể thao và các sự kiện nổi bật khác trong phạm vi thị trường của
mình. Một loạt các định nghĩa về năng lực cạnh tranh của các đô thị và
các khía cạnh chính được nhấn mạnh trong mỗi định nghĩa được trình bày
trong Bảng 2.
Bảng 2. Định nghĩa về năng lực cạnh tranh đô thị
Tác giả
Khái niệm về năng lực cạnh tranh đô thị
OECD
Trong điều kiện thị trường tự do và công bằng, thì mức
độ mà các đô thị có thể sản xuất ra hàng hoá và dịch
vụ đáp ứng được sự kiểm nghiệm của thị trường quốc
tế, đồng thời duy trì và mở rộng thu nhập thực tế của
người dân trong dài hạn.
Năng lực cạnh tranh phản ánh năng lực của nền kinh
tế thu hút và duy trì các doanh nghiệp với sự ổn định
hoặc ra tăng cổ phiếu trong hoạt động, trong khi đó
vẫn duy trì sự ổn định hoặc nâng cao được mức sống
đối với những người tham ra vào quá trình đó
Năng lực cạnh tranh đô thị liên quan tới khả năng của
vùng đô thị sản xuất và tiếp thị tập hợp sản phẩm
(hàng hóa và dịch vụ) đó là những hàng hóa có chất
lượng tốt với giá trị cao (chứ không cần thiết phải là
giá cả thấp) liên quan tới so sánh với các sản phẩm ở
những vùng đô thị khác.
Có thể được hình thành như là các nỗ lực của các cơ
quan đại diện cho các khu vực cụ thể để tăng cường lợi
thế địa phương của họ bằng cách vận động một số sản
phẩm đặc trưng để góp phần làm nên giá trị của khu
vực đó như việc xác định cho các hoạt động khác nhau.
Khả năng thu hút thông tin, công nghệ, vốn, văn hóa,
con người và các tổ chức, đây là vấn đề rất quan trọng
đối với vùng, và đi cùng với nó là khả năng duy trì và
phát triển chất lượng cuộc sống và mức sống của con
người nơi đây, cũng như khả năng tạo ra môi trường
vận hành đổi mới để các công ty có khả năng phát
triển cạnh tranh.
Storper
(1997)
Webster
ir Muller
(2000)
Gordon và
Cheshire
(2001)
Kostiainen
(2002)
Những khía cạnh
nhấn mạnh
Năng lực cạnh tranh về
sản phẩm của đô thị;
dân số địa phương có
thu nhập cao hoặc tăng
lên.
Hấp dẫn/ duy trì các
doanh nghiệp thành
công; mức sống cao
Tăng cường năng lực
cạnh tranh bằng những
sản phẩm của địa
phương
yếu tố về môi trường bên trong và bên
ngoài”.
MÔ HÌNH NĂNG LỰC CẠNH TRANH
ĐÔ THỊ VÀ CÁC YẾU TỐ CẤU TRÚC
Mô hình năng lực cạnh tranh đô
thị xác định tiến trình phổ biến về việc
hình thành cạnh tranh đô thị và những
yếu tố cấu trúc trong mô hình ảnh
hưởng việc hình thành kết quả hoạt
động đô thị. Begg (1999) chỉ ra rằng,
“… hiểu các yếu tố cải thiện năng lực
cạnh tranh đô thị trên thị trường quốc
gia và quốc tế giúp việc xác định vị trí
hiện tại của các đô thị chính xác hơn và
phán đoán được triển vọng đô thị để
có thể đưa ra chính sách phát triển đô
thị đúng mục tiêu hơn”
Quy trình chung về hình thành
năng cạnh tranh đô thị được thể hiện
Hình 2:
QUY TRÌNH
Gia tăng về tài nguyên,
vốn, quản lý thị trường,
sự thịnh vượng của
cộng đồng địa phương.
Khả năng thu hút dòng
chảy, môi trường sáng
tạo, năng lực cạnh
tranh của các doanh
nghiệp, mức sống cao.
Những quan điểm khác nhau về khái niệm năng lực cạnh tranh đô
thị cần được tôn trọng để mở ra những hướng tốt hơn (Sheppard, 2000;
Krugman, 1994; Budd, 1998). Có thể nói rằng năng lực cạnh tranh được
diễn tả giữa hai hoặc nhiều đối tượng phân tích và có thể được áp dụng cho
các chủ thể về mức độ phân tích cũng như ở mỗi cấp đô thị.
Định nghĩa cụ thể về khái niệm cạnh tranh đô thị được đưa ra như sau:
“Đó là khả năng của người dân đô thị duy trì vị trí cạnh tranh trong một khu
vực cụ thể (thị trường) về cạnh tranh giữa các đô thị khác nhau có cùng
loại hình tương tự và theo đuổi các mục tiêu tương tự bằng cách tiết kiệm
tài nguyên và nâng cao phúc lợi của các thành viên bằng việc quản lý các
Như vậy, hình trên đã đưa ra hai cấp
độ môi trường đô thị - môi trường bên
trong và môi trường bên ngoài. Đối với
môi trường bên ngoài, lại được chia
ra thành môi trường quốc tế và môi
trường quốc gia được gọi chung làm
một là môi trường bên ngoài đô thị.
Đề xuất này dựa trên quan điểm của
Pumain (2003), Masure (2003), MsAvoy
(2002), Cheshire và Hay (1989), Budd
(1998), Ủy ban Châu Âu (2000) và của
các tác giả khác, đã đưa ra rằng những
năm gần đây do quá trình tái cấu trúc,
các đô thị của các quốc gia dân chủ có sự
lớn mạnh và ảnh hưởng trực tiếp của lực
lượng toàn cầu, do vậy đòi hỏi phải thay
đổi phù hợp với cấu trúc và nội dung các
yếu tố bên ngoài của các đô thị.
Số 55.2017
XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
19
DIỄN ĐÀN
XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
Webster và Muller (2000) chỉ ra rằng phần lớn các
nước, các yếu tố quốc gia mất đi tầm quan trọng trước
kia của họ do ảnh hưởng của lực lượng toàn cầu: Tự do
thương mại, phân quyền và những yếu tố khác, đặt trách
nhiệm vào nhiều yếu tố quan trọng về khả năng cạnh
tranh ở cấp địa phương. Xác định các yếu tố đại diện cho
môi trường bên trong và bên ngoài của đô thị có ảnh
hưởng lớn nhất đến năng lực cạnh tranh đô thị, trước hết
cần bắt đầu bằng việc nhận dạng từ các yếu tố bên ngoài
và cần xem xét tới yếu tố bên ngoài tác động tới các đô
thị và những kết quả của đô thị. Các chính sách quốc gia
và siêu quốc gia như cấu trúc nền kinh tế quốc dân, mức
độ đổi mới, chính sách thuế quốc gia, phát triển nguồn
nhân lực, thuế quan, sáng kiến kinh tế vĩ mô và công
nghiệp, các điều kiện chính sách công khác, mức độ tiếp
cận, kỹ năng của lực lượng lao động... ảnh hưởng trực tiếp
kết quả của mỗi đô thị (Ủy ban Châu Âu, 2000, Webster và
Muller, 2000).
Việc xác định các yếu tố quan trọng nhất của môi
trường bên ngoài đô thị dựa trên phân tích PEST (Politics,
Economics, Social, Technology) được bổ sung bởi một
khía cạnh khác, đang đóng một vai trò rất quan trọng
trong bối cảnh cạnh tranh đô thị - dưới khía cạnh môi
trường sinh thái. Việc mô tả chi tiết của năm yếu tố bên
ngoài (kinh tế, văn hóa - xã hội, công nghệ, luật pháp chính trị, môi trường - sinh thái) và các yếu tố cấu thành
các yếu tố đó là cần thiết.
Các yếu tố bên trong của môi trường đô thị có tầm
quan trọng lớn nhất đối với kết quả hoạt động của đô
thị. Do vậy, năng lực cạnh tranh của đô thị đã được xác
định trên cơ sở phân tích chi tiết lý thuyết và quan điểm
của các nhà khoa học quốc tế về việc giải quyết các vấn
đề về năng lực cạnh tranh của đô thị. Tập hợp các yếu tố
bên trong cũng như việc phân loại các yếu tố này thay đổi
đáng kể ở các tài liệu học thuật. Phân tích những tài liệu
trên hướng tới 5 nhóm sau: Các yếu tố đầu vào-kết quả
(Fried and Lovell, 1996), Quan điểm về các yếu tố kiểm
soát được không kiểm soát được (Fried và Lovell, 1996),
Quan điểm về các yếu tố chiến lược và kinh tế (Kresl,
1995; van Dijk, 1998; Jensen-Butler, 1997; van den Berg,
1993; Lever, 1997), Quan điểm các yếu tố cấu trúc động
lực (Sutarauta, 2001; Linnamaa, 1999) và Quan điểm các
yếu tố bên trong (Duffy, 1995; Oatley, 1998 , JensenButler, 1997, Savitch và Kantor, 2002, và các tác giả khác).
Trên cơ sở phân tích cụ thể các quan điểm khác nhau
của các tác giả về những yếu tố bên trong (cũng như cấu
trúc và ý nghĩa) đang ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
đô thị, từ đó phân ra bốn loại yếu tố chính bên trong: Yếu
20 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
tố về con người, yếu tố về thiết chế, yếu tố về vật chất,
yếu tố về kinh tế. Đặc tính cụ thể của mỗi yếu tố và các
yếu tố cấu thành được cung cấp ở Bảng 3:
Bảng 3: Các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh đô thị
Loại
Các yếu tố về
con người
Các yếu tố về
thiết chế
Các yếu tố về
vật chất
Các yếu tố về
kinh tế
Các yếu tố
Kỹ năng lao động
Các năng lực về giáo dục và đào tạo
Tình hình nhân khẩu học địa phương
Lãnh đạo địa phương
Đổi mới/sáng tạo/tài năng của người dân địa phương
Bao dung/văn hóa/ truyền thống của người dân địa
phương
Hiệu quả của chính quyền địa phương
Tổ chức - lãnh đạo
Mạng lưới thể chế
Cơ sở vật chất và tiện nghi của thành phố
Chiến lược phát triển thành phố
Vị trí và khả năng tiếp cận của đô thị
Hạ tầng kỹ thuật
Tài nguyên thiên nhiên đô thị
Cơ cấu kinh tế
Các hoạt động có giá trị gia tăng cao
Hệ thống thuế địa phương
Mức lương địa phương
Tiếp cận vốn tại đô thị
Các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển thực
nghiệm ở địa phương
Cụm công nghiệp đô thị
Khi thực hiện phân tích các yếu tố cải thiện khả năng
cạnh tranh đô thị không nên đề cao bất cứ một yếu tố đặc
biệt nào mà cần phải phân tích một cách tổng hợp. Tất cả
các yếu tố bên trong và bên ngoài tạo nên một hệ thống
tổng thể, tất cả các yếu tố phụ thuộc lẫn nhau. Hình 3
minh họa mô hình năng lực cạnh tranh đô thị và cấu trúc
mô hình dưới góc độ lý thuyết. Mô hình này dựa trên
phương pháp tiếp cận “đô thị như một hệ thống mở” liên
quan đến các đặc trưng của đô thị và các sản phẩm của
đô thị. Tất cả những yếu tố liên hệ chặt chẽ với nhau được
tích hợp và hoạt động năng động trong một hệ thống
thống nhất, trong đó mỗi yếu tố bổ sung và tăng cường
cho nhau. Khi phân biệt các yếu tố cải thiện năng lực
cạnh tranh đô thị quan trọng nhất, người ta đã cố gắng
tách rời các yếu tố không ảnh hưởng trực tiếp đến khả
năng cạnh tranh của đô thị, không mang tính thông tin,
có nghĩa là ảnh hưởng của các yếu tố này rất hạn chế. Các
nhóm yếu tố có giá trị như nhau, điều đó có nghĩa là các
yếu tố không phụ thuộc vào vị trí của nó trong mô hình.
Trong mô hình cạnh tranh đô thị, năng lực cạnh tranh đô thị phần lớn phụ Competitiveness, Competitive-ness
thuộc vào các yếu tố nội tại bên trong đô thị. Tuy nhiên, để các đô thị tăng sức Review 8(1): 11–23
cạnh tranh, các đô thị cần phải thay đổi thích ứng với các yếu tố bên ngoài. Những
2.
Durand,
M.,
C.
Giorno,
nỗ lực nhằm cải thiện cạnh tranh của các đô thị cần tập trung tăng cường vào (1987), “Indicators of International
các yếu tố bên trong như sau: Thúc đẩy hiệu quả hoạt động của chính quyền địa Competitiveness:
Conceptual
phương (tăng cường chất lượng về việc thực hiện các chức năng nhà nước ở địa Aspects and Evaluation”, OECD
phương), cải thiện hạ tầng kỹ thuật đô thị (phát triển giao thông đô thị, cung cấp Economic Studies, No. 9 Autumn,
năng lượng, xử lý nước, không gian công cộng và các hệ thống khác), đảm bảo tiếp 147-182.
cận với đô thị dễ dàng nhất (bằng tất cả các phương tiện giao thông công cộng và
3.
Fagerberg,
J.
(1988),
hệ thống mạng lưới viễn thông), thực hiện chiến lược phát triển đô thị (theo chiến “International
Competitiveness”,
lược, ưu tiên, tầm nhìn phát triển tổng hợp), đào tạo và hỗ trợ lãnh đạo của các tổ The Economic Journal, No. 391,
chức, ban ngành của đô thị.
(June),355-374.
Các đô thị cạnh tranh dựa trên quy mô, vị trí địa lý khác nhau cho những
4.
Porter
M.E.
(1990),“The
mục đích khác nhau. Các đô thị quốc gia cạnh tranh với nhau và với những competitive advantage of the
thành phố có quy mô và có tầm quan trọng tương tự từ những đất nước láng nations”, Ed. The FreePress, A Division
giềng. Các thành phố vùng cạnh tranh với các thành phố hàng đầu vùng khác, of MacMillan Press Ltd., New York.
đặc biệt những nơi có vị trí địa lý gần nhất. Các thành phố cấp huyện cạnh tranh
5. Rugman, A. M. & D’Cruz, J. R.
với thành phố cấp huyện khác hoặc thành phố có những chức năng riêng biệt (1993). The ‚Double diamond’ model
(ví dụ thành phố nghỉ dưỡng sức khỏe). Nói cách khác, khả năng cạnh tranh đô of international competitiveness:
thị là khả năng của dân cư đô thị duy trì vị thế cạnh tranh trong khu vực cạnh
6. The Canadian experience.
tranh cụ thể (thị trường) với các đô thị khác có loại hình tương tự và theo đuổi Management International Review,
mục tiêu tương tự trên cơ sở bảo tồn tài nguyên và cải thiện phúc lợi cho những 33(2), 17-39.
thành viên trong đô thị bằng việc quản lý các yếu tố môi trường bên ngoài và
yếu tố bên trong đô thị.
7. World Economic Forum, The
Global
Tài liệu tham khảo
Competitiveness
Report
2009–2010, p.3
1. Cho, D. S. 1998. From National Competitiveness to Bloc and Global
Số 55.2017
XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
21