BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
TRẦN VĂN PHƢƠNG
ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT NGUYỄN KHẢI
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 5.04.33
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS. NGUYỄN VĂN LONG
Hà Nội – 2001
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
TRẦN VĂN PHƢƠNG
ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT NGUYỄN KHẢI
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 5.04.33
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS. NGUYỄN VĂN LONG
Hà Nội – 2001
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu
trong Luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2001
Tác giả luận án
Trần Văn Phƣơng
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1
NỘI DUNG .............................................................................................................................. 18
CHƢƠNG 1: KHUYNH HƢỚNG TIỂU THUYẾT NGUYỄN KHẢI TRONG SỰ VẬN
ĐỘNG CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TỪ SAU 1945 .................................................... 18
1.1. Sự vận động của tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1945 (Điểm lƣợc trên nét lớn). ................ 18
1.2. Khuynh hƣớng tiểu thuyết chính luận triết luận của Nguyễn Khải. ................................. 32
1.3. Sự vận động và những đặc điểm của tiểu thuyết Nguyễn Khải. ....................................... 64
CHƢƠNG 2: NHÂN VẬT CỦA TIỂU THUYẾT NGUYỄN KHẢI ..................................... 71
2.1. Các nhân vật tiểu biểu cho từng chặng đƣờng sáng tác của Nguyễn Khải. ...................... 71
2.2. Những loại nhân vật độc đáo của tiểu thuyết Nguyễn Khải ...........................................83
2.3. Nhân vật tƣ tƣởng "kiểu" Nguyễn Khải ..........................................................................93
2.4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật. ....................................................................................... 106
CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM KẾT CẤU - CỐT TRUYỆN VÀ NGÔN NGỮ - GIỌNG ĐIỆU
TRẦN THUẬT CỦA TIỂU THUYẾT NGUYỄN KHẢI..................................................... 118
3.1. Đặc điểm kết cấu – cốt truyện và ngôn ngữ - giọng điệu trần thuật của tiểu thuyết
Nguyễn Khải. ......................................................................................................................... 118
3.2. Đặc điểm ngôn ngữ và giọng điệu trần thoại của tiểu thuyết Nguyễn Khải ................... 148
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 165
DANH MỤC CÁC BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN ................................................. 169
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................... 170
1
MỞ ĐẦU
1. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Thuộc trong số các nhà văn xuất hiện và trƣởng thành từ phong trào văn nghệ
quần chúng trong chín năm kháng chiến, đến nay Nguyễn Khải đã có hơn nửa thế kỷ hoạt
động liên tục trên các lĩnh vực báo chí và văn học nghệ thuật. Ông đã ba lần nhận giải thƣởng
văn học của Hội Nhà văn. Năm 2000 Nguyễn Khải đƣợc nhận gần nhƣ đồng thời hai giải
thƣởng lớn: giải Asean cho tập tuyển truyện ngắn và giải thƣởng Hồ Chi Minh cho cụm tiểu
thuyết Xung đột Cha và con và…, Gặp gỡ cuối năm. So với các nhà văn cùng thế hệ, nhiều
ngƣời thật có tài, nhƣng một số đã hy sinh trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ.
Một số khác cũng mất sớm vì mắc bệnh hiểm nghèo. Số còn lại vì những lý do khác nhau:
hoặc là do thời thế thay đổi nên cảm thấy không còn “hợp thời”; hoặc là do bận bịu với công
tác quản lý ự vụ; hoặc là do tuổi tác rồi ngại viết… hầu hết đều thấy biểu hiện viết ít hơn
hoặc không viết nữa, thì Nguyễn Khải vẫn luôn sung sức, viết ào ạt, càng ngày càng đƣợc
cảm tình của bạn đọc. Ông tâm sự: “Từ ngày có đổi mới tôi viết rất dễ dàng, viết được nhiều
(…), bạc đọc xem ra yêu mến tôi hơn, chờ đợi tôi hơn” {125,8}
Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khải là một tập khảo luận về những vấn đề của cuộc
sống và con ngƣời Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại, trong hoà bình xây
dựng kiến tạo xã hội mới, trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nƣớc theo hƣớng xã hội chủ
nghĩa. Sáng tác của ông bao gồm nhiều thể loại: ký, truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, kịch
và tạp văn, tản văn, ở thể loại nào cũng có tác phẩm nổi trội. Riêng trên lĩnh vực tiểu thuyết,
Nguyễn Khải đã kiên trì mở đƣờng và khai phá một hƣớng đi mới với những tác phẩm đặt ra
và góp phần giải quyết những vấn đề xã hội chính trị nổi lên trong nhiều thời kỳ quan trọng
của đất nƣớc, với một giọng văn ngày càng nghiêng về những suy ngẫm, chiêm nghiệm giàu
tính chính luận triết
2
luận. Trong ngót 30 đầu sách của Nguyễn Khải thể loại tiểu thuyết và truyện vừa chiếm hơn
một nửa. Và mặc dù ranh giới phân biệt giữa tiểu thuyết và truyện vừa ở một số tác phẩm của
nhà văn chƣa thật rạch ròi, nhƣng khi ghi dƣới tên tác phẩm là tiểu thuyết, chắc chắn tác giả
đã có ý thức sử dụng các thủ pháp nghệ thuật để tái hiện cuộc sống theo quan niệm của riêng
ông về thể loại này. Những công trình nghiên cứu về tác giả tác phẩm Nguyễn Khải với nhiều
kiến giải sâu sắc, đều thống nhất xếp ông vào vị trí nhà văn tiêu biểu của nền văn học đƣơng
đại, song vẫn chƣa có công trình chuyên sâu về tiểu thuyết Nguyễn Khải. Vì vậy, mục đích
của đề tài là tiếp tục đi sâu nghiên cứu các đặc điểm của tiểu thuyết Nguyễn Khải, nhằm chỉ
ra những đóng góp của ông về phƣơng diện tiểu thuyết cho nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
1.2. Sau chuyên luận Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại của Phan Cự Đệ, đến thời gian
gần đây tiểu thuyết Việt Nam lại thực sự thu hút giới nghiên cứu, nhất là trong phạm vi
chuyên ngành văn học trong các trƣờng đại học. Song dƣờng nhƣ công việc nghiên cứu chỉ
mới khảo sát kỹ các thành tựu tiểu thuyết từ trƣớc Cách mạng tháng Tám. Còn tiểu thuyết sau
năm 1945 nhìn chung, vẫn nhiều khu vực bỏ ngỏ. Đánh giá sự phát triển của văn học Việt
Nam từ 1945 đến nay trong tiến trình của nền văn học dân tộc, một trong những phƣơng diện
quan trọng là phải chú ý đúng mức đến sự phát triển của thể loại tiểu thuyết.
Đặt trong mạch vận động chung của tiểu thuyết Cách mạng Việt Nam từ sau 1945 có
thể nhận thấy, bắt đầu từ Xung đột trở đi, ở Nguyễn Khải đã hình thành một khuynh hƣớng
tiểu thuyết luôn bát sát những vấn đề nóng bỏng đặt ra trong từng thời điểm cụ thểcủa đời
sống xã hội. Và cũng nhƣ nhiều thể tài khác của văn học Cách mạng yếu tố chính luận ngày
càng xâm nhập vào một cách phổ biến, thì ở tiểu thuyết Nguyễn Khải lúc đầu chính luận cũng
đƣợc thể hiện nhƣ một yếu tố nghị luận về chính trị xã hội, nhƣng càng về sau nó càng hƣớng
tới triết luận về mọi vấn đề của đời sống nhân sinh. Gần với
3
quan niệm coi “Nghệ thuật là khoa học thể hiện lòng người” [83], tƣ duy tiểu thuyết của
Nguyễn Khải nghiêng về nghiên cứu đời sống xã hội và những con ngƣời đƣơng thời, phát
hiện ra những vấn đề ẩn sau các sự vật hiẹn tƣợng tƣởng thật giản đơn, quen thuộc. ông luôn
gắng tìm tòi thử nghiệm để không ngừng cách tân thể loại tiểu thuyết trong những giới hạn có
thể ở thờiđại mình, lui tới biến hoá một cách thông minh mà vẫn luôn phù hợp với yêu cầu
của chế độ và đƣợc độc giả chấp nhận. Đó là yếu tố tiên quyết đảm bảo sự nghiệp văn học
của ông đƣợc liên tục. Vì những lý do đó, đề tài luận án sẽ góp phần giải quyết vấn đề có ý
nghĩa thực tiễn trong việc nghiên cứu một tác giả tiêu biểu của nền văn học đƣơng đại, phát
hiện những nét độc đáo về nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết Nguyễn Khải, từ đó góp
phần đánh giá một cách đầy đủ và hy vọng sẽ thấu đáo hơn về nhà văn.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1. Nhìn chung về việc phê bình, nghiên cứu sáng tác của Nguyễn Khải
Đọc theo các chặng đƣờng ság tác của Nguyễn Khải đến nay đã có trên 100 bài viết
đƣợc công bố, trong đó tới 2/3 các công trình nghiên cứu trực tiếp về tác giả, tác phẩm
Nguyễn Khải. Số còn lại tuy không trực tiếp đặt ra vấn đề nghiên cứu nhà văn nhƣng trong
bài viết của mình, các tác giả đều có đề cập đến Nguyễn Khải ở cấp độ này hay cấp độ khác.
Đáng chú ý nhất là các công trình nghiên cứu về một tác giả văn học. Đầu tiên là bài: “Đặc
điểm sáng tác của Nguyễn Khải” trong cuốn Tác giả văn xuôi Việt Nam hiện đại (từ sau
1945) của Chu Nga. Bà đánh giá rất cao những tác phẩm Nguyễn Khải viết về nông thôn,
đồng thời khẳng định ngòi bút tác giả “thông minh, sắc sảo, giàu tính chiến đấu (…) luôn có
sự đòi hỏi cao đối với bản thân và đối với mọi người” [160]. Sáu năm sau đó, Phan Cự Đệ
tiếp tục viết về Nguyễn Khải trong Nhà văn Việt Nam 1945-1975 (tập 2). Bài viết bao quát
một khối lƣợng tác phẩm lớn của nhà văn sáng tác trong vòng 30 năm và 20 bài nghiên cứu
có giá trị về tác phẩm Nguyễn Khải. Ông nhấn mạnh: “Với một ngòi bút hiện thực
4
tỉnh táo, Nguyễn Khải luôn luôn xông thẳng vào những mâu thuẫn địch ta và mâu thuẫn nội
bộ nhân dân trong xã hội, những Xung đột giữa các tính cách, những đấu tranh giằng xé
trong tâm tư tình cảm của mỗi con người”… Đấy là phong cách độc đáo của tác giả khác xa
với “những phong cách hiện thực tỉnh táo trong văn học hiện thực phê phán” [45,497]. Năm
1990, do nhu cầu của việc nghiên cứu giảng dạy ngày càng đƣợc mở rộng, Giáo trình văn
học Việt Nam 1945 – 1975 (phần tác giả) đƣợc Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành. Trong tập
sách này, bài viết về Nguyễn Khải do Đoàn Trọng Huy biên soạn. So với các bài trƣớc, bài
viết này ra đời sau nên tầm bao quát tƣ liệu rộng hơn, đƣợc thừa hƣởng thành quả nghiên cứu
của các công trình đi trƣớc nhiều hơn nên nó đƣợc bổ sung thêm nhiều điểm mới, đặc biệt là
phần chỉ ra nét phong cách chính luận cũng nhƣ những nỗ lực đổi mới cách viết của Nguyễn
Khải để ngày càng “làm cho tác phẩm có sức mạnh thuyết phục riêng” [190]. Đến cuối năm
1996 Tuyển tập Nguyễn Khải ra đời do Vƣơng Trí Nhân tuyển chọn và viết giới thiệu. Là
cây bút nghiên cứu phê bình văn học chuyên nghiệp nhiều năm lăn lộn trong nghề, hiểu biết
tƣờng tận những chuyện đời thƣờng (kể cả những “khuất lấp” đằng sau tác phẩm của nhà
văn), Vƣơng Trí Nhàn đã thể hiện trên nhiều trang viết say đắm: bên cạnh khả năng phân tích
tác phẩm là sự đồng cảm sâu sắc với tác giả, cho nên nhiều nhận định của ông trong bài viết
đã thực sự “tri âm” với Nguyễn Khải. Đặt Nguyễn Khải vào trong tiến trình văn học Cách
mạng qua nửa thế kỷ với những biến dộng dữ dội của lịch sử, Vƣơng Trí Nhàn kết luận:
Ông đã là một trong những nhà văn dẫn đầu của thời đại. Với cuộc Cách mạng này,
những năm tháng đấu tranh gian khổ này, tác phẩm của ông là một bằng chứng một tài liệu
tham khảo thực sự. Và muốn hiểu con người thời đại với tất cả những cái hay cái dở của họ,
nhất là muốn hiểu cách nghĩ của họ, đời sống tinh thần của họ, phải đọc Nguyễn Khải
[177,61].
5
Với kết luận này, lần đầu tiên Nguyễn Khải đƣợc tôn vinh xứng đáng với công lao
phấn đấu kiên trì và bền bỉ của ông để đóng góp đƣợc nhiều nhất cho sự nghiệp văn học của
đất nƣớc. Ở một quy mô nhỏ hơn, Bích Thu trong bài: Nguyễn Khải: một đời vẫn gắn bó
với thời đại và dân tộc [217,109] tiếp tục minh chứng cụ thể hơn cho luận điểm trên đây của
Vƣơng Trí Nhàn. Nhƣ vậy là từ góc độ tác giả, cùng với bề dày thời gian Nguyễn Khải ngày
càng đƣợc đề cao.
Tuy nhiên, chiếm số lƣợng nhiều nhất là các bài viết dƣới dạng đọc sách hoặc bình
luận, đánh giá về một phƣơng diện cụ thể nào đó, một tác phẩm cụ thể nào đó trong sáng tác
của Nguyễn Khải. Lối tiếp cận này không chỉ có giới nghiên cứu, phê bình chuyên nghiệp,
mà còn thu hút cả các đồng nghiệp của nhà văn cũng nhƣ những ai quan tâm đến sáng tác của
Nguyễn Khải trong và ngoài nƣớc. Theo Nguyễn Khải cho biết còn có dạng phê bình miệng
(bạn bè khen chê nhau kịp thời, thẳng thắn) chủ yếu trong nội bộ những ngƣời cùng nghe viết
với nhau hoặc đôi khi là lời góp ý của các cấp quản lý văn nghệ. Tuy nhiên, các bài viết đã
đăng tải trên các báo, tạp chí có giá trị học thuật lại chủ yếu của giới nghiên cứu, phê bình
chuyên nghiệp hoặc của các nhà văn, nhà thơ. (Theo thống kê những bài viết ở dạng này đã
lên tới con số trên 60 bài). Giá trị chủ yếu của các bài viết này là tính chất nhạy bén, kịp thời,
vừa giúp tác giả nhận ra những chỗ mạnh, chỗ yếu trong sáng tác của mình, vừa giúp độc giả
định hƣớng trong khi nắm bắt thƣởng thức tác phẩm.
2.2. Về tiểu thuyết Nguyễn Khải
2.2.1. Nguyễn Khải chính thức thành danh từ tiểu thuyết “Xung đột”. Phan Cự Đệ
cho rằng: “Tài năng và phong cách Nguyễn Khải bắt đầu hình thành và khẳng định từ khi
“Xung đột” tập 1 được giới thiệu dần trên tạ chí Văn nghệ quân đội năm 1957” [45,482].
Tất cả các bài viết đều nhất trí với ý kiến của Phan Cự Đệ. Ngót 50 năm sau Vƣơng Trí Nhàn
lại tiếp tục khẳng định. “Tác phẩm vào nghề, tác phẩm đánh dấu cái tên Nguyễn Khải trong
lòng bạn đọc hâm mộ là gì? Dĩ nhiên phải kể “Xung đột” (1975) (…) Đây mãi
6
mãi là một đỉnh cao trong sáng tác của Nguyễn Khải mà mỗi khi nhớ tới người ta phải kính
trọng [177, 29-30]. Bản thân tác giả cũng cho rằng: “Với “Xung đột”, tôi bắt đầu ý thức về
chức năng người cầm bút và thực sự bước vào con đường viết truyện” [76].
Bƣớc sang giai đoạn chống Mỹ tiểu thuyết Nguyễn Khải nở rộ. Đánh giá về 3 cuốn
viết về đề tài chiến đấu của Nguyễn Khải, các nhà phê bình đều thấy rằng đó là những cuốn
sách xuất hiện thật đúng lúc: “Gần như cùng lúc với những sự kiện xảy ra mà lại không bị rơi
rụng theo những bản tin thông tấn” [210, 128]. Hoặc: “Đối với tình hình sáng tác, nhất là
sáng tác tiểu thuyết của ta (…) thì việc “Chiến sĩ” được viết kịp thời là một cố gắng lớn của
Nguyễn Khải” [32, 120]. Tuy nhiên, có lẽ do “dấu ấn của khuynh hướng sử thi lãng mạn đã
trở thành áp lực thời đại mà Nguyễn Khải là người trong cuộc” [217, 111] cho nên: “Dù
được cả những chuyến đi lẫn sự nỗ lực của tác giả bảo đảm, mấy quyển tiểu thuyết trên của
Nguyễn Khải vẫn không tạo được dư luận rộng rãi, đọc sách người ta biết thêm về chiến
tranh mà không được cùng tác giả cảm thấy nó” [177,42].
Từ năm 1979 đến nay Nguyễn Khải viết thêm 6 cuốn tiểu thuyết nữa, trong đó Gặp
gỡ cuối năm đƣợc nhận giải thƣởng năm 1982 của Hội Nhà văn. Trần Đăng Khoa khen:
“Đây là cái truyện Nguyễn Khải viết hay đến từng chữ” [77,118]. Mạnh dạn xông vào những
vẫn đề nóng bỏng của miền Nam sau ngày giải phóng mà trung tâm xoáy lốc của nó là Thành
phố Hồ Chí Minh, từ kịch Cách mạng đến tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm tác giả Xung đột lại
thêm một lần chứng tỏ tài năng của mình. Nhà thơ Lê Văn Ngăn từng hoạt động trong phong
trào đấu tranh của tuổi trẻ miền Nam thời Sài Gòn cũ cho biết “Các tác phẩm văn học Cách
mạng đặt ra nhiều vấn đề đối với bọn tôi còn xa lạ. Chỉ có Nguyễn Khải bắt trúng “tâm địa”
của bọn tôi hơn. Hình như ông đã bước ra khỏi “khu vực” của mình để trở thành nhà văn
của cả nước” (Chuyện trò trực tiếp). Tuy nhiên, 3 cuốn sách sau: Điều tra về một cái chết,
7
Vòng sống đến vô cùng, Một cõi nhân gian bé tí lại ít ngƣời biết đến, nhất là Vòng
sóng đến vô cùng rơi vào khoảng im lăặnghoàn toàn. Tác giả than thở: “Cuốn sách viết
trong vài tháng thì xong, được Nhà xuất bản Trẻ nhận in với số lượg khá lớn (…). Nhưng
sách không bán được, sách bị ế, cũng chả có dư luận gì trong giới bạn đọc quen thuộc” [129,
101]. Nhƣ vậy, từ năm 1979 đến 1989 tiểu thuyết Nguyễn Khải xuất hiện đều đặn hơn và chất
lƣợng tác phẩm đƣợc đánh giá tốt tuy cũng có sự trồi sụt.
2.2.2. Về nhân vật của tiểu thuyết Nguyễn Khải:
Các nhà nghiên cứu thƣờng nêu lên nhận xét giống nhau là nhân vật của Nguyễn Khải
nói chung, phần lớn không hoàn chỉnh. Ngay từ 1964 Nguyễn Văn Hạnh đã có ý kiến:
“Trong nhiều trường hợp, có thể nói Nguyễn Khải chưa xây dựng được tính cách mà mới chỉ
có những nhận xét cho dù là những nhận xét khá sắc sảo về tính cách” [61,23]. Sau đó thì
nhiều ngƣời cùng chung ý kiến với Nguyễn Văn Hạnh. Thời ấy tiêu chí đánh giá nhân vật văn
học chủ yếu là coi trọng tính cách, thậm chí còn coi tính cách là “linh hồn của tiểu thuyết”
[61,24] cho nên dƣờng nhƣ đặc điểm này bị coi là một nhƣợc điểm cố hữu của Nguyễn Khải.
Ngót 20 năm sau Phan Cự Đệ mở rộng thêm: “Nguyễn Khải chưa xây dựng được nhiều nhân
vật có số phận (…). Nhiều nhân vật của anh tuy sinh động nhưng hãy còn dang dở, tính cách
chưa phát triển trọn vẹn và chưa đa dạng”. Ông truy tìm nguyên nhân vì: “Nguyễn Khải
quan tâm đến vấn đề nhiều hơn đến vận mệnh, cuộc đời nhân vật. Và khi vấn đề hiện ra,
được giải quyết rồi thì nhân vật mờ dần hoặc bị bỏ quên” [45, 508]. Một số ngƣời khác cũng
chung ý kiến với Phan Cự Đệ khi cho rằng nhà văn không chú trọng khắc hoạ tính cách nhân
vật, mà nhân vật xuất hiện “trước hết và chủ yếu là để đưa ra được vấn đề” [1401], “Nguyễn
Khải biểu hiện đời sống bằng vấn đề chứ không phải bằng nhân vật” [14,65]… Thì chính
ngay Nguyễn Khải cũng nhận thấy nhƣ thế:
8
Tôi cầm bút đã nhiều năm, viết nhiều tác phẩm nhưng chỉ có một nhân vật được bạn
đọc quen thuộc thân thiết là ông Tuy Kiền. Đó là ông nôn dân Việt Nam chính hiệu, tham
lam, trí trá, hống hách khi có dịp, thích khoe công và hay dỗi vặt. Nhưng ông vẫn là ông
nông dân của hôm nay, vì ông biết sống cho tập thể, cho mục đích lớn [429, 41].
Càng về sau các nhà nghiên cứu càng nhận thấy thế mạnh của nhân vật Nguyễn Khải
không phải ở tính cách hay số phận, mà là ở tƣ tƣởng. Lại Nguyên Ân nêu vấn đề: “Diện mạo
nhân vật ở anh Khải, nhiều khi chỉ rõ nét do suy nghĩ, tư tưởng của nó”. Trần Đình Sử trả
lời: “Đúng, đấy là miêu tả tư tưởng, tư tưởng như một hiện thực sống, một sự thực khách
quan. Đời sống – đó không chỉ là những sự việc, những quan hệ người. Đời sống – đó còn là
tư tưởng” [2]. Nguyễn Thị Bình chỉ ra nét phong cách nổi bật của Nguyễn Khải là “sự quan
tâm đến tư tưởng, nhân vật truyện là nhân vật tư tưởng (…) chính nhu cầu bộc lộ tư tưởng
buộc nó phải giỏi lý lẽ (…) cho nên trí tuệ là phẩm chất hàng đầu của các nhân vật mà nàh
văn tâm đắc” [15,73]. Đào Thuỷ Nguyên nhấn mạnh.
Nghiêng về tư tưởng – đó là nét đặc sắc riêng của Nguyễn Khải. Nhưng mặt khác,
cũng do thế nên thế giới nhân vật của Nguyễn Khải lại có phần nhẹ đi, nhạt đi về mặt tính
cách. Chúng tôi muốn xem đó là đặc điểm đồng thời là nhược điểm. Vì sự kết hợp giữa nhân
vật tư tưởng và nhân vật tính cách, theo ý chúng tôi, đó mới là con đường đạt được độ cao và
sâu của hiện thực [167, 103].
Ngƣợc lại, Nguyên Đãng cho rằng: “Tiểu thuyểttiết luận không nhất thiết phải xây
dựng nhân vật hoàn chỉnh. Thế giới nội tâm nhân vật là tất cả” [40, 148]. Ở một góc độ
khác, Nguyễn Đăng Mạnh đọc “Chiến sĩ” đã cảm nận thấy nét riêng của thế giới nhân vật
Nguyễn Khải: “Tinh khôn, tháo vát, ham suy nghĩ, triết lý và người nào cũng có tài ăn nói
hoạt bát, hóm hỉnh, bất kể già hay trẻ, xuất thân dân cày hay trí thức” [150]. Vƣơng Trí
Nhàn cắt
9
nghĩa: khôn “không phải là sự vận động tự thân của trí tuệ mà chỉ là tìm ra một sự thích ứng
tối đa với hoàn cảnh” [177,38]. Nguyễn Thị Bình mềm dẻo hơn: “Hình như Nguyễn Khải
đặc biệt say mê loại nhân vật có khả năng thích ứng với thời thế” [15,74]. Bên cạnh đó là
loại nhân vật nhƣ Ngô Thảo phát hiện: “Từ “Cách mạng”, “Gặp gỡ cuối năm” rồi đến cả
“Thời gian của người” nhân vật mà anh yêu mến bỗng được lý tưởng hoá một cách hơn
nhiều sự hoà hợp bên trong và bên ngoài” [210, 128]. Vƣơng Trí Nhàn xem đó là những
nhân vật mà nếu đem “đối chiếu với các nguyên mẫu phản ánh vốn có thì chắc chắn là họ đã
được thánh hoá” [177,17].
Nói về nghệ thuật xây dựng nhân vật Phan Cự Đệ thấy “Nguyễn Khải miêu tả, biểu
hiện thì ít, nhưng kể, nhận xét về nhân vật thì hơi nhiều”, và nhìn chung “các nhân vật sắc
sảo của Nguyễn Khải đôi khi cứ như là sự biểu diễn của trí tuệ” [45,508]. Trần Đình Sử căn
cứ vào cảm hứng nghiên cứu đời sống, vào ý thức nghệ thuật hƣớng vào “cái hôm nay” của
Nguyễn Khải, ông coi đó là nguyên nhân dân đến kiểu cấu trúc tác phẩm độc đáo của nhà văn
thể hiện ở hai mặt: tác phẩm không có kết thúc và số phận nhân vật cũng không có kết thúc,
nghĩa là còn “dở dang” nhƣ chính cuộc sống đang diễn ra vậy. Ông cũng tâm đắc với nghệ
thuật phân tích tâm lý nhân vật của Nguyễn Khải: “Tôi thấy ở văn xuôi của ta có khá nhiều
nhà văn miêu tả tâm lý giỏi, nhưng phân tích tâm lý thì ít ai làm được như anh Khải. Đi trước
anh, về mặt này, có thể chỉ là Nam Cao” [2]. Bích Thu cùng chung quan điểm: “Niềm say mê
nghiên cứu những bí ẩn của con người giúp Nguyễn Khải phát huy sở trường phân tích tâm
lý, đưa ông trở thành một trong những cây bút tiếp nối và kế tục xuất sắc truyền thống của
Nam Cao” [217, 112].
2.2.3. Về khuynh hướng tiểu thuyết Nguyễn Khải
Năm 1977 Nguyễn Văn Long đã Nhìn lại một chặng đƣờng tiểu thuyết và nhận
thấy rằng trong sự phát triển ngày càng đa dạng của tiểu thuyết Việt Nam từ sau năm 1945,
Nguyễn Khải là ngƣời đã mở ra một khuynh hƣớng
10
mới- - đó là khuynh hƣớng tiểu thuyết triết luận. Ông nêu lên các tiêu chí để nhận diện. Một
là căn cứ vào nội dung có thể đặt tên cho tiểu thuyếtcủa Nguyễn Khải là loại tiểu thuyết thời
sự luận đề. Hai là để phục vụ mục đích luận đề nhà văn không chú trọng khắc hoạ tính cách
nhân vật mà anh “thường phân tích nhân vật của mình như một nhà khoa học phân tích đối
tượng nghiên cứu. Anh cũng không chú ý nhiều đến tính hoàn thiện của cốt truyện…” Ba là
tuy cùng đi theo một khuynh hƣớng nhƣng ở mỗi tác phẩm Nguyễn Khải thƣờng có sự đổi
mới ở cách viết nhất định [140].
Năm 1985 tác giả Về một xu hƣớng tiểu thuyết đang phát triển phấn khởi thông
báo là trong thời gian gần đây có một số chuyển biến tƣơng đối đồng bộ của một loại cây bút
tiểu thuyết mở ra một xu hƣớng mới – xu hƣớng tiểu thuyết chính luận triết luận. Trong xu
hƣớng này ông xếp Nguyễn Khải và Nguyễn Mạnh Tuấn là hai cây bút xuân sắc, nhƣng
“riêng Nguyễn Khải thì từ lâu đã viết theo hướng này. Bây giờ anh vẫn tiếp tục viết như thế.
Càng ngày càng viết như thế”. Cùng vớ việc chỉ ra một số đặc điểm nhận diện, ông gọi đích
danh những cuốn Chiến sĩ, Chủ tịch huyện, Cha và con và…, Gặp gỡ cuối năm là loại tiểu
thuyết chính luận - triết luận [152].
Đến năm 1990 trong Giáo trình văn học Việt Nam 1945-1975 (tập 2), Đoàn Trọng
Huy đã chính thức coi chính luận là một nét phong cách nổi bật của văn xuôi Nguyễn Khải
[190].
Cùng chung những suy nghĩ ấy, năm 1998 Nguyễn Thị Bình lại khẳng định:
Nguyễn Khải ngày càng định hình một phong cách văn xuôi triết luạn. Trước đây, ông
thiên về chính luận và triết lý xung quanh các vấn đề chính trị (…) nên văn ông trí tuệ mà hơi
khô khan, lời “trữ tình ngoại đề” hơi nhiều, nhất là lại mang đậm tinh thần “giáo huấn”
(…). Giai đoạn sau này, Nguyễn Khải hướng sự chú ý vào các vấn đề thế sự nhân sinh (…)
văn phòng ông chuyển từ chính luận sang triết luận và năng lực hiểu lòng người, năng lực
phân tích đã khiến cho nhiều kết luận ông đưa ra đạt tới chiều sâu triết học [15,70-73].
11
Đi vào từng tác phẩm cụ thể, Lại Nguyên Ân coi Cha và con và… là một công trình
“Triết luận về tôn giáo và chủ nghĩa xã hội bằng ngôn ngữ tự sư” [1]. Văn Chinh thấy: “Với
Thời gian của người, Nguyễn Khải đã góp thêm một thành công mới cho xu hướng tiểu thuyết
triết luận của văn học ta” [23,2]. Vũ Quần Phƣơng cũng chung ý kiến: “Giá trị khảo luận
triết học của tập tiểu thuyết này là một cống hiến của Nguyễn Khải trong văn xuôi Việt Nam”
[205]. Nguyễn Đăng cổ võ: “Qua thời gian của người, người đọc thấy tiểu thuyết triết luận
của Nguyễn Khải đầy triển vọng và là xu hướng rất cân dối với tiểu thuyết của chúng ta ngày
này” [40,149]. Chỉ có Nguyễn Văn Lƣu riết gióng:
Phong cách triết lý của Nguyễn Khải từng đem lại cho bạn đọc những khoái cảm
thẩm mỹ thú vị. Nhưng pong cách đó cũng có chỗ chưa ổn lắm, và đến đây bộc lộ khá rõ.
Điều mà anh Vương Trí Nhàn gọi tạm là những triết lý hàm hồ và tuỳ tiện chính xác ra là
nhưng thế nào? (…) Cái chưa ổn ở đây thuộc về một dạng khác, ấy là bệnh sính triết lý. Đây
cũng là một căn bệnh khá phổ biến ở nhiều cây bút hiện nay, không riêng gì ở Nguyễn Khải.
Nhưng “sự này” ở Nguyễn Khải là phát sinh từ phong cách. [147,128].
Nhƣ vậy, theo các nhà nghiên cứu thì khuynh hƣớng tiểu thuyết Nguyễn Khải đƣợc
phát sinh từ phong cách của ông.
2.2.4. Về hình thức nghệ thuật và ngôn ngữ, giọng điệu của tiểu thuyết Nguyễn
Khải:
Nếu so sánh với một số tác giả khác sẽ thấy tiểu thuyết Nguyễn Khải thƣờng ngắn, về
dung lƣợng tác phẩm chi ngang truyện vừa. Lại Nguyên Ân nhận xét: “Những cái anh viết,
dài nhất như “Chiến sĩ” không tiêu biểu cho lối viết của anh. Ngay những tiểu thuyết của
anh mà tôi nghĩ là truyện vừa, người đọc tinh ý cũng thấy độ 1/3 hoặc 1/4 về cuối đọc không
thú vị như các phần trước”. Trần Đình Sử giải thich:
12
Viết về những cái đang là cùng thời, là nóng hổi, với cảm hứng nghiên cứu, tác phẩm
khó mà dài (…) Tác phẩm của anh Khải thường không phức tạp lắm về mặt hư cấu, thường
chỉ với một tuyến cốt truyện, một tuyến gồm vài ba nhân vật, với những đoạn như những
đoạn ký, ghi chép, lấy thẳng từ ngoài đời. Có lẽ nên gọi đó là những truyện ký [2].
Dƣờng nhƣ không thoả mãn với cách giải thích của Trần Đình Sử mà Lê Thành Nghị
phải lên tiếng:
Đa số những sáng tác của Nguyễn Khải thường là những cuốn ngắn: Chẳng phải
Nguyễn Khải luôn luôn quan tâm đến cái hôm nay (…) và vì viết về cái hôm nay thì không thể
kéo dài. Có thể viết rất dài là đằng khác. Nhưng xu thế đang ngắn lại của tiểu thuyết là xu
thế của mọi nền văn học, vì nhiều nguyên nhân, trong đó có vai trò quan trọng của sự tác
động của các hệ thống thông tin khác xuất hiện ngày mỗi nhiều hiện nay, trong đó có nhu cầu
thay dạng nhận thức càng ngày càng hướng đến cái “vi mô”, càng thu hẹp để hướng đến
chiều sâu của vấn đề. Một số lượng trang viết ít, hướng vào một vấn đề sâu sắc của cuộc
sống, có khi lại trở thành thứ vũ khí sắc bén hơn cả trong tay người đọc [166, 126-127].
Nhà thơ Ngô Văn Phú bằng cảm nhận riêng đã so sánh một cách thuyết phục:
Nguyễn Khải đã mở ra một hướng mới cho tiểu thuyết hiện nay. Trong khi nhiều tác
giả đã và đang viết những tác phẩm hàng bốn, năm trăm, thậm chí đến bảy, tám trăm trang,
anh chỉ thu cuốn tiểu thuyết của mình trên dưới một trăm trang. Trong khi bút pháp quen
thuộc của những người viết tiểu thuyết hiện nay vẫn nghiêng về tự sự và miêu tả, khắc hoạ
nhân vật, thậm chí sa đà vào một khung cảnh, một tình huống mà người viết say đắm, thì
Nguyễn Khải lại đem một lối viết chồng chéo đan cài rất khéo léo, đem những đoạn thể hiện
sinh động hiện tại kết hợp với những hồi tưởng dồn nén về những ấn
13
tượng dồn dập của quá khứ. Anh đã đem đến cái linh hoạt của thủ pháp các nhà điện ảnh
thường dùng ứng dụng khá thành công trong “Gặp gỡ cuối năm” và “Thời gian của người”.
Trong khi có nhà văn cố tình làm cho các chi tiết của truyện trở nên lắt léo, ly kỳ, thậm chí
đến khiên cưỡng, khắc học những tính cách của nhân vật mình, tỉa tót đến mức người ta thấy
lộ ra cái cố làm cho văn chương, thì Nguyễn Khải lại để cho nhân vật của mình hết sức thoải
mái, trong tính cách, nói ngôn ngữ hết sức tự nhiên của đời sống riêng của họ, trước nhưng
khung cảnh thật sự bình dị, hàng ngày. Trong khi những nhà văn ngần ngại chen vào tiểu
thuyết bình luận, nêu những nhận xét của mình, thì tác giả lại tự mình nhảy vào làm người
hướng dẫn truyện, trực tiếp dẫn dắt những câu chuyện tạo ra sự đầm ấm chan hoà giữa nhân
vật tác giả dựng lên và chính người viết. Phải chăng anh đã biết lấy cái hay của những thủ
pháp sân khấu mới ứng dụng cho tiểu thuyết? Nguyễn Khải còn đưa vào tiểu thuyết một dung
lượng văn chương rất báo chí về đủ mọi thứ chuyện khá tài tình. Trên cơ sở những tư liệu
hấp dẫn ấy, tác giả giới thiệu, chèn vào miêu tả làm hiện lên cuộc đời từng nhân vật có quan
hệ với những công việc nguy hiểm hoặc thử thách họ. Anh biết tận dụng sự mổ xẻ phân tích
sắc sảo tâm lý và bản lĩnh nhân vật, và nhờ đó, là cho những tư liệu có tính chất báo chí kia
chẳng khô khan một tí nào mà trở nên rất sinh động [200,4].
Nhƣ vậy, có thể nói ngắn gọn cũng là một đặc điểm của tiểu thuyết Nguyễn Khải.
Theo Vƣơng Trí Nhàn cho biết Nguyễn Khải đã nói rõ quan niệm của mình từ năm 1963.
Tự lượng sức mình là một điều hết sức quan trọng với mỗi người viết (…) Lúc đùa
bỡn, ông bảo: “Viết thế để người ta có thể đọc ù một cái, một hai buổi trưa là xong”. Những
lúc nghiêm chỉnh hơn, ông tâm sự: “Sức mình chỉ đến thế không nên kéo dài hơn. Điều quan
tọng là thức tỉnh người đọc cùng nghĩ chứ ai có sức mà nghĩ thay họ được [178,211].
14
Các nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Văn Long, Đoàn Trọng Huy đều
khẳng định khái niệm là cây bút luôn luôn thể nghiệm: mỗi lần cầm bút là một lần thí nghiệm
về một cái gì đó mà anh mới “sáng kiến” ra được, hoặc: mỗi tác phẩm của ông thƣờng là
một sáng kiến, một thử nghiệm…
Khi bàn đến kết cấu và cốt truyện của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Phan Cự Đệ
thƣờng dẫn chứng Nguyễn Khải tiêu biểu cho sự học tập và phát huy những thành tựu của lối
kết cấu chƣơng hồi trong tiểu thuyết cổ điển. Ông cho “đó là một cách làm thông minh, nó
giúp cho tác giả có khả năng lắp ghép những tài liệu gián tiếp, xâu chuỗi các truyện kể của
nhiều người khác nhau (…) Tiểu thuyết “Chiến sĩ” cũng như phần sau tiểu thuyết “Đường
trong mây” đã sử dụng khá nhiều yếu tố của cốt truyện phiêu lưu” [45,278]. Lại Nguyên Ân
đọc Cha và con và… thấy: “có cái vắn gọn của một kiểu truyện “cổ điển”, nghĩa là không
mới mẻ gì lắm ở bố cục chung” [1]. Nhƣng Huỳnh Nhƣ Phƣơng đọc Gặp gỡ cuối năm đã
chợt liên tƣởng đến “nghệ thuật tiểu thuyết của Friedrrich Duercenmatt (…) trong cuốn
“Một vụ hỏng xe” (Diepanne)” [2001]. Còn Phạm Khánh Cao đặt Nguyễn Khải bên cạnh văn
hào Nga Đôtxtôicpxki: “Gặp gỡ cuối năm” là một cuốn tiểu thuyết gọn mà sâu (…) Kết cấu
ủa một tiểu thuyết có thể đặt vào thời gian thật ngắn (…) “Tội ác và hình phạt” đồ sộ vậy mà
chỉ diễn ra không quá 48 tiếng đồng hồ …” [21]. Vƣơng Trí Nhàn lại chú ý đến cấu trú “Thời
gian của ngƣời”.
Cái hình của truyện rất đơn chỉ xoay quanh một cuộc gặp gỡ (…) Mạch truyện rất đơn
giản, có thể hình dung nó nhƣ một đƣờng thẳng đều đến từ đầu đến cuối, không có đỉnh điểm,
cao trào, thắt nút, cởi nút gì hết, tác giả gần nhƣ gặp đâu kể đấy, chỉ dùng một ít liên tƣởng
đơn giản để chuyển mạch truyện (…) những cuốn tiểu thuyết cỡ nhỏ (…) của anh, mỗi cuốn
đều có ý vị thật đậm, ở mỗi cuốn thấy gắt lên một sắc thái rõ rệt [175,3].
Về bút pháp của Nguyễn Khải nhiều nhà phê bình đã nhận xét: “Nghiêng về lối kể
hơn lối cả. Cốt truyện của Nguyễn Khải không có gì ly kỳ. Nhiều khi người viết không để ý
đến cốt truyện, đến cấu trúc tác phẩm, mà
15
quan tâm làm nôi bật chính kiến, một kiểu sống, cách nói năng ứng xử của nhân vật”
[216,113]. Vƣơng Trí Nhàn cảm nhận ở những tác phẩm thành công Nguyễn Khải thƣờng
“hiện ra như một người kể chuyện thông minh, la cà khắp nơi chia sẻ với mọi người mọi vui
buồn khi quan sát việc đời. Đó là một phong cách vừa dân dã vừa hiện đại” [177,59]. Bích
Thu khen Nguyễn Khải “là một trong những người kể chuyện hấp dẫn và có duyên nhất của
văn xuôi hiện đại” [217,113]. Còn Trần Đăng Khoa cho Nguyễn Khải thuộc trƣờng phái văn
chƣơng thông tấn: “Một mình ông một vị trí độc tôn, không có ai sánh được và cũng không
có ai học được” [77,118].
Về ngôn ngữ Phan Cự Đệ nhận xét, “Phong cách hiện thực tỉnh táo cũng tạo cho tác
phẩm Nguyễn Khải một thứ ngôn ngữ đặc biệt. Đó là một thứ ngôn ngữ trí tuệ sắc sảo…”
[45,498]. Lại Nguyên Ân nhấn mạnh: “Phải nói đến đặc sắc ngôn ngữ Nguyễn Khải, một
ngôn ngữ rất văn xuôi: nó không nống lên thống thiết mà thƣờng pha ngang sang giọng tƣng
tửng, đùa đùa. Thêm nữa là tính chất nhiễu giọng của văn xuôi này (…) và nói chung vẫn
phải nhận ằng ngôn của của Nguyễn Khải là đặc sắc” [2], Bích Thu cụ thể hơn nữa:
Tác giả đã tỏ rõ ưu thế trong sử dụng khẩu ngữ, những ngôn từ được chắt lọc từ lời
ăn tiếng nói hàng ngày khi trang nghiêm, trân trọng, khi đôn hậu trầm tư, khi thân mật suồng
sã (…) Ngôn ngữ người kể chuyện không chiếm vị trí độc tôn mà hoà nhập, xen lẫn với ngôn
ngữ nhân vật (…). Lời văn nghệ thuật của Nguyễn Khải là lời nhiều giọng, được cá thể hoá,
mang tính đối thoại của văn xuôi hiện đại [217,113].
Thế mạnh của tác phẩm Nguyễn Khải là ở chỗ ông đã tìm đƣợc “một giọng điệu riêng
biệt (…), giọng của người kể chuyện luôn luôn là giọng từng trải (…) Sự đùa giỡn của người
từng trải có một cái duyên riêng, một niềm kiêu hãnh che giấu dưới vẻ ngoài khiêm nhường,
đặc biệt là họ biết tự giêu mình trước lúc giêu người” [15, 73-75]. Hoặc “Tác giả thường sử
dụng phương thức gia tăng điểm nhìn trần thuật (…) làm phong phú thêm các giọng điệu
trần thuật, lồng ghép “truyện trong truyện”, “con người trong con người” làm nổi bật những
vấn đề tư tưởng của tác phẩm” [217, 113].
16
Từ tất cả những lời bàn đã nêu ở trên có thể nhất trí với kết luận: “Nguyễn Khải luôn
là gương mặt đáng chú ý của văn xuôi đương đại nước ta, thời nào ông cũng tìm được sự
đồng tình của công chúng rộng rãi. Bên cạnh khả năng biết thích ứng, phải chăng điều mấu
chốt là ở chỗ ông có được một tư duy tiểu thuyết” [15,75]….
Điểm lại những bài nghiên cứu, phê bình về tác giả, tác phẩm, Nguyễn Khải, chúng
tôi nhận thấy tuy còn đôichỗ khác biệt, thậm chí trái ngƣợc, nhƣng về cơ bản là thống nhất.
Hình nhƣ các phƣơng diện của tiểu thuyết Nguyễn Khải cũng nhƣ hầu hết các tác phẩm của
nhà văn này đều đã đƣợc đề cập đến. Tuy nhiên trong phạm vi những bài báo lẻ hay những
bài viết trong một tập sách chung, các tác giả đều chƣa có đủ điều kiện để đi sâu vào lý giải
một cách cặn kẽ, toàn diện về đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Khải và những đóng góp của ông
cho sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Chính vì vậy, luận án sẽ tổng hợp những
ý kiến của ngƣời đi trƣớc, về kế thừa vừa có đối thoại, tiến tới hệ thống hoá và phân tích,
chứng minh, cố gắng đến mức cao nhất để có đƣợc một công trình nghiên cứu tiểu thuyết
Nguyễn Khải một cách toàn diện và đầy đủ.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
3.1. Đối tƣợng:
Đối tƣợng khảo sát chính là 12 cuốn tiểu thuyết trong suốt cuộc đời sáng tác của
Nguyễn Khải từ Xung đột (tập 1 – 1959) đến Một cõi nhân gian bé tí (1989) (xin xem bảng
1,1 trang 34). Ngoài ra toàn bộ những sáng tác khác của Nguyễn Khải cũng đƣợc đƣa vào
diện khảo sát coi nhƣ tài liệu tham khảo quan trọng.
3.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
3.2.1. Phương pháp nghiên cứu tác giả văn học:
Luận án nghiên cứu sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khải nhƣ một quá trình vận động
liên tục gắn với quá trình vận động của hoàn cảnh lịch sử và tiến trình văn học Việt Nam từ
sau 1945. Vì vậy phƣơng pháp nghiên cứu tác giả văn học đƣợc huy động trên một cái nhìn
toàn cảnh về lịch sử văn học Việt Nam từ sau 1945.
3.2.2. Phương pháp nghiên cứu theo thể loại:
Luận án nghiên cứu chuyên sâu tiểu thuyết Nguyễn Khải cho nên việc vận dụng kiến
thức lý luận và những hiểu biết của mình về tiểu thuyết đƣợc vận dụng chủ yếu.
17
3.2.3. Phương pháp tổng hợp:
Để làm phong phú, sáng tỏ thêm ở nhiều phƣơng diện, chúng tôi còn vận dụng những
yếu tố hỗ trợ của các phƣơng pháp nghiên cứu văn học khác nhƣ phƣơng pháp phân tích cảm
thụ tác phẩm văn học, phƣơng pháp tổng hợp hệ thống hoá, phê bình văn học, lý thuyết tiếp
nhận văn học… Sự vận dụng những yếu tố của các phƣơng pháp hỗ trợ này chỉ trong những
trƣờng hợp thật cần thiết.
4. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án đƣợc triển khai thành 3 chƣơng:
Chương 1: Khuynh hướng tiểu thuyết Nguyễn Khải trong sự vận động của tiểu thuyết
Việt Nam từ sau 1945.
Chương 2: Nhân vật của tiểu thuyết Nguyễn Khải.
Chương 3: Đặc điểm kết cấu - cốt truyện và ngôn ngữ giọng điệu trần thuật
5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG
5.1. Đóng góp mới của luận án.
Nguyễn Khải là một trong những hiện tƣợng văn học nổi bật trong tiến trình văn xuôi
Cách mạng Việt Nam từ sau 1945. Nhiều nhà nghiên cứu phê bình đã rất quan tâm đến những
sáng tác của ông. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện và có hệ thống về tiểu thuyết Nguyễn Khải. Nhu cầu tìm hiểu tiểu thuyết Nguyễn
Khải nói riêng cũng nhƣ tàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông nói chung vẫn đang là một vấn đề
đặt ra. Vì vậy, nghiên cứu tiểu thuyết Nguyễn Khải trong tiến trình chung của văn xuôi
đƣơng đại Việt Nam, lý giải một cách cặn kẽ, thấu đáo,c hỉ ra mặt thành công và hạn chế của
nó là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa. Luận án cố gắng đáp ứng những yêu cầu đó và
chúng tôi coi đấy chính là những đóng góp mới trong quá trình nghiên cứu nhà văn Nguyễn
Khải.
5.2. Khả năng ứng dụng của luận án.
Kết quả của luận án có thể dùng để giảng dạy hoặc làm tài liệu tham khảo cho sinh
viên khoa Ngữ văn ở các trƣờng Cao đẳng và Đại học, đồng thời có thể ứng dụng trong việc
biên soạn giáo trình, sách văn học sử về một nhà văn Việt Nam hiện đại.
18
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: KHUYNH HƢỚNG TIỂU THUYẾT NGUYỄN KHẢI
TRONG SỰ VẬN ĐỘNG CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TỪ SAU 1945
1.1. Sự vận động của tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1945 (Điểm lƣợc trên nét
lớn).
1.1.1. Thời kỳ 1945 đến 1975
Xét về một số lƣợng tiểu thuyết ở giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lƣợc (1945 – 1954) xuất hiện chƣa nhiều. Nói đến tiểu thuyết kháng chiến các nhà nghiên cứu
thƣờng dẫn ra ba cuốn tiêu biểu cho các loại đề tài: về công nhân có Vùng mỏ; về nông dân
có Con trâu; còn về đề tài ngƣời chiến sĩ vệ quốc có Xung kích. Ở giai đoạn này các nhà
văn đứng trƣớc quá trnhf thức tỉnh, quá trình tự giải phóng của nhân dân lao động dƣới sự
lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng. Sự bình tĩnh những giá trị tiềm tàng trong đời sống
tinh thần dân tộc, niềm vui sƣớng tự tin của mỗi con ngƣời - đặc biệt là những ngƣời lao
động, đã thu hút sự chú ý của các nhà văn. Trung tâm cảm hứng của văn nghệ sĩ lúc bấy giờ
là hƣớng tới nhân dân. Cảm hứng ấy chi phối đến sự chọn lựa đề tài và việc xây dựng những
nhân vật trung tâm cho tác phẩm. Những cái riêng tƣ cá thể bị xem là nhỏ bé, vô nghĩa, phiên
dịch cho nên nó bị chối từ. Nhà văn dƣờng nhƣ không có ý định xây dựng những nhân vật
mang số phận cá nhân trọng vẹ mà họ thƣờng tậm trung cho việc khắc hoạ những chân dung
tập thể (Ở đây không thấy những mâu thuẫn xung dột giữa các cá nhân với nhau mà chỉ thấy
những mâu thuẫn xung đột giữa dân tộc giai cấp với kẻ thù). Có lẽ với cảm hứng hƣớng về
nhân dân vĩ đại trong đó những ngƣời áo vải chân đất vô danh làm nên lịch sử đã mách bảo
các văn nghệ sĩ tìm tới kiểu nhân vật tập thể nỳ. Mặt khác với ý hƣớng xây dựng một nền văn
học mới theo phƣơng châm dân tộc khoa học và đại chúng mà Đảng phát động đã khiến các
nhà văn tích cực khám phá hiện thực kháng chiến, phát
19
hiện những phẩm chất, những khả năng Cách mạng tiềm tàng ở ngƣời lao động. Cảm hứng
hƣớng về những nhân vật tập thể muốn ngƣời kết lại thành một khối thống nhất ý chí và hành
động đã trở thành dấu ấn sâu đậm mang tính chất đặc thù của nền văn học kháng chiến nói
chung. Trên cái nền chung đó tiểu thuyết kháng chiến quan tâm khai thác những yế tố sử thi
đã tạo ra một thể tài tiểu thuyết với kiểu kết cấu xâu chuỗi những sự kiện, những khung cảnh
xã hội ảộng lớn có quy mô lại với nhau, trong đó nổi bật lên vai trò của quần chúng nhân dân
“động lực thúc đẩy lịch sử”. Ngôn ngữ quần chúng (nhất là ngôn ngữ hoạt động xã hội) đƣợc
sử dụng nhiều, còn ngôn ngữ mang tính cá thể hoá thƣờng ít đƣợc chú ý. So với tiểu thuyết
trƣớc 1945 thì điều đó thể hiện những cố gắng lớn mở ra những khả năng mới cho tiểu thuyết
phát triển. Tuy nhiên cố gắng lớn mở ra những khả năng mới cho tiểu thuyết phát triển. Tuy
nhiên vẫn có cảm giác dƣờng nhƣ tiểu thuyết giai đoạn này có sự dứt đoạn với nguồn mạch
phát triển của loại tiểu thuyết tâm lý – xã hội vốn đã có thành tựu từ trƣớc Cách mạng tháng
Tám.
Tiếp theo đó, giai đoạn mƣời năm hoà bình ở miền bắc (1955-1964) tiểu thuyết phát
triển khá rầm rộ và thu đƣợc nhiều thành tựu. Đề tài kháng chiến chống Pháp tiếp tục đƣợc
thể hiện ở chiều sâu hơn và có quy mô lớn hơn. Trong khung cảnh tạm im tiếng súng trên nửa
nƣớc, các nhà văn có đủ thời giờ để bao quát tƣ liệu, nghiền ngẫm, tái tạo, thai nghén và cho
ra đời những tác phẩm đã đƣợc họ ôm ấp dự định từ những năm đi kháng chiến. Một loạt
cuốn tiểu thuyết đƣợc giải thƣởng 1955-1956 nhƣ Đất nƣớc đứng lên của Nguyễn Ngọc,
Vƣợt Côn Đảo của Phùng Quán, Ngƣời ngƣời lớp lớp của Trân Dần. ,… đều tập trung khai
thác đề tài kháng chiến rất thành công. Cảm hứng chủ đạo trong những tác phẩm này vẫn là
cảm hứng hƣớng về nhân dân - diễn tả quá trình tự vùng dậy đoàn kết chống kẻ thù của quần
chúng Cách mạng và những cán bộ, chiến sĩ cộng sản. Thành tựu nổi bật của những taácphẩm
về đề tài kháng chiến đƣợc ghi nhận ở chỗ lần đầu tiên nó đã xây dựng đƣợc những hình
tƣợng tiêu biểu của ngƣời anh hùng kiểu mới. Nhân vật Núp trong Đất nƣớc lớn lên thể hiện
tập trung quy luật phát triển của ngƣời anh hùng trong
20
thời đại giải phóng dân tộc; từ chƣa hiểu Pháp lúc đầu rồi thử bắn Pháp xem nó có máu
không, đến việc đoàn kết các dân tộc quyết tâm chống Pháp giữ vững buôn làng là quá trình
chuyển biến Cách mạng không ngừng của ngƣời anh hùng và của cả nhân dân các dân tộc
Tây Nguyên. (Mỗi bƣớc phát triển của cuộc kháng chiến nơi núi rừng hùng vĩ hoang sơ đều
gắn chặt với quá trình hình thành bản lĩnh Cách mạng và hoàn thiện nhân cách của ngƣời anh
hùng). Với nhân vật Núp, Nguyên Ngọc đã đặt nhân vật vào giữa dòng thác lớn của lịch sử để
thể hiện và ngƣời đọc cũng cảm nhận đƣợc rất rõ sự vận động của lịch sử trong sự vận động
của một con ngƣời. Thành công của Đất nƣớc đứng lên đƣa Nguyễn Ngọc lên hàng những
cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Trong tác phẩm này màu sắc sử thi rất rõ. Quá trình
giác ngộ Cách mạng và trƣởng thành của ngƣời phụ nữ nông dân Nam Bộ đƣợc Bùi Đức Ái
thể hiện khá đạm nét và gây ấn tƣợng đẹp trong lòng ngƣời đọc qua nhân vật chị Tƣ Hận
trong tác phẩm Một truyện chép ở bệnh viện. Bằng hình thức ghi chép một đoạn đời bị đè
nén sau đó tự vùng dậy và đƣợc Đảng giác ngộ của chị Tƣ Hậu, tác giả đã thành công trong
việc ca ngợi sức mạnh vƣơn lên của con ngƣời trong cuộc chiến tranh chính nghĩa. Đó là
những con ngƣời không chỉ vùng dậy để tự giải phóng mình và dân tộc của mình, mà còn
khẳng định đƣợc nhân cách và định hƣớng đúng đắn cho những bƣớc đi sau này của bản thân
mình nữa. Sau đó vào những năm đầu thập kỷ 60, đề tài kháng chiến còn đƣợc tiếp tục thể
hiện ở một loạt tác phẩm của Bên kia biên giới và Trƣớc giờ nổ súng của Lê Khâm, Đất lửa
của Nguyễn Quang Sáng, Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tƣởng, Phá Vây của Phù
Thăng, Trên mảnh đất này của Hoàng Văn Bổn, Cao điểm cuối cùng của Hữu Mai, v.v…
Đóng góp của tiểu thuyết viết về đề tài kháng chiến đƣợc ghi nhận ở chỗ nó đã giải quyết khá
tốt vấn đề miêu tả những hiện tƣợng lịch sử và góp phần mở rộng hiện thực kháng chiến: hiện
thực kháng chiến đƣợc phản ánh ở nhiều phƣơng diện, nhiều góc độ, nhiều vùng đất khác
nhau. Điều quan trọng nhất là nó đã xây
21
dựng đƣợc một số tính cách tiêu biểu cho những con ngƣời Việt Nam mới sau Cách mạng
tháng Tám trong mối quan hệ với lịch sử. Giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật cũng đƣợc
xử lý một cách tự nhiên và có chiều sâu. Cùng với đề tài kháng chiến, nhiều cuốn tiểu thuyết
viết về đề tài trƣớc Cách mạng tháng Tám với những tác phẩm có tấm cỡ lớn nhƣ Sóng gầm
của Nguyên Hồng, Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, Mƣời năm của Tô Hoài, Tranh tối tranh
sáng và Đống rác cũ của Nguyễn Công Hoan… Khi viết những tác phẩm này các nhà văn
đều muốn tái hiện một giai đoạn lịch sử của đời sống xã hội Việt Nam trƣớc Cách mạng với
những biến động dữ dọi của nó. Với ý đồ xây dựng những bức tranh toàn cảnh rộng lớn tập
trung vào các “dòng chảy” đến với Cách mạng của mọi tầng lớp nhân dân lao động, các nhà
văn đã rất cố gắng trong việc dàn dựng những bộ tiểu thuyết có quy mô lớn với nhiều tuyến
nhân vật. Để làm đƣợc việc này họ phải giải quyết một ben là tiểu thuyết sự kệin và một bên
là loại tiểu thuyết tâm lý xã hội, tức là phải xây dựng kiểu tiểu thuyết tổng hợp trong nó nhiều
dạng tiểu thuyết khác nhau. Và đấy chính là một nỗ lực rất lớn đáng ghi nhận. Tuy nhiên khi
đi sâu vào diện tả nội tâm của nhiều tầng lớp ngƣời trong xã hội lại là một việc làm không thể
dễ dàng. VÌ thế mà thành công của những tác phẩm này chỉ nổi bật ở một số mặt nào đó.
Chẳng hạn ngòi bút Nguyễn Hồng tỏ ra rất có ƣu thế trong việc diễn tả đời sống nội tâm của
tầng lớp thị dân nghèo là bởi vì ông rất thấm thía với kiếp sống của những con ngƣời cùng
khổ, vất vƣởng dƣới đáy xã hội, bị huỷ hoại về thể xác và tinh thần mà ông từng đã trải qua.
Nhƣng nhƣ ông nói, tất cả những con ngƣời từng bị coi là “cặn bã” ấy “đều không ít trau
chuốt cho sự sống tình cảm sâu xa tƣơi thắm mà các bọn ngƣời trong giai cấp bóc lột không
thể nào có đƣợc. Và từ những chốn nhày nhụa đen tối, họ không ngừng vƣơn lên ánh sáng”
nhƣ có cây vẫn luôn theo hƣớng mặt trời. Đó là chủ nghĩa nhân đạo Nguyên Hồng đƣợc nảy
sinh từ đạo lý tình cảm dân tộc kết hợp với màu sắc Cơ Đốc giáo. Còn với Nguyễn Đình Thi,
những trang văn hay nhất của ông trong Vỡ bờ là