Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Hình ảnh tế bào học FNA của carcinôm tuyến vú với tế bào khổng lồ nhiều nhân giống hủy cốt bào (BCOGCs): Thông báo 1 trường hợp và hồi cứu y văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 5 * 2015

Nghiên cứu Y học

HÌNH ẢNH TẾ BÀO HỌC FNA CỦA CARCINÔM TUYẾN VÚ
VỚI TẾ BÀO KHỔNG LỒ NHIỀU NHÂN GIỐNG HỦY CỐT BÀO
(BCOGCs): THÔNG BÁO 1 TRƯỜNG HỢP VÀ HỒI CỨU Y VĂN
Trần Hòa*
Tóm tắt: BCOGCs là một phân nhóm mô học ít gặp chúng tôi báo cáo một trường hợp bệnh lý được chẩn
đoán bằng FNA có biểu hiện khá điển hình về mặt tế bào học.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả trường hợp bệnh và hồi cứu y văn.
Kết quả và bàn luận: Bệnh nhân nữ 49 tuổi có khối u ở ¼ trên trong vú T đã được chẩn đoán tế bào học bằng
FNA và xác nhận mô bệnh học sau đó là một trường hợp BCOGCs dạng ông tuyến vú xâm lấn grade 2. Tế bào
khổng lồ nhiều nhân được ghi nhận trên tiêu bản có kích thước lớn,nhiều nhân từ 5- 10 nhân/1 tế bào,số lượng 5-8 tế
bào/1 vi trường xen lẫn và kết hợp chặt chẽ với các tế bào biệt hóa vừa,ít tê bào mô đệm. BCOGCs là một bệnh hiếm
gặp chiếm tỷ lệ từ 0,5-1,2 % tổng số bệnh nhân carcinom vú. Vấn đề điều trị và tiên lượng tương đương với các loại
mô học khác, 86% sống sau 5 năm. Nguồn gốc của tế bào khổng lồ này được cho là từ mô bào, tế bào đơn nhân kết
dínhFNA có thể chẩn đoán được bệnh lý này và là một gợi ý thiết thực cho đánh giá mô bệnh học.
Kết luận: Chẩn đoán tế bào học được đặt ra khi tiêu bản hiện diện tế bào khổng lồ kết hợp chặt chẽ với tế bào
u ác tính của biểu mô tuyến vú.
Từ khóa:

ABSTRACT
FINE NEEDLE ASPIRATION CYTOLOGY OF BREAST CARCINOMA WITH OSTEOCLAST- LIKE
GIANT CELLS: A CASE REPORT AND THE REVIEW OF LITERATURE
Tran Hoa * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 5 - 2015: 122 - 126
Background: Breast carcinoma with osteoclast like giant cells(BCOGCs) is an rare tumor.The purpose of
this case is to describe morphological cytology in a case of BCOGCs in which the diagnosis was suggested by FNA
and confirmed by biopsy of the breast.
Method: We review the clinical and cytopathological record of patient and appropriate literature.
Result: A 49 year-old woman presented a tumor in the upper inner quadrant of the left breast. Physical


examination revealed a 3cm firm, tender mass. The FNA cytology was performed in a this case,showing an
abundance of multinucleated giant cells containing 5-10 randomly arranged, round to oval nuclei/ a cell.Their
number 5-10 cells/ a view.which intimate association with medium grade malignant epithelial clusters. BCOGCs
is uncommon and account for 0,5-1,2% of the breast cancer.Current evidence suggests it is smilar if not better
than other common types of invasive carcinoma. 86% of patients still alive after 5 years. FNA cytology appears to
be an accurate diagnosis modality in BCOGCs because it detected forms with only a few giant cells that usually
are not abserved at histopathologic diagnosis. This giant cells is believed to arise from fusion of stromal cells, thus
having a monocyte/marcrophage or histocytic origin.
Conclusion: The combination of osteoclast like giant cells and cancer cells allows a diagnosis of BCOGCs on
FNAC. Be careful search for malignant epithelial cells should be performed to avoid a false negative diagnosis.
Key words:
* Khoa giải phẫu bệnh- Bệnh viện C Đà Nẵng
Tác giả liên lạc: Trần Hòa
ĐT: 0905325858

122

Email:


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 5 * 2015

Nghiên cứu Y học

ĐẶT VẤN ĐỀ

BÀN LUẬN

Carcinoma vú có biểu hiện tế bào khổng lồ
giống hủy cốt bào (BCOGCs) là một phân nhóm

mô học ít gặp, ít được ghi nhận. Trong y văn tổn
thương thường ít đươc đề cập trong chẩn đoán
giải phảu bệnh.

Đặc điểm chung

Hầu hết các tổn thương mô học ít gặp của
ung thư vú đều có thể gây khó khăn cho chẩn
đoán FNA khi nhận định và đánh giá tế bào. Tuy
nhiên trong trường hợp BCOGCs chẩn đoán tế
bào học lại có giá trị cao và gợi ý tốt cho những
đánh giá mô học sau đó.
Tháng 4/2015 tại khoa Giải Phẫu Bệnh Lý –
Bệnh viện Ung thư Đà Nẵng, chúng tôi có ghi
nhận được một trường hợp bệnh lý này, được
chẩn đoán FNA và phù hợp kết quả mô bệnh
học sau đó.
Chúng tôi thông báo trường hợp này và hồi
cứu y văn nhằm rút kinh nghiệm chẩn đoán và
bổ sung cho lâm sàng một tư liệu tham khảo
trong quản lý và theo dõi bệnh nhân.

TÓM TẮT LÂM SÀNG VÀ TẾ BÀO HỌC
Bệnh nhân nữ 49 tuổi - MYT 15003775.
Địa chỉ: Phú Ninh, Quảng Nam.
Bệnh nhân phát hiện có khối u vú trái, có
đường kính # 3cm hơi căng, nổi trội lên mặt da, u
di động rõ, không dính vào mô dưới da. Tổn
thương khu trú ở ¼ trên trong vú trái, cách núm
vú 2cm. Hạch nách không sờ thấy. Tiến hành

làm FNA vào ngày 15/4/2015 kết quả: Thấy
nhiều tế bào khổng lồ nhiều nhân lan tỏa khắp vi
trường, từ 5-8 nhân/1 tế bào, khu trú ở trung
tâm, 5-10 tế bào/1 vi trường xen lẫn một số tế bào
biểu mô tuyến co cụm có nhân thay đổi kích
thước có chỗ không đều, tăng tính bắt màu, có
nhân chia bất thường một số tế bào xơ thoái hóa.
Chẩn đoán tế bào học tương hợp với chẩn
đoán mô bệnh học là một trường hợp BCOGCs
dạng ống tuyến vú xâm lấn độ 2.

BCOGCs đã được Fry ghi nhận đầu tiên vào
năm 1927 và Rosen đưa vào phân loại năm
1979(2,12). Thông báo đầu tiên về hình ảnh tế bào
học FNA của BCOGCs vào năm 1983(11). Biểu
hiện lâm sàng nhìn chung không có sự khác biệt
so với các loại mô học thông thường. Tỉ lệ mắc
bệnh dao động từ 0,5-1,2% tổng số trường hợp
carcinôm vú. Tỉ lệ phát hiện trên FNA 8/6000
bệnh nhân được khám(10).
Lứa tuổi mắc bệnh dao động từ 32-84 tuổi
hoặc từ 22-88 tuổi tùy theo tác giả(4,12), tuổi trung
bình 42, 49 hoặc 50 tuổi(5,9,10). Tổn thương ở vú P
gần gấp đôi vú T: 27 trường hợp so với 15 trường
hợp, rất hiếm gặp ở cả 2 bên(11,19,8); u thường khu
trú ở ¼ trên ngoài,chiếm đến 51% trường hợp
bệnh(5). Tuy nhiên vẫn có thể gặp ở các vị trí
khác(8).
Qua tổng hợp 45 báo cáo được công bố cho
thấy kích thước khối u dao động từ 0,5-30cm(4)

hoặc từ 0.5-10cm(5,8). Đường kính trung bình từ 34 cm(4,8). 39% bệnh nhân có khối u nhỏ hơn hoặc
bằng 2cm(4). 34-35 % có di căn hạch trong thời
điểm chẩn đoán(1,5). 50% trên 3 hạch bị ảnh
hưởng(5).
Các loại mô học của ung thư vú đều có thể
biểu hiện trong bệnh lý BCOGCs(8). 59%
BCOGCs có thể hiện carcinôm vú thể ống xâm
lấn; 30% thể hiện carcinôm dạng tuyến nang.
13% thể hiện carcinôm vú thể thùy và 1%
carcinôm vú thể sàng(4).
Vấn đề tiên lượng bệnh chưa thống nhất. Số
lượng bênh nhân ghi nhận chưa được nhiều nên
vấn đề đánh giá còn gặp khó khăn, có tác giả cho
rằng loại mô học này không thuận lợi, chỉ có 37%
sống đến 5 năm. Trong khi đó có nghiên cứu lại
cho rằng 86% sống trên 5 năm(1,5). Một số bằng
chứng cho thấy tiên lượng tương tự như các loại
carcinôm vú thường gặp khác không thể nói tốt
hơn(1).

123


Nghiên cứu Y học
ĐẶC ĐIỂM TẾ BÀO HỌC
Theo ghi nhận của một số tác giả: trên phiến
đồ thường thể hiện các quần thể tế bào hỗn hợp
giữa tế bào ung thư và tế bào khổng lồ trên một
nền nhiều máu và/hoặc đại thực bào ăn săc tố
máu cũng như các thành phần bào viêm khác.

Các ống tuyến co cụm thành đám từ trung bình
đến lớn, có bờ không đều, tạo dải hoặc nhóm 3
chiều. Các tế bào đồng dạng, nhân tròn nhỏ bào
tương xác định, mịn. Chỉ những tế bào đơn lẻ
mới thể hiện tính bắt màu cao, có hạt nhân, tỷ lệ
nhân/bào tương cao. Tế bào khổng lồ thay đổi số
lượng, mật độ cao có thể lên đến 30 tế bào/1 vi
trường, có xu hướng nằm đè lên các tế bào biểu
mô hoặc lẫn lộn với chúng. Số lượng nhân thay
đổi từ 5 đến 40 nhân/1 tế bào. Tế bào khổng lồ có
xu hướng tụ tập ở vùng ngoại vi tiêu bản(10,8).
Ngoài ra còn có thêm một số đặc điểm khác
của tế bào khổng lồ như: nằm xen lẫn với tế bào
u hoặc nằm trong lòng ống tuyến. Kích thước tế
bào từ 20 đến 180 μ, số lượng nhân tối đa có thể
lên đến 70, nhân lớn gấp 3 lần limphô bào. Số
lượng tế bào khổng lồ thay đổi rất có ý nghĩa từ
16 đến 300 tế bào trên một tiêu bản tế bào học,
các nhân đều khu trú ở trung tâm tế bào, số
lượng tế bào khổng lồ thay đổi từ vi trường này
đến vi trường khác trên cùng một tiêu bản và
liên quan chặt chẽ với tế bào u(3,11,4,10,8).
Một đặc điểm quan trọng luôn được các tác
giả nhấn mạnh là các tế bào ung thư thường có
độ từ thấp đến trung bình nên có thể dễ gây ra
những nhầm lẫn với các tổn thương lành
tính(4,10,12,8).
Các tác giả đều thống nhất chẩn đoán
BCOGCs có thể được kết luận bằng FNA. Thậm
chí,theo Solene, FNA còn có giá trị hơn mô bệnh

học do các tế bào khổng lồ có thể phát hiện trên
tiêu bản tế bào học dễ dàng hơn trên tiêu bản mô
bệnh học(10).

124

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 5 * 2015
Sự hiện diện tế bào khổng lồ kết hợpvới tế
bào u hoặc thành phần ung thư biểu mô được
xem là tiêu chuẩn để chẩn đoán bệnh lý này(3,11,12).
Sự tồn tại tế bào khổng lồ trên một phiến
đồ u vú đều có thể nghĩ đến một trường hợp
BCOGCs(11).
Mật độ phân bố tế bào khổng lồ thể hiện trên
lame kính luôn gây ấn tượng cho các nhà tế bào
học, có thể đây là 1 trong những hình ảnh giúp
cho chúng ta nghĩ đến BCOGCs. Việc đánh giá
ác tính phải dựa trên thành phần biểu mô có mặt
trên phiến đồ.
Các đại thực bào ăn sắc tố máu không
thường gặp trên các u lành tính, sự hiện diện của
chúng cũng là một đặc điểm hỗ trợ cho chẩn
đoán BCOGCs bằng FNA(12).

CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT
Sự hiện diện tế bào khổng lồ ở phiến đồ có cả
trên tổn thương lành tính và ác tính của vú. Qua
nghiên cứu của Sonia cho thấy hình ảnh tế bào
khổng lồ được ghi nhận 23/200 # 11,5% trường
hợp làm FNA vú. Trong đó tổn thương không

phải u có tế bào khổng lồ là 8/36 # 22,2% trường
hợp, u lành tuyến vú 10/164 # 6.1% trường hợp
(xơ nang vú 5/59 # 8,5% trường hợp, u xơ vú 5/52
# 9,6% trường hợp)(6).
Do vậy vấn đề chẩn đoán phân biệt cần phải
đặt ra trước khi có kết luận cuối cùng. Có 4 dòng
tế bào khổng lồ (MGCs) cần chẩn đoán phân biệt
bao gồm:
a/ MGCs liên quan đến phản ứng viêm hạt:
lao, sarcoidosis, và phản ứng tế bào dị vật.
b/ MGCs mô đệm trong vú, bệnh nữ hóa và
u diệp thể vú.
c/ Tế bào khổng lồ quái dị trong carcinôm vú
đa dạng và sarcôm.
d/ Tế bào khổng lồ giống hủy cốt bào liên
quan carcinôm tuyến vú.
Được Solene hệ thống hóa theo bảng sau(10):


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 5 * 2015
Loại MGCs
MGCs liên quan viêm hạt

Nghiên cứu Y học

Hình thái
Các té bào liên quan
Tế bào có dạng langhans hoặc Tế bào viêm,thành phần chính
dạng Muller
là limpho bào,mô bào

Tế bào khổng lồ mô đệm
Nhiều nhân nằm chồng chất Có tế bào hình thoi không liên
lên nhau,bào tương ít, hẹp
quan với tế bào biểu mô
Tế bào ác tính quái dị
Đa dạng, nhân bất thường, Có tế bào biểu mô ác tính mức
không đều, có tính chất tế bào
độ cao
ung thư
Tế bào khổng lồ giống hủy cốt Nhiều nhân, khu trú trung tâm Phối hợp liên quan mật thiết
bào
tế bào
với tế bào ung thư

Dấu ấn miễn dịch
CD 68(+)
Vimentin (+)
CK (+)

CD 68 (+)

Hình ảnh tế bào và mô bênh học: f 739 & k 735

Trong phản ứng viêm hạt, phiến đồ nổi trội tế
bào viêm, và dễ dàng loại trừ khi có hình ảnh tế
bào dạng biểu mô (thoái bào, tế bào bán liên). Tế
bào khổng lồ của u diệp thể vú lại có dạng xòe

giống bó hoa (floret like). Trong trường hợp ít tế
bào khổng lồ chúng ta cũng có thể nhầm tổn

thương u với hoại tử mỡ ở vú nên phải cẩn thận
khảo sát kỹ tiêu bản để tìm tế bào ung thư để
tránh bỏ sót gây âm tính giả(3).

125


Nghiên cứu Y học
Khám lâm sàng và khai thác tiền sử có hay
không có can thiệp phẫu thuật các loại hoặc
thủ thuật tại vùng vú, nên tránh làm FNA
trong thời gian hồi phục vết mổ hoặc khi sẹo
mổ chưa ổn định, nếu thấy cần thiết nên làm
lại FNA cũng là những điều kiện để hỗ trợ cho
chẩn đoán phân biệt.
Trong phản ứng viêm hạt, phiến đồ nổi trội
tế bào viêm, và dễ dàng loại trừ khi có hình ảnh
tế bào dạng biểu mô (thoái bào, tế bào bán liên).
Tế bào khổng lồ của u diệp thể vú lại có dạng
xòe giống bó hoa (floret like). Trong trường hợp
ít tế bào khổng lồ chúng ta cũng có thể nhầm tổn
thương u với hoại tử mỡ ở vú nên phải cẩn thận
khảo sát kỹ tiêu bản để tìm tế bào ung thư để
tránh bỏ sót gây âm tính giả(3).
Khám lâm sàng và khai thác tiền sử có hay
không có can thiệp phẫu thuật các loại hoặc
thủ thuật tại vùng vú, nên tránh làm FNA
trong thời gian hồi phục vết mổ hoặc khi sẹo
mổ chưa ổn định, nếu thấy cần thiết nên làm
lại FNA cũng là những điều kiện để hỗ trợ cho

chẩn đoán phân biệt.

Nguồn gốc tế bào khổng lồ nhiều nhân
giống hủy cốt bào (OGCs)
Dựa vào sự bộc lộ của dấu ấn miễn dịch, các
nghiên cứu được đưa ra đều thống nhất nguồn
gốc của OGCs là từ mô bào hoặc tế bào đơn nhân.
Các đấu ấn được ghi nhận: CD 68 (+),CK (-),
PR (-), ER (-), OGCs không bộc lộ P53, CD1a (+),
TRAP (+), CMA (-), Yếu tố VIII (-)(3,2,8).
Athanasou cho rằng các tế bào tuyến ác tính
tiết ra chất giống PTH kích thích mô bào chuyển
dạng thành OGCs.

126

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 5 * 2015
Trong khi đó, theo Rosen, các tế bào ung
thư đã chế tiết ra các yếu tố phát triển nội mạc
mạch (VGF) làm tăng sinh mạch và các đại
thực bào, mô bào đi vào u kết dính tạo thành
OGCs(8).

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.


4.

5.

6.

7.

8.

9.
10.

11.

12.

Albawardi AS et al (2014)- Mammary carcinoma with
osteoclast like giant cells: a case report- Int J.clin Exp Pathol
2014;7(12) 9038-9043.
Athanasou NA (1989)- The origin and nature of stroma
osteoclast-like multinucleated giant cells in Breast carcinoma:
implication for tumor osteolysis and marcophage biologyBJ.cancer 59/491-498.
Cai G et al (2004)- Invasive Mammary carcinoma with
osteoclast like giant cells Diagnosed by fine needle aspiration
biopsy : Review of cytologic literature and distinction from
other mammary lesions containing giant cells-Diagn
cytopathol 2004,30: 396-400.
Cai N (2005) Mammary carcinoma with osteoclast like giant
cells: A study of four cases and a review of literature- Diagn

Cytopathol 33:246- 251.
Gjerdrum LM (2001)- Breast carcinoma with osteoclast like
giant cells : Morphological and ultrastructural studies of a case
with review of the literature-The Breast 10,231-236.
Gon S (2014) – Multinucleated giant cells on FNAC of breast
lesions:A not very uncommon occurrence with varied
pathology- Indian J.Basic and Appplied Medical
research,December 2014: vol 4.issue 1:416-424.
Holland R (1984)- Mammary carcinoma with osteoclast like
giant cells additional observation on six cases – Cancer
53,1963-1973.
Koernec FC (2014)- Mammary carcinoma with osteoclast like
giant cells In; Rosen’s-Breast Pathology –fouth Edition
Lippicott William & Willim,p: 703-714
Nielsen BB& Kiaer (1985)- Carcinoma breast with stromal
multinucleated giant cells- Histopathology 9:183-193.
Solene FJ et al (2010)- Fine needle aspiration cytopathology-An
accurate diagnotic modality in Mammary carcinoma with
osteoclast like giant cells – Cancer Cytopathol 2010,118:468-73.
Sugano I et al (1983)- cytologic and ultrastructural studies of a
rare breast carcinoma with osteoclaste like giant cells – Cancer
52:74-78.
Vicadi JA (2004)- Fine needle aspiration cytology of Mammary
carcinoma with osteoclast like giant cells- Cytopathology
15,321-325.



×