LỜI MỞ ĐẦU
Người xưa có câu: “ Miếng trầu bắt đầu câu chuyện”. Để khởi đầu một câu
chuyện, người Việt Nam ta thường đi vòng vo rồi sau đó mới vào vấn đề chính.
Đó cũng là một trong những đặc trưng giao tiếp đã hình thành từ xa xưa và bây
giờ vẫn còn tiếp diễn. Chắc chắn sẽ không có vấn đề gì khi chúng ta giao tiếp
với nhau theo cách thức như vậy nhưng chuyện gì sẽ xảy ra khi bạn cũng áp
dụng câu nói này khi giao tiếp với người nước ngoài?
Trong thời đại kinh tế toàn cầu, việc hội nhập với các nền kinh tế toàn cầu là
tất yếu. Việc kinh doanh quốc tế sẽ thuận buồm xuôi gió nếu như các doanh
nghiệp nắm vững được các nguyên tắc trong giao tiếp quốc tế, cụ thể là văn hoá
giao tiếp kinh doanh của nước mà doanh nghiệp đang hợp tác.
Như các bạn biết Việt Nam nằm ở Châu Á, chúng ta chịu ảnh hưởng của nền
văn hoá Phương Đông nên việc giao lưu kinh tế sẽ trở nên thuận lợi hơn với các
nước trong cùng châu lục. Tuy vậy với những nước trong khu vực như Hàn
Quốc, Nhật Bản với khoảng cách địa lý, tôn giáo và nền văn minh khác xa thì
việc giao tiếp kinh doanh cũng sẽ rất khó khăn. Tìm hiểu các nền văn hoá của
các nước khác không chỉ giúp công việc kinh doanh đạt được kết quả tốt mà
chúng ta có thể tiếp thu, giao lưu với các nền văn hoá, văn minh tiên tiến của
nhân loại.
Nhóm chúng em đã tìm hiểu về “Văn hoá trong giao tiếp kinh doanh của nước
Nhật Bản”. Tuy nhiên, vì thời gian hạn chế nên trong quá trình tìm hiểu nhóm sẽ
không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của cô để bài
viết được hoàn chỉnh hơn.
Chúng em chân thành cám ơn!
MỤC LỤC
I.
II.
CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1. Khái niệm văn hoá:
Văn hoá được hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ những gì di sản của loài
người, bao gồm tất cả kiến thức và những các quy tắc ứng xử trong thực tế của
cuộc sống tinh thần và vật chất của một xã hội. Văn hoá bao trùm lên tất cả các
vấn đề từ cách ăn uống đến trang phục , từ các tập quán trong gia đinh đến công
nghệ sử dụng trong công nghiệp. Từ cách ứng xử của mỗi người trong xã hội
đến nội dung và hình thức của các phương tiện thông tin đại chúng, từ phong
cách, cường độ làm việc đến các quan niệm về đạo đức xã hội. Mỗi cộng đồng
dân cư có thể có những nền văn hoá riêng biệt. Văn hoá giữa các nước khác
nhau. Đồng thời, ngay trong một nước các khu vực khác nhau cũng có thể tồn tại
những văn hoá khác nhau.
Văn hoá tạo nên cách sống của một cộng đồng, quyết định cách thức tiêu
dùng, thứ tự ưu tiên và phương cách thoả mãn nhu cầu của con người. Văn hoá
là môi trường nhân tạo trong tổng thể các yếu tố môi trường tồn tại xung quanh
cuộc sống của cộng đồng người. Văn hoá bao gồm tổng thể kiền thức, đạo đức,
đức tin, nghệ thuật, luật pháp, tập quán, thói quen được các thành viên trong một
cộng đồng thừa nhận. Nói một cách khác, văn hoá là tất cả những gì các thành
viên trong xã hội có, nghĩ và làm.
2. Các thành phần của văn hóa:
Văn hoá là yếu tố chi phối hành vi của con người. Vì vậy, văn hoá chi
phối cách thức ứng xử và ra quyết định trong các cuộc giao dịch đàm phán kinh
doanh. Hiểu biết về các thành phần của văn hoá là cơ sở để có thể lý giải và dự
3
đoán hành vi của đối tác. Có nhiều cách hiểu khác nhau về thành phần văn hoá,
tuỳ theo phương pháp tiếp cận. Cách hiểu về thành phần văn hoá của các nhà
dân tộc tất nhiên phải khác cách tiếp cận của các nhà kinh doanh, văn hoá có thể
được chia thành 5 thành phần. Tất cả các thành phần của văn hoá đều có ảnh
hưởng ở góc độ nhất định đến kết quả một cuộc giao dịch, đàm phán kinh doanh
vì nó tạo nên môi trường văn hoá mà trong đó các nhà doanh của ra thông tin,
phản ứng và ra quyết định.
2.1.
Yếu tố văn hoá vật chất:
Yếu tố văn hoá vật chất được chia thành hai nhóm: nhóm yếu tố công
nghệ và nhóm yếu tố kinh tế:
Công nghệ là tất cả những kỹ thuật phần cứng (máy móc thiết bị) và
phần mềm (bí quyết kỹ thuật, kỹ năng quản lý) sử dụng đề làm ra những của
cải vật chất cho xã hội.
Yếu tố kinh tế bao gồm những cách thức mà các nhân cống hiến khả
năng lao động và thu về những lợi ích. Quan điểm và sự phát triển của thành
phần kinh tế tư nhân là một tiêu biểu cho sự khác biệt về kinh tế ảnh hưởng
đến phong cách đàm phán kinh doanh.
2.2.
Yếu tố tổng thể xã hội:
Yếu tố văn hoá tổng thể xã hội bao gồm tổ chức xã hội, giáo dục, cơ cấu
chính trị, là những yếu tố quy định cách thức mà mọi người có quan hệ với nhau,
tổ chức các hoạt động của cá nhân và cộng đồng.
Yếu tố tổ chức xã hội quy định vị trí của nam và nữ trong xã hội, cơ cấu
giới tính, quan niệm về gia đình, vai trò của gia đình trong giáo dục và phát triển
thế hệ trẻ, cơ cấu tầng lớp xã hội, hành vi của các nhóm, và cơ cấu tuổi. Yếu
4
tố giáo dục quyết định học vấn cũng là nền tảng quan trọng của hành vi. Cơ cấu
chính trị của một đất nước cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hành
vi của các nhà kinh doanh trong đàm phán. Sự hậu thuẫn của chính phủ thông
qua các chương trình đàm phán cấp nhà nước về quan hệ kinh tế là có thể một
nguồn sức mạnh để nhà doanh nghiệp có thể gây sức ép với đối tác đàm phán.
2.3.
Yếu tố quan niệm, tín ngưỡng, đức tin:
Yếu tố quan niệm, tín ngưỡng, đức tin thể hiển quan niệm của các con
người về chính sự tồn tại của loài người, của xã hội và vũ trụ bao la. Đây là
nhóm nhân tố văn hoá cực kỳ phức tạp thể hiện qua hệ thống các đức tin, tín
ngưỡng, tôn giáo, mê tín dị đoan. Những nhân tố tinh thần có ý nghĩ quan trọng
trong hành vi, ứng xử của con người và cộng đồng xã hội. Tôn giáo dĩ nhiên có
ảnh hưởng quyết định đến hành vi và ứng xử của các nhà kinh doanh. Tôn giáo,
tín ngưỡng được nhận như yếu tố nhạy cảm nhất của văn hoá nhưng những giá
trị tín ngưỡng của một cá nhân thường khác. Đại đa số đều am hiểu về một loại
hình văn hoá ở trong đó họ tồn tại mà không có hiểu biết đúng đắn của các nền
văn hoá khác.
2.4.
Nhóm yếu tố văn hoá thẩm mỹ:
Yếu tố văn hoá thẩm mỹ thể hiện qua nghệ thuật, văn học, âm nhạc, kịch
nghệ, ca hát. Nhóm yếu tố văn hoá quyết định các nhìn nhận về cái đẹp, hướng
tới thiện – mỹ. Các nhân tố này ít nhiều ảnh hưởng đến quan niệm của các nhà
kinh doanh về giá trị đạo đức, các chuẩn mực hành vi.
2.5.
Nhóm yếu tố ngôn ngữ:
Triết học duy vật biện chứng quan niệm ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của
ý thức. Ý thức lại là sự phản ánh tại khách quan thông qua bộ óc của con người.
5
Nếu coi ngôn ngữ và hành vi là cái vỏ bên ngoài của văn hoá thì ngôn ngữ
là yếu tố cực kỳ quan trọng. Trong đàm phán kinh doanh của các doanh nghiệp
có chung một quốc tịch thì vấn đề ngôn ngữ không phải là khó khăn đáng kể.
Những đối với các cuộc đàm phán kinh doanhh quốc tế, ngôn ngữ thực sự có thể
trở thành một vũ khí hay một khó khăn đối với đoàn đàm phán.
3. Văn hóa kinh doanh :
3.1 . Khái niệm Văn hóa kinh doanh:
Văn hóa kinh doanh là hệ thống các giá trị, các chuẩn mực, các quan niệm
và hành vi do chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh, được thể
hiện trong cách ứng xử của họ đối với xã hội, tự nhiên ở một cộng đồng hay
một khu vực.
Văn hóa kinh doanh bao gồm:
Triết lý kinh doanh
Đạo đức kinh doanh
Văn hóa doanh nhân
Văn hóa doanh nghiệp
Ứng xử kinh doanh
3.2. Các nhân tố cấu thành văn hóa kinh doanh:
a. Văn hóa xã hội, văn hóa dân tộc:
Văn hóa kinh doanh là một bộ phận của văn hóa dân tộc, văn hóa xã hội.
Vì vậy, sự phản chiếu của văn hóa dân tộc, văn hóa xã hội lên nền văn hóa kinh
doanh là một điều tất yếu. Mỗi cá nhân trong 1 nền văn hóa kinh doanh đều phụ
6
thuộc vào một nền văn hóa dân tộc cụ thể, với một phần tuân theo các giá trị văn
hóa dân tộc cụ thể, với một phần nhân cách tuân theo các giá trị văn hóa dân tộc.
Mức độ coi trọng tính cá nhân hay tính tập thể, khoảng cách phân cấp xã hội,
tính linh hoạt chuyển đổi giữa các tầng lớp xã hội, tính đối lập giữa nam quyền
và nữ quyền, tính thận trọng,… là những nhân tố của văn hóa xã hội tác động
mạnh mẽ đến văn hóa kinh doanh. Hoạt động kinh doanh luôn tồn tại trong một
môi trường xã hội nhất định nên nhất thiết nó phải chịu ảnh hưởng của văn hóa
xã hội. Các yếu tố của nền văn hóa xã hội như hệ giá trị, tập tục, thói quen, nghi
lễ, lối sống, tư tưởng tôn giáo, cơ cấu dân số, thu nhập của dân chúng, vai trò
của các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội,… đều tác động mạnh mẽ đến hoạt
động của doanh nghiệp.
b. Thể chế xã hội:
Thể chế là yếu tố hàng đầu, có vai trò tác động chi phối tới văn hóa kinh
doanh của mỗi nước. Hoạt động sản xuất kinh doanh của từng cá nhân, từng tổ
chức, từng doanh nghiệp trong xã hội đều phải chịu sự quy định, sự tác động của
môi trường thể chế, phải tuân thủ các nguyên tắc, thủ tục hành chính, sự quản
lý của Nhà nước về kinh tế. Do vậy, có thể nói, thể chế chính trị, thể chế kinh
tế, thể chế hành chính, thể chế văn hóa, các chính sách của Chính phủ, hệ thống
pháp chế,… là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường kinh doanh và
qua đó ảnh hưởng sâu sắc tới việc hình thành và phát triển văn hóa kinh doanh.
Sự ổn định chính trị được coi là một tiền đề quan trọng cho hoạt động kinh
doanh của daonh nghiệp. Sự bình ổn của hệ thống chính trị biểu hiện qua các
yếu tố pháp luật, ngoại giao, hệ thống chính sách, v.v… sẽ tạo điều kiệ tốt cho
hoạt động kinh doanh, tạo sự ổn định của doanh nghiệp và tạo điều kiện cho sự
phát triển văn hóa kinh doanh.
7
c. Quá trình toàn cầu hóa:
Toàn cầu hóa tạo nên 1 xu thế phát triển ngày càng rõ nét, các nền kinh tế
ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn nhau, tiến dần đến một hệ thống kinh tế toàn
cầu. Mà trong quá trình toàn cầu hóa diễn ra sự giao lưu giữa các nền văn hóa
kinh doanh, đã bổ sung thêm giá trị mới cho kinh doanh mỗi nước, làm phong phú
thêm kho tàng kiến thức về kinh doanh, biết cách chấp nhận những luật chơi
chung, những giá trị chung để cùng hợp tác phát triển. Đồng thời trong quá trình
này, các giá trị văn hóa truyền thống của các quốc gia được khơi dậy, làm tôn
vinh tên tuổi của quốc gia đó trên thị trường thế giới. Sự phát triển của các công
ty tập đoàn toàn cầu, đa quốc gia không những góp phần đóng góp vào sự thịnh
vượng của kinh tế thế giới, mà còn góp phần hình thành nên các chuẩn mực
quản lý kinh doanh và làm giàu, sâu sắc thêm bản sắc kinh doanh của các doanh
nghiệp.
d. Sự khác biệt và sự giao lưu văn hóa.
Giữa các quốc gia, các chủ thể kinh doanh và các cá nhân trong đơn vị kinh
doanh không bao giờ có cùng một kiểu văn hóa thuần nhất. Trong môi trường
kinh doanh quốc tế ngày nay, các chủ thể kinh daonh không thể duy trì văn hóa
của mình như một lãnh địa đóng kín mà phải mở cửa và phát triển giao lưu về
văn hóa. Sự giao lưu về văn hóa tạo điều kiện cho các chủ thể kinh doanh học
tập, lựa chọn những khía cạnh tốt về văn hóa của các chủ thể khác nhằm phát
triển mạnh nền văn hóa của doanh nghiệp mình. Mặt khác, quá trình tìm hiểu và
giao lưu văn hóa ngày càng làm cho các chủ thể kinh doanh hiểu thêm về nền
văn hóa của mình từ đó tác động trở lại hoạt động kinh doanh.
e. Khách hàng.
8
Các chủ thể kinh doanh tồn tại và phát triển không vì lợi nhuận trước mắt
mà phải vì lợi nhuận lâu dài và bền vững. Với vai trò là người góp phần tạo ra
doanh thu, khách hàng cũng đóng góp 1 phần quan trọng vào việc tạo ra lợi
nhuận lâu dài và bền vững cho chủ thể kinh doanh. Cuộc sống càng hiện đại,
cung cách buôn bán càng phát triển thì khách hàng càng được tự do hơn trong lựa
chọn. Do đó, nhu cầu, thẩm mỹ, trình độ dân trí về kinh tế của khách hàng tác
động trực tiếp tới văn hóa kinh doanh của các chủ thể kinh doanh.
f. Các yếu tố nội bộ doanh nghiệp.
Văn hóa doanh nghiệp còn chịu tác động mạnh mẽ từ các yếu tố thuộc nội bộ
doanh nghiệp như: Người đứng đầu/người chủ doanh nghiệp, lịch sử và truyền
thống của doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, hình thức sở
hữu của doanh nghiệp, mối quan hệ giữa các thành viên của doanh nghiệp, các
giá trị văn hóa học hỏi được và văn hóa vùng miền.
4. Đàm phán kinh doanh:
4.1. Sự cần thiết và khái niệm đàm phán kinh doanh:
Trong cuộc sống của chúng ta giải quyết các công việc thường liên quan
đến nhiều người. Bất cứ một công việc gì liên quan đến người thứ hai đều phải
tiến hành đàm phán. Có thể khẳng định rằng thế giới hiện thực mà ta đang sống
là một bàn đàm phán khổng lồ mà mỗi chúng ta là thành viên của bàn đàm phán
khổng lồ ấy.
Trên thương trường các doanh nhân vừa hợp tác với nhau, vừa cạnh tranh
với nhau. Điều hòa các lợi ích của chủ thể hoạt động trên thương trường vừa là
yêu cầu khách quan để tồn tại vừa là yêu cầu của hợp tác liên minh. Đàm phán là
9
con đường tốt nhất để điều hòa mâu thuẫn lợi ích vật chất và giải quyết mâu
thuẫn giữa các bên. Các chủ thể kinh doanh khi tham gia quá trình đàm phán luôn
đem theo các mục đích và đề cao lợi ích của mình. Lợi ích của mỗi bên lại nằm
giao thoa với lợi ích của phía bên kia. Quá trình đàm phán nếu có sự thống nhất
hoặc nhân nhượng thì sẽ dẫn đến thành công.
Các cuộc đàm phán song phương, đa phương về kinh tế, đầu tư kinh
doanh ở một nước không phải chỉ có các chủ thể ở trong nước đó mà còn có sự
tham gia của người nước ngoài. Đàm phán là chức năng của nhà kinh doanh, là
công cụ để đảm bảo thành công.
Vậy đàm phán kinh doanh là gì? Đàm phán kinh doanh là bàn bạc, thỏa
thuận giữa hai hay nhiều bên để cùng nhau nhất trí hay thỏa hiệp giải quyết
những vấn đề về kinh doanh có liên quan đến các bên.
Như vậy giao dịch là để thiết lập các quan hệ , còn đàm phán để giải
quyết các vấn đề có liên quan đến các bên. Nếu không có liên quan với nhau,
trước hết là liên quan lợi ích vật chất, thì người ta không đàm phán với nhau.
4.2. Bản chất của đàm phán kinh doanh:
Đàm phán kinh doanh lấy lợi ích kinh tế đạt được là mục đích cơ bản .
Người đàm phán kinh doanh lấy việc đạt được lợi ích kinh tế mới đề cập đến
những lợi ích phi kinh tế khác. Tuy trong quá trình đàm phán kinh doanh người
đàm phán có thể điều động và vận dụng các nhân tố , mà các lợi ích phi kinh tế
cũng sẽ ảnh hưởng đên kết quả đàm phán, nhưng mục tiêu cuối cùng vẫn là lợi
ích kinh tế. Trong đàm phán kinh doanh người đàm phán chú ý hơn đến giá thành
của đàm phán, hiệu suất và hiệu quả. Cho nên người ta thường lấy sự tốt, xấu
của hiệu quả kinh tế mà đánh giá đàm phán kinh doanh. Không nhằm tới hiệu
quả kinh tế cũng mất đi giá trị và ý nghĩa.
10
Giá cả là hạt nhân của đàm phán. Nhân tố liên quan đến kinh doanh đàm
phán kinh doanh rất nhiều nhu cầu và lợi ích của người đàm phán biểu hiện ở
rất nhiều phương diện, nhưng giá trị hầu như là nội dung hạt nhân của tất cả
cac cuộc đàm phán kinh doanh. Đó là vì trong đàm phán kinh doanh, hình thức
biểu hiện của giá trị là giá cả phản ánh trực tiếp nhất lợi ích của đôi bên đàm
phán. Trong đàm phán kinh doanh chúng ta một mặt phải lấy giá cả làm trung
tâm, kiên trì lợi ích của chính mình, mặt khác lại không thể chỉ hạn chế ở giá cả
mà kết hợp các nhân tố khác.
Đàm phán không đơn thuần là quá trình theo đuổi nhu cầu lợi ích bản
thân, mà là quá trình đôi bên thông qua việc không ngừng điều chỉnh nhu cầu của
mỗi bên mà tiếp cận với nhau, cuối cùng đạt tới ý kiến nhất trí. Tức là, đàm
phán là một loạt quá trình, đề ra yêu cầu, chịu nhượng bộ và cuối cung đạt thành
hiệp nghị. Đàm phán cần có thời gian, đàm phán vấn đề phức tạp càng như vậy.
Quá trình đàm phán dài ngắn quyết định ở trình độ nhận thức đối với sự xung
đột về lợi ích của đôi bên, và trình độ cộng thông của đôi bên.
Đàm phán không phải là sự lựa chọn đơn nhất “ hợp tác” và “xung đột” ,
mà là mâu thuẫn thống nhất giữa “hợp tác” và “xung đột”. Hiệp nghị đạt được
thông qua đàm phán nên có lợi cho cả đôi bên. Lợi ích cơ bản của đôi bên từ
trong đó được bảo đảm, đó là một mặt mang tính hợp tác của đàm phán; Đôi bên
tích cực săn sóc đến lợi ích của mình, hy vọng trong đàm phán đạt được lợi ích
càng nhiều hơn, đó là mặt mang tính xung đột của đàm phán. Vì vậy, hiểu rõ và
nhận thức đàm phán là mâu thuẫn thống nhất giữa đàm phán và xung đột, là rất
quan trọng đối với người đàm phán.
Đàm phán không phải là thỏa mãn lợi ích của mình một cách không hạn
chế, mà là có giới hạn lợi ích nhất định. Người đàm phán cần bảo vệ lợi ích của
11
mình, cần trong phạm vi có thể tìm kiếm được càng nhiều lợi ích. Nhưng bất kì
người đàm phán nào cũng phải thỏa mãn nhu cầu thấp nhất của đối phương,
nếu không nhìn nhận nhu cầu thấp nhất của đối thủ, bức bách đối phương một
cách không hạn chế, cuối cùng sẽ là cho đối thủ rut lui mà mất hết lợi ích về tay
mình.
4.3. Ảnh huởng của văn hóa đến đàm phán và giao dịch kinh doanh:
a. Khác biệt về ngôn ngữ và những cử chỉ hành vi không lời.
Trong tất cả các ngôn ngữ được sử dụng chủ yếu trong đàm phán kinh
doanh, các câu hỏi và những câu tự bộc lộ thông tin là những hành vi ngôn ngữ
được sử dụng thường xuyên nhất. Tuy nhiên ngay cả đối với những hành vi
ngôn ngữ xuất hiện nhiều nhất này thì các nhà giao dịch, đàm phán có quốc tịch
khác nhau có tần suất sử dụng khác nhau. Trong đàm phán kinh doanh, những câu
mệnh lệnh, cam kết, và hứa hẹn cũng thường xuyên được sử dụng trong các
ngôn ngữ đàm phán thông dụng.
b. Sự khác biệt về quan niệm giá trị:
Có 4 quan niệm về giá trị thường được hiểu khác nhau trong những nền
văn hóa khác nhau: khách quan, cạnh tranh, công bằng và quan niệm về thời
gian:
Các nhà giao dịch đàm phán ở mỗi quốc gia khác nhau có những quyết
định đàm phán khác nhau, các yếu tố khách quan hay không khách quan tùy vào
mỗi nước.
Cạnh tranh là đặc điểm của đàm phán. Đây là hình thức cạnh tranh giữa
người mua và người bán với tư cách là hai bên đối tác trên bàn đàm phán. Xu
hướng vận động của các yêu cầu về giá cả và điều kiện trao đổi của bên mua và
12
bên bán là trái ngược nhau. Kết quả của quá trình cạnh tranh giữa hai bên đối tác
chính là kết quả của cuộc đàm phán
Kết quả đàm phán là vấn đề có liên quan đến quan niệm về công bằng,
tùy theo văn hóa mỗi nước mà kết quả đàm phán có lợi cho bên mua hay bên bán.
Thời gian trong các nền văn hóa khác nhau cũng được hiểu khác nhau. Có
hai quan niệm về thời gian là thời gian đơn và thời gian phức:
Theo quan điểm thời gian đơn, giờ nào làm việc ấy, thời gian được coi
như một hàng hóa hữu hình, thời gian được chia nhỏ gắn với những công việc
cụ thể . Hầu hết những nền văn hóa nghiêng nhiều về những giá trị thực dụng
đều hiểu thời gian theo quan điểm thời gian đơn. Những nhà đàm phán ở nền
văn hóa này thường có tác phong rất đúng giờ. Trong các cuộc đàm phán họ
thường nhìn đồng hồ đeo tay. Họ có thói quen muốn phân chia nội dung đàm
phán theo một trình tự thời gian. Kéo dài thời gian đàm phán với những đối tác
theo quan niệm thời gian đơn là một cách gây sức ép để họ có những nhượng bộ
nhất định.
Quan niệm thời gian phức phổ biến trong những nền văn hóa hình tượng,
có pha sự thực dụng nhưng vẫn chứa đựng nhiều yếu tố tâm linh, lãng mạn
(điền hình là Châu Á và Mĩ Latinh ). Quan niệm thời gian phức chỉ chú trọng vào
yếu tố kết quả công việc mà không chú ý nhiều đến việc phân chia thời gian cụ
thể để thực hiện công việc như thế nào. Đối với các doanh nhân theo quan niệm
thời gian này, họ thường không có thói quen đúng giờ, ít quan tâm đến tầm quan
trọng của tác phong đó và thường đổ lỗi cho nhưng nguyên nhân khách quan.
b. Sự khác biệt về tư duy và quá trình ra quyết định.
13
Khi đối mặt với một nhiệm vụ đàm phán phức tạp, hầu hết các nhà đàm
phán phương Tây đều có thói quen chia nhỏ nội dung đàm phán thành một loạt
những công việc nhỏ. Các vấn đề như giá cả, vận chuyển, bảo hành, bảo
dưỡng…lần lượt được giải quyết. Kết quả cuối cùng của đàm phán sẽ là tổng
hợp kết quả đàm phán của tất cả các nội dung nhỏ.
Các nhà đàm phán Châu Á lại có xu hướng trái ngược. Họ không phân chia
nội dung đàm phán thành các công việc nhỏ mà thường cùng một lúc đàm phán
tất cả các nội dung không theo một trình tự rõ ràng, và những nhượng bộ chỉ đạt
được vào khi đàm phán đã sắp kết thúc.
14
III.
ĐẤT NƯỚC, CON NGƯỜI NHẬT BẢN, TÍNH CÁCH CỦA
NGƯỜI NHẬT BẢN:
Đất nước và con người Nhật Bản có một lịch sử và truyền thống lâu đời,
nhưng nó cũng nổi tiếng với khía cạnh văn hóa hiện đại đầy màu sắc và ấn
tượng. Nhật Bản là một đất nước phát triển cả về kinh tế, giáo dục và du lịch.
Nhật Bản có nền văn hóa, phong tục đa dạng cùng vẻ đẹp phong cảnh thiên
nhiên độc đáo. Đất nước này thu hút số lượng lớn người du lịch từ khắp nơi trên
thế giới hàng năm đổ về.
Nhật Bản nằm ở phía Đông Hàn Quốc, Nga và Trung Quốc và trải dài từ
biển Okhotsk ở phía bắc đến biển Đông Trung Quốc ở phía nam. Nhật Bản
thuộc vùng ôn đới, có 4 mùa rõ rệt.với 4 mùa rõ rệt, Nhật Bản tự hào là một đảo
quốc với thiên nhiên tuyệt đẹp được đánh giá là 1 trong 10 nước đẹp nhất thế
giới. Mùa xuân vào tháng 4 với hoa Sakura, nở rộ làm ngây ngất lòng người , mùa
thu với bức tranh đổi màu của lá –Momiji, mùa đông với thiên nhiên tươi đẹp,
truyền thống văn hóa lâu năm, Nhật Bản ngày càng thu hút nhiều du học sinh
đến học tập và làm việc.
Nước Nhật có 4 đảo lớn theo thứ tự từ Bắc xuống Nam là: Honshu;
hokkaido kyushu shikoku okinawa. Phần lớn đảo ở Nhật Bản có rất nhiều núi và
núi lửa. Nhật Bản là quốc gia có dân số lớn thứ mười thế giới với ước tính
khoảng 128 triệu người, bao gồm thủ đô Tokyo và một vài tỉnh xung quanh là
vùng đô thị lớn nhất thế giới với khoảng 30 triệu người sinh sống.
Nhật Bản còn có các mỹ danh là “xứ sở hoa anh đào”, vì cây hoa anh đào
mọc trên khắp nước Nhật từ Bắc xuống Nam, những cánh hoa “thoắt nở thoắt
tàn” được người Nhật yêu thích phản ánh tinh thần nhạy cảm, yêu cái đẹp, sống
15
và chết đều quyết liệt của dân tộc họ; Là “đất nước hoa cúc” vì bông hoa cúc 16
cánh giống như Mặt Trời đang tỏa chiếu là biểu tượng của hoàng gia và là quốc
huy Nhật Bản hiện nay; “đất nước Mặt Trời mọc” vì Nhật Bản là quốc gia ở
vùng cực đông, tổ tiên của họ là nữ thần Mặt Trời Amaterasu (Thái dương thần
nữ).
1. Tính cách của người Nhật Bản:
a. Đoàn kết và trung thực:
Người Nhật có một quy tắc làm việc gọi là “HORENSHO” nghĩa là Thông
báo – Liên lạc – Thảo luận. Trước khi làm việc gì, họ đều thông báo trước cho
những người liên quan. Khi làm việc, nếu có vấn đề gì phát sinh, thì họ luôn liên
lạc ngay với người phụ trách. Sau khi làm việc xong, họ sẽ cùng thảo luận với
nhau về công việc đã làm để trao đổi kinh nghiệm. Và nếu họ có làm điều gì sai
thì họ luôn thành thật nhận lỗi và sửa chữa lỗi lầm của mình.
Sự trung thực của người Nhật được thể hiện rõ nét qua hệ thống tổ chức
những “mini shop không người bán” tại Osaka. Nhiều vùng ở Nhật không có
nông dân. Ban ngày họ vẫn đến công sở, ngoài giờ làm họ trồng trọt thêm. Sau
khi thu hoạch, họ đóng gói sản phẩm, dán giá và để thùng tiền bên cạnh. Người
mua cứ theo giá niêm yết mà tự bỏ tiền vào thùng. Cuối ngày, trên đường đi làm
về, họ ghé đem thùng tiền về nhà. Nhẹ nhàng và đơn giản. Các con đường mua
sắm, các đại siêu thị ở Hokkaido, Sapporo hay Osaka… cũng không nơi nào bạn
phải gửi giỏ/túi xách. Hay ở Nhật nếu bạn có đánh rơi mất đồ thì cũng không
cần phải lo lắng. Bởi lẽ, tập quán của người Nhật là người nhặt được của rơi
sẽ đem đến nộp cho đồn cảnh sát gần nhất.
b. Bình đẳng:
16
Đây là một đất nước không có tình trạng phân biệt giàu nghèo bởi mọi
đứa trẻ ngay từ khi sinh ra đã được dạy về sự bình đẳng, khuyến khích đi bộ tới
trường. Nếu nhà xa thì xe đưa đón của trường là chọn lựa duy nhất. Các trường
không chấp nhận cho phụ huynh đưa con đến lớp bằng xe hơi.
Ngay từ nhỏ trẻ em được dạy cách ăn uống lịch sự, các phần ăn buffe
không bao giờ bị bỏ phí, cách ăn uống sạch sẽ gọn gàng cũng được đề cao. Cách
dạy con “ứng xử” và “yêu mến” thức ăn của người Nhật khiến nhiều người
sửng sốt và ngưỡng mộ. Mọi thân phận, địa vị hay công việc đều được coi
trọng.
c. Nghiêm túc, ý thức kỷ luật tốt:
Người Nhật luôn nghiêm túc tuân thủ các quy tắc ứng xử trong xã hội như
chấp hành nội quy của nhà trường, công ty, luật giao thông, mọi quy định trong
gia đình… Họ tuyệt đối xem trọng lễ nghĩa: cách chào hỏi, giao tiếp với người
khác đúng cách, đúng chuẩn mực. Điều này thể hiện rõ nét nhất qua phong cách
chào “nghiêng mình” đặc trưng của người Nhật: người được chào càng có tuổi,
địa vị, uy tín cao hơn thì người chào càng phải cúi mình thấp hơn.
d. Tinh thần trách nhiệm cao:
Những người làm việc chăm chỉ, cố gắng luôn được đề cao trong xã hội
Nhật. Từ khi còn đi học, các học sinh đã được rèn luyện ý thức học tập nghiêm
túc, không sao chép từ người khác. Vì vậy, ngay cả các kết quả nghiên cứu của
sinh viên tốt nghiệp đại học cũng có giá trị ứng dụng rất cao. Và khi đi làm, họ
luôn làm việc với tinh thần hết mình vì công việc nhằm đem lại kết quả tốt
nhất.
e. Phép lịch sự được đề cao tuyệt đối:
17
Điều này được thể hiện ngay trong từng bước đi, cách ngồi nghiêm túc,
nếp ăn uống sinh hoạt ngay trong gia đình. Văn hóa xếp hàng thấm đẫm vào nếp
sinh hoạt hàng ngày của người Nhật. Không có bất cứ sự ưu tiên. Sẽ không có gì
ngạc nhiên nếu một ngày bạn thấy người xếp hàng ngay sau lưng mình chính là
Thủ tướng. Ngay cả đứng trên thang máy họ cũng đứng gọn sang 1 phía để
những người vội có khoảng trống.
f. Tinh thần làm việc tập thể:
Đây là yếu tố đặc trưng vượt trội mà không tìm thấy được ở những quốc
gia phương đông khác. Trong đời sống người Nhật, tập thể đóng vai trò rất quan
trọng. Sự thành công hay thất bại là chuyện chung của nhóm và mọi thành viên
trong nhóm, bất kể anh ta đã làm ra sao, đều hưởng chung sự cay đắng hay vinh
quang mà nhóm đã đạt được tập thể, nhóm ở đây có thể là công ty, trường học
hay hội đoàn…
Trong làm việc người Nhật thường gạt cái tôi lại để đề cao cái chung, tìm
sự hài hòa giữa mình và các thành viên khác trong tập thể. Trong các buổi họp
hành người Nhật thường ít cãi cọ hay dùng những từ có thể làm mất lòng người
khác. Các tập thể (công ty, trường học hay đoàn thể chính trị) có thể cạnh tranh
với nhau gay gắt nhưng tuỳ theo hoàn cảnh và trường hợp, các tập thể cũng có
thể liên kết với nhau để đạt mục đích chung. Thí dụ điển hình là hai công ty
Nhật có thể cạnh tranh với nhau ở trong nước Nhật nhưng khi ra n ước ngoài hai
công ty có thể bắt tay nhau để cạnh tranh lại với một nước thứ ba của ngoại
quốc.
g. Tính tiết kiệm và làm việc chăm chỉ:
Người Nhật tiết kiệm trong chi tiêu và cần cù trong lao động. Do đó, sau
30 năm từ một nước bị chiến tranh tàn phá họ trở thành một cường quốc về kinh
18
tế. Nhật nằm trên vùng hay gặp nhiều thiên tai nên gặp khó khăn bất kỳ lúc nào.
Chính điều này đã tạo nên tính tiết kiệm của họ. Ngoài ra, họ tiết kiệm để bảo
đảm vấn đề ăn học cho con cái họ và dành dụm tiền mua nhà.
2. Trang phục Nhật Bản:
Ngày nay ở Nhật Bản, nam nữ ở mọi lứa tuổi sống ở các thành phố, thị
trấn và nông thôn đều mặc quần áo kiểu phương Tây vì nó thuận tiện cho sinh
hoạt hàng ngày. Chỉ có một số ít người già làm những nghề đặc biệt mới mặc áo
kimono truyền thống và họ mặc chủ yếu vào dịp lễ hội, đôi khi người ta cũng
mặc kimono ở nhà cho thoải mái. Tuy nhiên, áo kimono cũng không mất đi vai
trò quan trọng của nó như là một phần của văn hoá Nhật Bản. Đặc biệt là phụ
nữ thường gắn áo kimono với truyền thống dân tộc và thích mặc nó vào những
dịp
đặc
biệt.
Qua trang phục kiểu phương Tây hàng ngày ta thấy hầu hết các xu thế mốt của
châu Âu và châu Mỹ đã được du nhập nhanh chóng vào các trang phục của thanh
niên Nhật Bản. Nhật Bản hiện đang là thị trường lớn của những hang thời trang
hàng đầu thế giới.
3. Gia đình:
Gia đình truyền thống Nhật Bản là một hình mẫu gia trưởng với nhiều
thế hệ cùng chung sống trong một ngôi nhà và mối quan hệ, giúp đỡ lẫn nhau
giữa những người cùng huyết thống rất mật thiết. Mỗi thành viên trong gia đình,
tùy theo tuổi tác và giới tính, có một địa vị nhất định cũng như nghĩa vụ và trách
nhiệm bao vệ gia đình. Tuy vậy, từ Chiến tranh thế giới thứ hai đã có những
thay đổi lớn. Dòng người rời bỏ nông thôn ra thành phố đã làm cho mô hình gia
đình lớn tan rã, thay thế bằng gia đình hạt nhân và các ngôi nhà nhỏ được xây
dựng
ngày
một
19
nhiều.
Hầu hết các cặp vợ chồng trẻ Nhật Bản hiện nay có một hoặc hai con, sống
trong các căn hộ không được thoải mái lắm về diện tích. Sau khi kết hôn, phần
lớn họ ra ở riêng. Những người đi làm việc ở công ty thường đi làm về rất muộn
hoặc đi nhậu với bạn bè, đồng nghiệp vào buổi tối. Vì vậy, cảnh người chồng
không cùng ăn tối với gia đình là điều rất bình thường. Những ông bố Nhật Bản
có rất ít thời gian cho con cái và gia đình. Do phải đi làm xa, họ thường rời nhà
khi con chưa thức dậy, và trở về khi chúng đã đi ngủ. Nhân viên các công ty còn
thường có những chuyến công tác dài ngày, hoặc thuyên chuyển công việc trong
và ngoài Nhật Bản. Do việc học hành của con cái, hay trông nom bố mẹ già mà
không ít người phải chấp nhận sống độc thân xa gia đình trong thời gian dài.
Vì lý do này hay lý do khác, ngày càng nhiều thanh niên Nhật chọn cách
sống một mình, và sự lựa chọn đó đang dần hình thành tương lai của xã hội
Nhật Bản. Niềm đam mê của một bộ phận người trẻ tuổi thành đạt Nhật Bản
giờ đây là thức ăn ngon, rượu và công việc. Xu hướng này ngày càng gia tang
trong một đất nước mà hôn nhân gia đình vốn là giá trị truyền thống lâu đời.
4. Tiếng Nhật:
Là ngôn ngữ duy nhất của một dân tộc sinh sống trên khắp quần đảo,
tiếng Nhật là một thí dụ hiếm có của mối tương quan dân tộclãnh thổngôn ngữ
rõ nét và đơn nhất. Mặc dù có những khác nhau nhỏ giữa các tiếng địa phương
nhưng xét trên toàn cục, về mặt ngôn ngữ học, có sự thống nhất ở những điểm
chủ yếu. Tuy người Nhật thường cho rằng ngôn ngữ của họ khó đối với người
nước ngoài, nhưng một hệ thống ngữ âm tương đối đơn giản và các quy tắc văn
phạm khá linh hoạt làm cho tiếng Nhật trở thành dễ học hơn so với một số ngôn
ngữ khác, ít nhất là cho mục đích hội thoại, dù chữ viết tượng hình và các dạng
chữ viết khác gây khó khăn cho việc đọc và viết.
20
Từ vựng tiếng Nhật đã được làm giàu bằng cách vay mượn từ các ngôn
ngữ khác: của Trung Quốc thời xưa, của Bồ Đào Nha và Hà Lan trong những thế
kỷ gần đây, và của các ngôn ngữ phương Tây từ thời Minh Trị khi nước Nhật
tiếp xúc nhiều với thế giới phương Tây. Việc Nhật hoá đã cho ra đời nhiều từ
mới từ những từ vay mượn và xu hướng này đang tăng mạnh trong những năm
gần đây.
Tiếng Nhật được coi là có sự mô tả tỉ mỉ hơn các ngôn ngữ khác đối với
các phạm trù như lúa gạo, thực vật, cá và thời tiết. Điều này dường như bắt
nguồn từ ý thức đã ăn sâu và bền chặt về các nguồn thức ăn cần thiết để duy trì
cuộc sống trong điều kiện khí hậu gió mùa. Ngược lại, những từ liên quan đến
các thiên thể, đặc biệt là các vì sao lại rất ít. Người Nhật mặc dù là dân sống ở
đảo nhưng lại không đi lại được trên biển bằng việc quan sát thiên văn.
5. Ẩm thực Nhật Bản:
Đồ ăn thường ngày của người Nhật Bản chủ yếu là cơm, cá, rau. Thịt ít có
trong thành phần bữa ăn. Điều này đôi khi được các sách nước ngoài gán cho là
do ảnh hưởng của đạo Phật. Mặc dù những điều dạy của đạo Phật cũng có ít
nhiều tác động đến vấn đề này trong một thời gian dài, nhưng nguyên nhân quan
trọng hơn cả là do quỹ đất nông nghiệp hạn hẹp nên người ta phải tập trung đất
cho việc sản xuất ngũ cốc cần thiết, khiến đất dành cho chăn nuôi gia súc rất ít
ỏi.
Chất đạm và chất khoáng cần thiết được lấy chủ yếu từ cá và rong biển.
Từ những nguyên liệu cơ bản này, người Nhật Bản đã sáng tạo ra các món ăn
dân tộc bằng óc thẩm mỹ, sự khéo tay và khẩu vị tinh tế. Mùi vị các món ăn
Nhật Bản đơn giản hơn so với hầu hết các món ăn của phương Tây. Đồ ăn của
21
Nhật Bản chú trọng đến đặc sản theo từng mùa và sự lựa chọn các bát đĩa đựng
thức ăn một cách nghệ thuật.
Sự tiếp xúc ngày một tăng với các nước khác trên thế giới kể từ thời Minh
Trị đã làm thay đổi bữa ăn của người Nhật Bản, đặc biệt là từ sau Chiến tranh
thế giới thứ hai, khi nền kinh tế thịnh vượng và mức sống đã được nâng lên.
Việc tiêu thụ các sản phẩm sữa, thịt cũng như bánh mì và các sản phẩm làm từ
bột mì đã tăng mạnh trong khi đó tiêu thụ gạo và các thức ăn truyền thống giảm
dần. Đã có sự Âu hoá rộng rãi trong khẩu phần ăn thường ngày như có thể thấy
trong các sơ đồ về lượng thực phẩm được tiêu thụ.
Do có sự cải thiện hệ thống phân phối hàng hoá nên sự khác biệt về ẩm
thực giữa người dân thành thị và nông thôn đã không còn nữa. Ở các thành phố,
có nhiều nhà hàng chuyên nấu các món ăn nước ngoài, trong đó có một số nhà
hàng bán với giá phải chăng. Xu hướng này, ở một mức độ nhất định, cũng đang
phát triển tới các tỉnh. Nhiều món ăn thông thường được dùng hiện nay là những
món ăn đã được Nhật hoá từ các món của các nước khác, thí dụ như món
sukiyaki, một món ăn gồm thịt, rau và các nguyên liệu khác được trần qua nước
có pha rượu ngọt, xì dầu và gia vị; món tempura gồm cá, hải sản và rau được
chiên giòn; món tonkatsu được làm bằng thịt lợn tẩm bột; và món cơm cari.
22
IV.
VĂN HÓA KINH DOANH, PHONG CÁCH ĐÀM PHÁN
KINH DOANH CỦA NGƯỜI NHẬT BẢN:
1. Văn hóa kinh doanh của người Nhật Bản:
Người Nhật rất cứng nhắc và nghi thức khi ngồi vào bàn đàm luận
chuyện làm ăn. Những phong tục Nhật trong kinh doanh này thật mâu thuẫn với
văn hoá và truyền thống của người nước ngoài. Tuy nhiên, văn hóa kinh doanh
của Nhật Bản có vô số những ưu điểm đáng để các nước học hỏi:
a. Triết lí kinh doanh
Có thể nói rất hiếm các doanh nhân Nhật Bản không có triết lí kinh doanh.
Điều đó được hiểu như sứ mệnh của doanh nhân trong sự nghiệp kinh doanh. Là
hình ảnh của doanh nhân trong ngành và trong xã hội. Nó có ý nghĩa như mục
tiêu phát biểu, xuyên suốt, có ý nghĩa định hướng cho doanh nhân trong cả một
thời kì phát triển rất dài.
Thông qua triết lí kinh doanh doanh nhân tôn vinh một hệ giá trị chủ đạo
xác định nền tảng cho sự phát triển, gắn kết mọi người và làm cho khách hàng
biết đến doanh nhân. Hơn nữa các doanh nhân Nhật Bản sớm ý thức được tính
xã hội hóa ngày càng tăng của hoạt động sản xuất kinh doanh , nên triết lí kinh
doanh còn có ý nghĩa như một thương hiệu, cái bản sắc của doanh nhân . Ví dụ
như Công ty Điện khí Matsushita: "Tinh thần xí nghiệp phục vụ đất nước" và "
kinh doanh là đáp ứng như cầu của xã hội và người tiêu dùng". Doanh nghiệp
Honđa: "Không mô phỏng, kiên trì sáng tạo, độc đáo: và Dùng con mắt của thế
giới mà nhìn vào vấn đề . Hay công ty Sony: "Sáng tạo là lí do tồn tại của chúng
ta"...
23
b. Lựa chọn những giải pháp tối ưu
Những mối quan hệ: Doanh nhân Xã hội; Doanh nhân Khách hàng;
Doanh nhân Các Doanh nhân đối tác; Cấp trên cấp dưới thường nảy sinh rất
nhiều mâu thuẫn về lợi ích, tiêu chí, đường lối. Để giải quyết các doanh nhân
Nhật Bản thường tìm cách mở rộng đường tham khảo giữa các bên, tránh gây ra
những xung đột đối đầu. Các bên đều có thể đưa ra các quyết định trên tinh thần
giữ chữ Tình trên cơ sở hợp lí đa phương. Các qui định Pháp luật hay qui chế
của DN được soạn thảo khá " lỏng lẻo" rất dễ linh hoạt nhưng rất ít trường hợp
lạm dụng bởi một bên.
c. Đối nhân xử thế khéo léo.
Trong quan hệ, người Nhật Bản chấp nhận người khác có thể mắc sai
lầm, nhưng luôn cho đối tác hiểu rằng điều đó không được phép lặp lại và tinh
thần sửa chữa luôn thể hiện ở kết quả cuối cùng. Mọi người đều có ý thức rất
rõ rằng không được xúc phạm người khác, cũng không cần buộc ai phải đưa ra
những cam kết cụ thể. Nhưng những chuẩn mực đạo đức xã hội, đạo đức doanh
nhân ( trách nhiệm đặt trên tình cảm ) đã tạo một sức ép vô hình lên tất cả khiến
mọi người phải xác định được bổn phận của mình nếu muốn có chỗ đứng trong
tổ chức.
Điều này rõ ràng đến mức khi tiếp xúc với các nhân viên người Nhật
nhiều người nước ngoài cảm thấy họ tận tụy và kín kẽ, nếu có trục trặc gì thì
lỗi rất ít khi thuộc về người Nhật Bản. Người Nhật Bản có qui tắc bất thành
văn trong khiển trách và phê bình như sau: Người khiển trách là người có uy tín,
được mọi người kính trọng và chính danh " Không phê bình khiển trách tùy tiện,
24
vụn vặt, chỉ áp dụng khi sai sót có tính hệ thống, gây lây lan, có hậu quả rõ ràng
" Phê bình khiển trách trong bầu không khí hòa hợp, không đối đầu.
d. Phát huy tính tích cực của nhân viên
Người Nhật Bản quan niệm rằng: trong bất cứ ai cũng đồng thời tồn tại
cả mặt tốt lẫn mặt xấu, tài năng dù ít nhưng đều ở đâu đó trong mỗi cái đầu,
khả năng dù nhỏ nhưng đều nằm trong mỗi bàn tay, cái Tâm có thể còn hạn hẹp
nhưng đều ẩn trong mỗi trái tim. Nhiều khi còn ở dạng tiềm ẩn, hoặc do những
cản trở khách quan hay chủ quan. Vấn đề là gọi thành tên, định vị nó bằng các
chuẩn mực của tổ chức, tạo điều kiện, môi trường làm việc thuận lợi, thúc đẩy
bằng đào tạo, sẵn sàng cho mọi người tham gia vào việc ra quyết định theo
nhóm hoặc từ dưới lên.
Các DN Nhật Bản đều coi con người là tài nguyên quí giá nhất, nguồn
động lực quan trọng nhất làm nên giá trị gia tăng và phát triển bền vững của DN.
Người Nhật Bản quen với điều: sáng kiến thuộc về mọi người, tích cực đề xuất
sáng kiến quan trọng không kém gì tính hiệu quả của nó, bởi vì đó là điều cốt
yếu khiến mọi người luôn suy nghĩ cải tiến công việc của mình và của người
khác. Một DN sẽ thất bại khi mọi người không có động lực và không tìm thấy
chỗ nào họ có thể đóng góp.
e. Tổ chức sản xuất kinh doanh năng động và độc đáo
Tinh thần kinh doanh hiện đại là lấy thị trường làm trung tâm, xuất phát từ
khách hàng và hướng tói khách hàng. Điều này đã thể hiện rất sớm trong phong
cách và đường lối KD Nhật Bản. Các DN lớn của Nhật Bản chỉ chiếm không
đến 2% trong tổng số các DN mà đại bộ phận là các DN vừa và nhỏ. Nhưng sự
liên kết giữa chúng thì rất đa dạng và hiệu quả. Đó là sự liên kết hàng ngang
25