Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Khóa luận tốt nghiệp: Nghệ thuật tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (671.2 KB, 74 trang )

LỜI CẢM ƠN

Em xin kính gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo - Tiến sĩ Dương Thị Ánh Tuyết
đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Em cũng xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Quý thầy, cô giáo Khoa
Khoa học Xã hội, Quý thầy, cô giáo của Trường Đại học Quảng Bình đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi để em bồi dưỡng tri thức và hoàn thành khóa học của mình.
Thiết tha bày tỏ lòng tri ân sâu nặng tới gia đình, là suối nguồn niềm tin và khát
vọng của em. Cảm ơn bạn bè đã chia sẻ, động viên và giúp đỡ mình trong suốt thời
gian qua.
Chân thành cảm ơn!

1


LỜI CAM ĐOAN
Chúng tôi xin cam đoan và khẳng định đây là công trình nghiên cứu của riêng
chúng tôi. Các tài liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận là trung thực, được các
đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kì một công trình
nào khác.
Tác giả
Trần Thị Phượng

2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................. 5
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 5
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................... 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................................7


4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................... 10
5. Đóng góp của khóa luận ........................................................................................ 10
6. Kết cấu của khóa luận ........................................................................................... 10
NỘI DUNG ........................................................................................................................... 11
Chương 1: CẤU TRÚC TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT NỖI BUỒN CHIẾN
TRANH .................................................................................................................................. 11
1.1. Trần thuật đa tầng bậc và nghệ thuật phối kết điểm nhìn .................................. 11
1.1.1. Trần thuật đa tầng bậc.................................................................................. 11
1.1.2. Nghệ thuật phối kết điểm nhìn..................................................................... 14
1.1.2.1. Điểm nhìn bên ngoài và khả năng khái quát hóa hiện thực ................ 14
1.1.2.2. Điểm nhìn bên trong và khả năng khai phá thế giới nội tâm .............. 15
1.2. Giọng điệu trần thuật phức hợp.......................................................................... 18
1.2.1. Giọng buồn thương, day dứt ........................................................................ 19
1.2.2. Giọng chiêm nghiệm, suy tư ........................................................................ 21
Chương 2: HỆ THỐNG VÀ PHƯƠNG THỨC XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG
TIỂU THUYẾT NỖI BUỒN CHIẾN TRANH .................................................................. 24
2.1. Các kiểu con người đặc trưng trước, trong và sau cuộc chiến ........................... 24
2.1.1. Con người với lý tưởng thời đại .................................................................. 24
2.1.2. Con người với những mặc cảm tội lỗi ......................................................... 26
2.1.3. Con người với những sang chấn về thể xác và tinh thần .......................... 31
2.1.4. Con người bản năng, vô thức ................................................................. 37
2.2. Phương thức xây dựng nhân vật......................................................................... 44
2.2.1. Phác thảo ngoại hình .................................................................................... 44
2.2.2. Cá thể hóa nhân vật qua ngôn ngữ ............................................................... 46
2.2.2.1. Ngôn ngữ đối thoại ............................................................................. 46
2.2.2.2. Độc thoại nội tâm................................................................................ 48
3


2.3. Khắc họa tính cách nhân vật qua hành động ...................................................... 51

2.4. Thủ pháp dòng ý thức và khả năng khai phá thế giới nội tâm nhân vật ............ 52
Chương 3: CẤU TRÚC KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG
TIỂU THUYẾT NỖI BUỒN CHIẾN TRANH .................................................................. 57
3.1. Không - thời gian lịch sử.................................................................................... 57
3.2. Không - thời gian đời tư .................................................................................... 60
3.3. Thủ pháp đồng hiện không - thời gian ............................................................... 62
3.4. Không - thời gian giàu tính biểu tượng .............................................................. 64
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 73

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Là tấm gương phản ánh cuộc sống qua mọi thời đại, văn học luôn bắt
nguồn từ hiện thực cuộc sống. Tác phẩm văn học chính là đứa con tinh thần của nhà
văn. Tác phẩm nghệ thuật đích thực phải mang giá trị nhân bản sâu sắc và đậm đà hơi
thở của cuộc sống. Nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người đọc về khả năng
nắm bắt và tái hiện cuộc sống hiện thực, cả hiện thực bên trong lẫn hiện thực bên
ngoài, tiểu thuyết Việt Nam những năm gần đây có những bước chuyển mình rất đáng
ghi nhận. Các nhà văn vận dụng khéo léo các quan điểm trong sáng tạo nghệ thuật để
đưa lại cho nền văn học Việt Nam đương đại một diện mạo mới, một bản sắc mới. Sự
thay đổi đó đã làm cho nền văn học Việt Nam trở nên phong phú hơn, đa dạng hơn.
1.2. Trong dòng chảy văn học đương đại, Bảo Ninh là nhà văn xuất sắc nhất.
Ông sinh ra và lớn lên giữa những ngày đất nước bị cày xới bởi bom đạn của kẻ thù,
như bao thanh niên khác Bảo Ninh lên đường thực hiện nghĩa vụ của trai thời loạn. Lí
tưởng xả thân, giấc mộng sa trường đã thôi thúc ông và bao người bạn khác cùng trang
lứa bước vào cuộc chiến. Sống sót trở về, được sống trong hoà bình, có cơ hội nhìn lại
cuộc chiến mà thời đại và cá nhân mình vừa đi qua, Bảo Ninh thấy rõ hơn bản chất của

chiến tranh. Kết thúc cuộc chiến không chỉ là ca khúc khải hoàn, mà đằng sau nó còn
là dằng dặc đau thương khắc đậm vào thực tại. Cũng như bao cựu binh khác, ra khỏi
chiến tranh, Bảo Ninh cũng mang trong mình những chấn thương về thể xác và tinh
thần. Chấn thương chiến tranh đeo bám dai dẳng buộc Bảo Ninh phải vắt kiệt kí ức để
viết về nó như để trả một món nợ. Ông từng nói: “Trở về từ chiến trường, trong hào
quang của một người lính chiến thắng, tôi đã trở thành nhà văn của nỗi buồn chiến
tranh”. Văn Bảo Ninh là câu chuyện của chính cuộc đời ông, ở đó, kí ức cá nhân trở
thành chất liệu. Nó khiến trang viết của ông nhuốm màu quá vãng và đượm buồn: nỗi
buồn mang tên chiến tranh và nỗi buồn không mang tên chiến tranh - nỗi buồn thời
hậu chiến. Bảo Ninh quan niệm rằng: “Nghề văn là nghề chuyên về sự ngẫm nghĩ”
[22; 8]. Với ông, viết văn không phải thú chơi, viết văn phải chuyên nghiệp bởi vì nó
là hình thức lao động bậc cao, lao động trí óc, lao động sáng tạo, một hình thức lao
động nhọc nhằn. Chính vì thế, Bảo Ninh rất chuyên tâm với nghề viết. Ông đã từng
tâm sự: “Sự thực thì viết văn là một nghề nghiệp (…), và cũng coi như mọi nghề khác
trong cuộc sinh nhai của con người, nghề viết văn có những nỗi buồn khổ, phiền lụy,
thất bại, những kì quặc và sự vô nghĩa lý nhưng cũng có vô vàn niềm vui, những sự
thú vị, những thành công và những hữu ích kiểu của nó” [22; 8]. Hiểu rõ những khó
khăn, thử thách và những hệ luỵ của nghiệp văn nên Bảo Ninh luôn có cái nhìn lạc
quan về nghề và sống với nghề bằng cả tấm lòng. Ông được đánh giá là một trong số
5


rất ít nhà văn Việt Nam đương đại có văn đẹp và văn hay, tác phẩm của ông “không
bao giờ là ngắn ở sức quyến rũ câu chữ” (Phạm Xuân Nguyên).
1.3. Cùng với những thành tựu đã được khẳng định của văn học Việt Nam ở các
thời kỳ trước thì văn học Việt Nam sau 1975, đặc biệt văn học thời kỳ đổi mới (sau
1986) đã gặt hái được rất nhiều thành công, nhiều hứa hẹn mới với các cây bút tiêu
biểu như Lê Lựu, Chu Lai, Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Phạm Thị Hoài, Dương
Hướng, Bảo Ninh…trong đó, Bảo Ninh với tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (xuất bản
lần đầu tiên năm 1990 - với tiêu đề Thân phận tình yêu) đã gây được tiếng vang lớn

trong và ngoài nước. Có thể nói, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh đã làm nên tên tuổi
Bảo Ninh bởi vì: Ngay trong lần đầu tiên xuất bản, tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”
đã được độc giả đón nhận nồng nhiệt và được trao giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam
(1991). Ở nước ngoài, Nỗi buồn chiến tranh cũng rất được đề cao, được dịch ra 18 thứ
tiếng khác nhau. Chúng ta có thể khẳng định rằng, với Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh
đã góp phần tạo nên bộ mặt mới, tạo thêm sự sôi động cho văn học Việt Nam đương đại.
1.4. Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh đã để lại trong lòng độc giả những ấn
tượng sâu đậm bởi tác phẩm chứa đựng trong đó những nghịch lý, những cái nhìn đa
chiều về chiến tranh, về con người. Tác phẩm thể hiện một cách cảm thụ, cắt nghĩa và
lý giải mới về đề tài chiến tranh, đồng thời nó cũng chứa đựng những cách tân về kỹ
thuật tiểu thuyết. Tác phẩm không có các nhân vật trọn vẹn theo lối truyền thống, nhân
vật là những mảnh đời, những mẩu đời vụn nát, dang dở, chắp vá hợp lại thành từng
“bản hòa tấu của những khuôn mặt và những cuộc đời” thành “tiếng rì rầm của cuộc
đời thường” (GS.Trần Đình Sử). Có thể nói, toàn bộ Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh đã phản ánh quá trình sáng tạo, nỗ lực cách tân tiểu thuyết của nhà văn. Bởi vậy,
nghiên cứu nghệ thuật trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là cách để
chúng ta khám phá, phát hiện và khẳng định tài năng, cũng như những đóng góp của
Bảo Ninh cho nền tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
1.5. Văn học là một “món ăn tinh thần” không thể thiếu được trong đời sống
văn nghệ của quần chúng. Vì vậy, việc đi sâu vào tìm hiểu nghệ thuật trong một tác
phẩm cụ thể như vậy, chúng ta phần nào giúp độc giả hiểu sâu hơn, lý giải cặn kẻ hơn
về một hiện tượng văn học. Xuất phát từ những lí do trên cùng với lòng yêu thích,
ngưỡng mộ tài năng của Bảo Ninh đồng thời muốn nâng cao tầm hiểu biết về văn học
Việt Nam nói chung nên tôi chọn vấn đề “Nghệ thuật tiểu thuyết Nỗi buồn chiến
tranh của Bảo Ninh” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là tác phẩm có số phận đặc biệt, xuất bản
lần đầu tiên vào năm 1990 với tiêu đề do biên tập viên nhà xuất bản Hội nhà văn lựa
6



chọn: Thân phận của tình yêu. Chỉ một năm sau đó, tác phẩm được tái bản với tiêu đề
chính của tác giả: Nỗi buồn chiến tranh. Cũng trong năm đó, tác phẩm được giải
thưởng của Hội nhà văn và từ đó trở thành một một lựa chọn bị tranh cãi nhiều nhất
trong số các giải thưởng của Hội nhà văn trao tặng. Nhiều cuộc tọa đàm, nhiều bài viết
với những ý kiến khen - chê về tác phẩm đến nay vẫn chưa ngã ngũ.
Nỗi buồn chiến tranh đặt trong bối cảnh của văn học Việt Nam sau 1975 mà
bản thân giai đoạn này chưa có sự thống nhất trong cách nhìn nhận, đánh giá. Có nhà
nghiên cứu, nhiều độc giả rất tán thành, khen ngợi và ghi nhận sự cống hiến của văn
học giai đoạn này khi nó đã có công đem đến một luồng gió mới cho văn học, bước
đầu làm thay đổi tư duy nghệ thuật. Song, cũng không ít những đánh giá ngược chiều
cho đây là bước thụt lùi của nền văn học Việt Nam. Hơn thế nữa, tiểu thuyết Nỗi buồn
chiến tranh chứa đựng trong đó những nghịch lý, những cái nhìn đa chiều về chiến
tranh. Nó thể hiện một cách cảm thụ, cắt nghĩa và lý giải mới về đề tài này. Tác phẩm
cũng chứa đựng những cách tân về kỹ thuật tiểu thuyết cho nên sự đánh giá, khẳng
định những giá trị của nó còn khá thận trọng và dè dặt.
Với tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, sự đánh giá về tác phẩm cũng xoay quanh
hai trạng thái đối lập: người khen, khen hết mức; người chê, chê hết lời. Cụ thể: Đức
Trung trong bài viết:“Chiến tranh nào? Nỗi buồn nào?” đã tỏ rõ thái độ không tán
thành.Cũng có không ít nhà phê bình coi cuốn tiểu thuyết này của Bảo Ninh là“điên
loạn”,“rối bời”,“lố bịch hóa hiện thực”,“bôi nhọ quân đội”(Báo Văn nghệ số 43
ngày 26 tháng 10 năm 1991).
Bên cạnh đó, cũng có nhiều ý kiến đánh giá cao tác phẩm về nội dung, đặc biệt
về hình thức nghệ thuật. Có thể kể đến một số công trình sau:
+ Hoàng Ngọc Hiến, Những nghịch lý của chiến tranh (Đọc Thân phận của tình
yêu của Báo Ninh, Báo Văn nghệ số 15/1991).
+ Trần Quốc Huấn, Đọc Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh (Tạp chí văn
học số 3/1991).
+ Nguyễn Thanh Sơn, Nỗi buồn chiễn tranh đến từ đâu?(www.tanviet.net).
+ Trần Huyền Sâm, Bảo Ninh và nỗi ám ảnh về chiến tranh

() ...
Là một hiện tượng văn học độc đáo, gây nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu,
phê bình nên cho đến nay vẫn có nhiều công trình tiếp tục nghiên cứu về Nỗi buồn
chiến tranh. Song, dường như gần đây do sự thay đổi trong tư duy tiếp nhận của độc
giả nên Nỗi buồn chiến tranh dần được nhìn nhận đúng với những giá trị mà tác giả
góp công tạo nên. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học, nhiều bài viết đã khẳng định
Nỗi buồn chiến tranh là một tiểu thuyết tiêu biểu cho văn học đổi mới. Hơn thế
7


nữa, nhiều nhà nghiên cứu còn khẳng định đây là cuốn tiểu thuyết đáng đọc nhất thế kỉ
XX, là tiểu thuyết mở đầu cho xu hướng tiểu thuyết mới trong văn xuôi Việt năm về
kỹ thuật tiểu thuyết.
Cũng trong mạch nguồn khám phá, nghiên cứu về Nỗi buồn chiến tranh, nhiều
công trình khoa học, luận văn, luận án đã ra đời. Ngoài những tác giả và các công
trình, bài viết về Nỗi buồn chiến tranh như đã kể trên thì cũng phải kể thêm một số bài
viết quan tâm nhiều hơn tới hình thức nghệ thuật của tiểu thuyết như:
+ Đoàn Cầm Thi, Tự truyện bất thành ().
+ Nguyễn Đăng Điệp, Kỹ thuật dòng ý thức qua Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh (Tự sự học, Đại học sư phạm Hà Nội, Trần Đình Sử chủ biên).
Nhìn chung, hầu hết các bài viết đã có cái nhìn bao quát về tiểu thuyết Nỗi buồn
chiến tranh của Bảo Ninh từ góc độ nhan đề, tác phẩm, cảm hứng sáng tạo của nhà
văn, quan niệm nghệ thuật về con người - ngọn nguồn của mọi cách tân về nghệ thuật.
Nghiên cứu về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh còn phải kể đến các luận văn tốt
nghiệp đã đề cập khá sâu vào phương diện quan niệm nghệ thuật về con người. Các
luận văn đã phần nào làm rõ hơn quan niệm nghệ thuật về con người của Bảo Ninh
trong Nỗi buồn chiến tranh, như:
Nguyễn Thị Thu Hằng với đề tài: “Quan niệm nghệ thuật về con người trong
tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh”. (Người hướng dẫn: Nguyễn Văn
Tùng, luận văn tốt nghiệp năm 2003) đã nghiên cứu chuyên sâu hơn, tác giả có cái

nhìn bao quát trên phương diện quan niệm nghệ thuật về con người với sự tiếp thu
nhiều công trình, bài viết đi trước. Công trình đã đề cập được đến khía cạnh nhân vật:
Nhân vật người lính trong quá trình tự nhận thức, tự sám hối; nhân vật người lính cô
đơn, mặc cảm.
Gần đây hơn nữa, năm 2003, với việc Nỗi buồn chiến tranh được tái bản với hai
tiêu đề Nỗi buồn chiến tranh (Nhà xuất bản hội nhà văn) và Thân phận của tình yêu
(Nhà xuất bản Phụ nữ) thì nhiều công trình lại tiếp tục nghiên cứu để giải đáp những
vấn đề còn chưa ngã ngũ. Một số bài viết đi sâu nghiên cứu về nhân vật trong tiểu
thuyết Nỗi buồn chiến tranh như: Phạm Xuân Thạch, Nỗi buồn chiến tranh viết về
chiến tranh thời hậu chiến - Từ chủ nghĩa anh hùng đến chủ đề đổi mới bút pháp (Văn
học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy).
Nguyễn Thị Mai Liên, Con người - nạn nhân chiến tranh trong hai tiểu thuyết:
Một nỗi đau riêng và Nỗi buồn chiến tranh (Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn
đề nghiên cứu và giảng dạy).
Đoàn Cầm Thi, Về nhân vật Phương, người phụ nữ Hà Nội và chủ đề văn học
của Nỗi buồn chiến tranh ( epress.net).
8


Trần Huyền Sâm, Bảo Ninh với nỗi ám ảnh về chiến tranh
().
Nhìn chung, các bài viết này đã tập trung nghiên cứu về nhân vật - một biểu
hiện trong sự cách tân nghệ thuật của Bảo Ninh trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh,
đưa ra các kiểu nhân vật “nạn nhân của chiến tranh”(Nguyễn Thị Mai Liên), ba tuyến
nhân vật chạy song song trong cuộc đời Kiên: người phụ nữ, những người đồng đội và
những người thân (Phạm Xuân Thạch) hay về nhân vật Phương - người phụ nữ - đối
âm của chiến tranh, nhân vật cứu rỗi và khơi nguồn sáng tạo (Đoàn Thi)… Trần Huyền
Sâm cũng đã đặt ra những câu hỏi mới để suy xét về Nỗi buồn chiến tranh. Bà cũng đã
đánh giá cao tiểu thuyết này và đặc biệt quan tâm đến nhân vật Kiên, bà cho đây là
“một kiểu bi kịch về người lính” trong và sau chiến tranh. Kiên được tác giả “dồn”

vào nhiều vai và “đặt” vào nhiều góc nhìn khác nhau. Trong phần cuối của bài viết,
Trần Huyền Sâm càng khẳng định đánh giá của mình về Nỗi buồn chiến tranh khi cho
rằng với Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã vượt lên một số nhà văn về kỹ thuật tiểu
thuyết. Trong tác phẩm này, người đọc bắt gặp kiểu nhân vật bệnh lý của Đôntôiepxki,
thủ pháp độc thoại nội tâm và dòng ý thức của Faukner, bút pháp gán ghép điện ảnh
của Duras…với một lối kết cấu phi logic. Chính vì những cách tân táo bạo ấy mà Nỗi
buồn chiến tranh đã tạo ra sự khiêu khích, và có khả năng đối thoại với bạn đọc. Bài
viết của Trần Huyền Sâm đã khẳng định thêm một lần nữa những thành công của Nỗi
buồn chiến tranh. Tuy nhiên dung lượng hạn hẹp của một bài báo chưa cho phép tác
giả kiến giải, đi sâu phân tích tác phẩm theo đánh giá của riêng mình. Do vậy, những
vấn đề nêu ra trong bài viết chúng tôi thiết nghĩ nên tiếp tục được luận bàn.
Với đề tài: Nghệ thuật tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh chúng
tôi tập trung nghiên cứu nghệ thuật trong Nỗi buồn chiến tranh để khám phá đặc sắc
nghệ thuật trên các phương diện xây dựng cấu trúc trần thuật, kết cấu không gian ,thời
gian của Bảo Ninh và cũng thể hiện sự sắc sảo trong quan niệm nghệ thuật về con
người của nhà văn. Tiếp thu những kết quả đã đạt được của những công trình đi trước
với hướng nghiên cứu trọng tâm về nghệ thuật, chúng tôi muốn góp thêm một cách
hiểu Nỗi buồn chiến tranh - tác phẩm được xem là tiểu thuyết tiêu biểu của văn học
Việt Nam thời kỳ đổi mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu Nghệ thuật tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh chúng
tôi tập trung vào ba phương diện chính sau:
- Cấu trúc trần thuật trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
- Nhân vật trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
9


- Cấu trúc không gian, thời gian trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp, người viết hướng đề tài của
mình tập trung vào cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh, nhà xuất bản
Trẻ 2015 để khảo sát, nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng của Marx làm nền tảng, chúng tôi tiến hành
khóa luận với phương pháp nghiên cứu chuyên ngành chủ yếu là thi pháp học, tự sự
học.
Khóa luận cũng được tiến hành bằng một số phương pháp cụ thể như: khảo sát,
thống kê, phân loại, phân tích, bình giá, tổng hợp.
Các thao tác này được sử dụng một cách có hệ thống, ngoài ra, trong khi thực
hiện đề tài này chúng tôi cũng không loại trừ một số gợi ý của phê bình trực giác.
5. Đóng góp của khóa luận
Từ phương diện của lịch sử vấn đề, khóa luận của chúng tôi sẽ có những đóng
góp sau:
Hệ thống lại vấn đề nghệ thuật tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh trong phạm vi
tài liệu bao quát được.
Đưa ra cách tiếp cận mới về nghệ thuật trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh. Đó là cách tiếp cận dưới ánh sáng của lí thuyết văn học hiện đại: thi
pháp học có kết hợp tự sự học (lý thuyết điểm nhìn).
Có những đóng góp trên, khóa luận sẽ là một tài liệu bổ ích cho việc học tập,
nghiên cứu và giảng dạy Bảo Ninh ở trong nước.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung của khóa luận
gồm có ba chương:
Chương 1: Cấu trúc trần thuật trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
Chương 2: Nhân vật trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
Chương 3: Cấu trúc không gian và thời gian trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến
tranh

10



NỘI DUNG
Chương 1
CẤU TRÚC TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT NỖI BUỒN CHIẾN TRANH
Mỗi nhà văn khi sáng tác đều chọn cho mình những chiến lược trần thuật riêng,
thể hiện trong cách lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu, cách bố trí
không gian - thời gian… Cũng trong quy luật chung ấy, Bảo Ninh chọn cho mình
hướng trần thuật đứng từ hiện thực bên ngoài để khám phá thế giới nội tâm bên trong
nhân vật rồi từ câu chuyện của từng nhân vật để khái quát nên câu chuyện của thời đại.
Cách thức trần thuật này tạo nên tính đa chiều trong việc nhìn nhận, bày tỏ quan điểm
của tác giả. Đến phiên người đọc, vượt qua cảm giác mơ hồ ban đầu, sẽ là những cảm
nhận gần gũi, thích thú với quyền tự quyết của mình đối với câu chuyện của từng nhân
vật cũng như những thông điệp nghệ thuật được tác giả gửi gắm trong tác phẩm.
1.1. Trần thuật đa tầng bậc và nghệ thuật phối kết điểm nhìn
1.1.1. Trần thuật đa tầng bậc
Hình tượng nhân vật người kể chuyện là một trong những phương diện quan
trọng góp phần tạo nên chỉnh thể nghệ thuật của tác phẩm. Giới thuyết về “người kể
chuyện” hay “người trần thuật” trong Từ điển thuật ngữ văn học khái quát như sau:
“Người kể chuyện là hình tượng ước lệ về người trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ
xuất hiện khi nào câu chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Một tác
phẩm có thể có một hoặc nhiều người kể chuyện. Hình tượng kể chuyện đem lại cho
tác phẩm một cái nhìn và một sự đánh giá bổ sung về mặt tâm lý, nghề nghiệp hay lập
trường xã hội cho cái nhìn tác giả, làm cho sự trình bày, tái tạo con người và đời sống
trong tác phẩm thêm phong phú, nhiều cảnh” [13; 221].
Còn “Người trần thuật là một nhân vật hư cấu hoặc có thật, mà văn tự sự là do
hành vi ngôn ngữ của anh ta tạo thành… Có thể chia ra thành người trần thuật lộ diện
và người trần thuật ẩn tàng. Theo thuật ngữ thông dụng, thì người trần thuật lộ diện là
người trần thuật theo “ngôi thứ nhất”, còn người trần thuật ẩn tàng là người trần thật
theo ngôi thứ ba… Người trần thuật nói chung thực hiện chức năng: 1. Chức năng kể

chuyện, trần thuật; 2. Chức năng truyền đạt đóng vai trò một yếu tố của tổ chức tự sự;
3. Chức năng chỉ dẫn thuộc phương pháp trần thuật; 4. Chức năng bình luận; 5. Chức
năng nhân vật hóa [13; 222 - 223].
Với tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã tạo được một bút pháp trần
thuật mới mẻ, với cách kể chuyện song hành. Tác phẩm xuất hiện hai người kể chuyện
xưng “tôi” (một là Kiên và một là người kể lại câu chuyện của Kiên). Hai người kể
“tôi” này rất ít lộ diện trong tác phẩm. Xuyên suốt mọi hành động kể là lời của người
kể ngôi thứ ba “đọc” lời Kiên: “Mắt mờ đi, Kiên mở khóa và đẩy cửa ra. Bầu không
11


khí trong căn phòng đã nhiều năm trời hầu như thường xuyên khép kín ùa ra, bao bọc
lấy anh như làn hơi thở cuối cùng của cuộc đời yêu dấu xa xưa” [22; 100]. Ngôi kể
thứ ba này rất phức tạp. Đó không phải là ngôi ba của người thu thập bản thảo (của
nhà văn Kiên) mà là ngôi ba của chính Kiên tự chuyển từ “tôi” kể chuyện “tôi” (hoặc
chuyện của người khác) sang “tôi” độc thoại, suy nghẫm về “tôi”, một cái tôi chuyển
dịch giữa hai cực tôi - ta, vừa là tôi vừa là người khác.
Đặc biệt hơn, nhân vật xưng tôi trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh vừa là người trần thuật, lại vừa là nhân vật trong câu chuyện mà họ đang kể cộng
với sự phối kết của nhiều hình tượng người trần thuật ngôi thứ nhất đem đến cho độc
giả những phám phá mới mẻ về chính bản thân nhân vật. Tác giả đã tạo cho người đọc
cảm giác được bước vào chính cuộc đời nhân vật thông qua những gì mà họ trải
nghiệm và phơi bày. Một mặt, nó cho thấy cái nhìn đa diện của nhà văn trong việc
phản ánh hiện thực. Mặt khác nó chứng tỏ sự phổ biến của các hiện tượng được đề cập
mà chúng tôi gọi là “vô thức tập thể”. Người kể chuyện ngôi thứ nhất vừa tham gia các
sự kiện, biến cố của cốt truyện qua đó có điều kiện bộc lộ tình cảm, cảm xúc, suy nghĩ
của mình làm tăng thêm chất trữ tình và tạo nên sắc thái chân thực.
Một số nét hiện đại trong sáng tạo của Bảo Ninh là: trí nhớ, sự hồi tưởng. Tất cả
câu chuyện như một mô hình lắp ráp. Nó đa phần phụ thuộc vào mớ trí nhớ hỗn độn
thuận theo chiều cảm xúc của nhân vật, tạo cho người đọc một cảm giác gần gũi. Bởi

lẽ cách phản ứng ấy hoàn toàn giống với suy nghĩ của con người bình thường không
còn chỉ đơn giản là hình tượng nhân vật trên trang giấy mà tác giả phải đi “xin” từng
cử chỉ, hành động, thái độ, diễn biến tâm trạng của con người chỉ để cho nhân vặt trên
trang sách sống động hơn. Dưới ngòi bút của Bảo Ninh, cảm xúc nhân vật diễn ra tự
nhiên không hè gượng ép, nó ngập ngừng, lộn xộn, đầy bí ẩn gây cho người đọc nhiều
suy nghĩ. Với Kiên cuộc sống được cảm nhận bằng rất nhiều giác quan - khứu giác và
thị giác: “Mùi hôi hám pha tạp của đường phố bị cảm giác nồng lên thành mùi thối
rữa. Tôi tưởng mình đang đi qua đồi (Xáo Thịt) la liệt người chết sau trận xáp lá cà
tắm máu cuối tháng Chạp 72”, “một ngày nọ rất bất ngờ, nhờ vào phép liên tưởng
nhiệm màu của hồi ức, khi đang xem một nghệ sĩ kịch câm uốn lượn thân mình một
cách quằn quại, gào thét một cách âm thầm thống thiết nỗi đời tuyệt vọng …” [22;
58]. Bảo Ninh để cho nhân vật được tự do vẫy vùng trong hồi ức của bản thân với
nhiều cung bậc cảm xúc, gây cho người đọc vừa có những cảm giác mơ hồ về ký ức
vừa căng người sử dụng hết tất cả các giác quan (thị giác, thính giác, xúc giác…) để
cảm nhận “mùi” của chiến tranh cùng nhân vật, mà không theo một logic hay một
trình tự nhất định. Thông qua cách kể chuyện đó, tác phẩm như đang lật từng ô cửa
tâm hồn của Kiên và đến lúc mở xong những ô cửa đó ta mới thấm thía “nỗi đau buồn
của chiến tranh”. Nhà văn sử dụng rất nhiều cụm từ có ý nghĩa khơi gợi làm cho người
12


đọc ý thức được giá trị của con người, tinh thần phản kháng trước chiến tranh: “chết
cho đồng đội của mình sống”, “vĩnh viễn tình người”. Bảo Ninh đã xây dựng thành
công sự dằn vặt nội tâm trong nhân vật này bằng những ngôn từ, cách kể chuyện đơn
giản, đời thường, không hoa mỹ, nhưng mang lại hiệu quả gợi tả không nhỏ. “Khi đọc
lướt nhanh lại bản thảo, anh ngỡ ngàng và kinh hãi thấy điều mà mình vừa khẳng định
ở trang trước đã bị phủ định ở trang này. Và các nhân vật của anh không ngừng mâu
thuẫn. Tuồng như càng trăn trở càng trượt nhanh ra vấn đề làm anh trăn trở” [22; 61].
Bảo Ninh đã cho ta thấy sự giày vò trong tâm khảm một nhà văn chân chính, mang nỗi
đau lên trang giấy cho người đọc đối diện với chính mình.

Lời kể trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh chủ yếu vẫn
nghiêng về dòng nội tâm của nhân vật Kiên. Những lúc này Kiên hiện lên với tư cách
là một người kể độc thoại nội tâm: “Trong tâm trí anh vẫn không ngừng nhói đau
những hồi tưởng tan nát về thời gian sống cùng nhau sau chiến tranh của anh và
Phương. Mảnh đời còn lại sau mười lăm năm bị lửa đạn của chiến tranh vằm xé lại bị
móng vuốt của tình yêu xéo nát” [22; 101] . Lời độc thoại nội tâm này thực chất là
thao tác phân tích tâm trạng của người kể. Chỉ là sự phân tích. Chuỗi sự kiện hiện thực
bên ngoài không quan trọng bằng hành vi lộn trái nội tâm này. Ta mạnh hay yếu? Kiên
suy tư: “Có lẽ là như thế thật. Kiên cũng chẳng biết nữa. Anh do dự. Đã đành là đánh
nhau thì phải đánh nhau thôi một khi không còn cách nào khác, nhưng dù sao thì
…Trái đất Việt thực ra không ham chiến trận lắm đâu như người ta hay đồn, hăng
chiến phải nói là mấy ông trí thức tuổi sồn sồn bụng to chân ngắn. Còn với dân chúng,
cơn binh lửa vừa rồi đã đủ đau thấu tới ngàn năm” [22; 91]. Hai chủ thể “tôi” (của
Kiên và của người bao quát toàn tác phẩm) kết hợp với “dòng nội tâm kép” của Kiên
(được quan sát bởi “chính Kiên”) đã tạo nên nhiều lớp văn bản trùng phức cho tác
phẩm.
Kết hợp người kể chuyện xưng tôi và người kể chuyện hàm ẩn cùng với sự di
chuyển điểm nhìn hết sức sáng tạo. Bảo Ninh đã tạo cho thế giới truyện kể trong tiểu
thuyết của mình một cấu trúc trần thuật độc đáo nhưng không kém phần phức tạp với
nhiều tầng bậc, nhiều cấp độ và nhiều hệ thống trần thuật khác nhau. Điều này khiến
cho nhân vật có cơ hội thực hiện trọn vẹn những cuộc hành trình của mình, mặt khác
lại cho người đọc chiêm nghiệm về những chuyến đi dưới nhiều góc độ khác nhau qua
cái nhìn đối sánh của người kể chuyện đồng hiện. Có thể nói rằng, cấu trúc trần thuật
trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh có tính chất đa dạng, luân chuyển
của nhiều người trần thuật trong kỹ thuật tự sự đa chủ đề kể chuyện. Đó là một cấu
trúc có khả năng tạo ra sự đa dạng trong lời trần thuật của người kể chuyện, do vậy
đem lại những hiệu quả tiếp nhận đa chiều cho độc giả, tránh đi sự nhàm chán. Cấu
trúc đó vừa mang tính khách quan nhưng đồng thời cũng thể hiện được tính chủ quan
13



của tác giả. Do đó, dù không có thói quen xuất hiện trong các tác phẩm của mình
nhưng hình tượng của nhà văn không hề bị lu mờ sau các hình tượng nhân vật. Đâu đó,
trong các trang văn vẫn tồn tại hình ảnh của một Bảo Ninh dấn thân và đầy trăn trở với
số phận của nhân vật mình.
1.1.2. Nghệ thuật phối kết điểm nhìn
Điểm nhìn trần thuật (the point of view) là vấn đề cơ bản, then chốt của kết cấu
nghệ thuật. Là vị trí, chỗ đứng để xem xét, miêu tả, bình giá, sự vật, hiện tượng trong
tác phẩm, điểm nhìn nghệ thuật biểu hiện qua các phương diện như ngôi kể, cách gọi
tên nhân vật, cách dùng từ ngữ, kiểu câu…Không thể tạo ra tính nghệ thuật nếu không
chọn đúng vị trí để đặt điểm nhìn. Theo Abrahams, điểm nhìn chỉ ra “những cách thức
mà một câu chuyện được kể đến - một hay nhiều phương thức được thiết lập bởi tác
giả bằng ý nghĩa mà độc giả được giới thiệu với những cá tính, đối thoại, những hành
động, sự sắp đặt và những sự kiện mà trần thuật cấu thành trong một tác phẩm hư cấu
[23; 165].
Để bức chân dung về các nhân vật trở nên sinh động và sắc nét hơn, không chỉ
về ngoại hình mà còn cả về tính cách, tác giả đặt nhân vật vào tụ điểm của nhiều lăng
kính. Điểm nhìn trở thành camera dẫn dắt người đọc vào mê cung văn bản ngôn từ.
Tiếp xúc tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh ta thấy Bảo Ninh không hề xây dựng cố
định một điểm nhìn mà là một sự đan xen phối kết giữa các điểm nhìn.
1.1.2.1. Điểm nhìn bên ngoài và khả năng khái quát hóa hiện thực
Điểm nhìn bên ngoài luôn tạo ra khoảng cách giữa người trần thuật và nhân vật.
Đây là một dạng khá phổ biến của hình thức trần thuật ngôi thứ ba. Từ điểm nhìn này,
người trần thuật quan sát, thể hiện sự hiểu biết với tư cách bên ngoài truyện. Không bị
hạn chế về tầm nhìn trần thuật, việc sử dụng điểm nhìn bên ngoài có khả năng bao quát
hiện thực và mang lại tính khách quan tối đa cho vấn đề được trần thuật.
Người kể chuyện không chỉ đứng bên ngoài để quan sát những hiện tượng xung
quanh đời sống nhân vật mà còn đứng cao hơn nhân vật để bộc lộ sự nhìn nhận, đánh
giá về các hành vi của họ: “Lãnh đạm và thờ ơ với mọi người, với mọi sự xung quanh,
anh như đang âm thầm vĩnh biệt chính mình. Anh đón đợi cái chết, nhưng ngay cả nó,

cái chết cũng thường và vô vị” [22; 23]. Đấy là lời bình phẩm khách quan của người
kể chuyện trước thái độ của Kiên. Người kể chuyện cũng thấy được suy nghĩ của Kiên:
“Anh chỉ muốn được yên thân, chết một cách yên thân, yên với số phận con sâu và cái
kiến của chiến tranh.” [22; 25]. Đồng thời người kể chuyện cũng không ngại đưa ra
những nhận xét của mình về nhân vật: “Kiên cũng có một thời trẻ trung, cái thời mà
toàn bộ con người anh, nhân tính và nhân dạng, còn chưa bị bạo lực tàn bạo của
chiến tranh hủy hoại, cái thời anh cũng ngập lòng ham muốn, cũng biết say sưa, si mê,
14


cùng trải những cơn bồng bột, và cũng ngốc nghếch ngẩn ngơ…” [22; 39]. So với
nhân vật, điểm nhìn của người kể chuyện không trùng khít với nhân vật, mà theo cá
tính, địa vị tâm lý. Từ điểm nhìn bên ngoài, người trần thuật vừa có chức năng truyền
đạt, tổ chức tự sự bên cạnh chức năng trần thuật, chức năng chỉ dẫn và đặc biệt là chức
năng bình luận.
Với điểm nhìn này, người trần thuật có thể khách quan tường thuật lại một cách
chính xác những điều anh ta chứng kiến. Không bình phẩm, không áp đặt quan điểm
lên cho nhân vật mà để cho họ tự do đi lại trong môi trường riêng và có quyền trình
bày suy nghĩ một cách độc lập và dân chủ. Do đó, câu chuyện chủ yếu được trần thuật
bằng giọng điệu, ngôn ngữ, ý thức của chính nhân vật.
Từ vị trí bên ngoài, người kể chuyện đem lại cho người đọc những chi tiết hiện
thực sâu sắc. Những mốc sự kiện lịch sử diễn ra cụ thể: “Mùa khô đầu tiên sau chiến
tranh đến với miền hậu cứ Cánh Bắc của Mặt trận B3 êm ả nhưng muộn màng. Tháng
Chín và tháng Mười, rồi tháng Mười một nữa đã trôi qua, vậy mà trên dọc dòng Ya
Crông Pôcô làn nước mùa mưa xanh ngắt vẫn tràn ắp đôi bờ.” [22; 9]. Không gian
Hà Nội, không gian trường Bưởi, không gian núi rừng Tây Nguyên…tất cả những nơi
nhân vật đi qua, chứng kiến và gắn chặt với số phận của họ đều được miêu tả sinh
động. Gắn với không gian Hà Nội là một mối tình tình tuyệt đẹp của Kiên và Phương,
gắn với không gian của núi rừng Tây Nguyên là những địa danh khốc liệt: truông Gọi
Hồn, đồi Xáo Thịt, hồ Cá Sấu…gắn với mùa khô là những trận đánh ghê rợn, thảm

khốc như trận đánh quyết tử mùa khô năm 69 xóa phiên hiệu tiểu đoàn 27. Gắn với
mùa mưa là không gian của núi rừng đói rét, bệnh tật, ảm đạm, thê lương, chết chóc.
Những đánh giá khách quan ấy của người kể chuyện đã giúp người đọc hình dung
được sự khốc liệt của chiến tranh và cuộc sống của con người hiện lên đằng sau cuộc
chiến ấy.
Phát huy lợi thế của người ngoài cuộc, người trần thuật có thể đánh giá khách
quan về số phận của nhân vật gắn liền với thời đại mà họ đã và đang sống, đó là thời
đại của những cuộc chiến đấu, con người hi sinh để bảo vệ tổ quốc, để chết cho đồng
đội mình được sống. Nhưng đằng sau niềm may mắn được sống sót, trở về với cuộc
sống hòa bình thì họ lại mang trong mình một sự mặc cảm, một nỗi đau, còn hơn cả
cái chết, sự dằn vặt, day dứt luôn gặm nhấm trong tâm hồn họ cứ âm ỉ mãi không thôi.
Mục đích cuối cùng của sáng tạo nghệ thuật là vì con người, vì cuộc sống. Bảo Ninh
có lẽ thấu hiểu điều đó. Văn chương của ông vì vậy cũng ngồn ngộn chất liệu và hơi
thở cuộc sống đời thường. Dưới góc quay tinh tế của người trần thuật, bầu không khí
chiến trận, những sự thật khốc liệt đằng sau ánh hào quang của chiến thắng được khéo
léo phơi bày.
1.1.2.2. Điểm nhìn bên trong và khả năng khai phá thế giới nội tâm
15


Điểm nhìn bên trong không chỉ gắn với hình tượng người trần thuật ngôi thứ
nhất mà còn gắn với hình tượng người trần thuật ngôi thứ ba giấu mặt. Nó xuất hiện
khi người kể chuyện thâm nhập vào suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật. Vì thế thường
mang tính chủ quan hoặc dễ gây cho người đọc cảm giác về tính chủ quan của người
kể. Nếu điểm nhìn bên ngoài là tình huống người kể chuyện đứng từ ngoài để quan sát
câu chuyện thì điểm nhìn bên trong là sự quan sát từ cảm nhận nội tâm nhân vật. Nó
cho phép trần thuật qua một tâm trạng cụ thể, tái hiện đời sống nội tâm nhân vật một
cách sâu sắc. Bảo Ninh rất ý thức trong việc lựa chọn và sắp xếp điểm nhìn cả về
không gian lẫn thời gian nhưng điểm nhìn của tác giả và nhân vật mới là điểm nhấn
đáng chú ý trong nghệ thuật kể chuyện của ông.

Người trần thuật trong Nỗi buồn chiến tranh không xem mình là người kể
chuyện toàn tri, không nắm toàn bộ các góc nhìn trong việc khám phá sự phức tạp và
tinh tế trong mỗi con người. Sử dụng bút pháp gửi điểm nhìn từ người kể chuyện sang
nhân vật, câu chuyện trở nên linh hoạt hơn. Người kể chuyện trở thành người kể toàn
tri một phần (partially omniscient).
Bằng việc trao điểm nhìn người trần thuật có thể nắm được vòng đời cũng như
số phận của nhân vật, có thể nhảy cóc từ nhân vật này sang nhân vật khác, xuyên thấu
mọi ngõ ngách kể cả đi sâu vào đời sống nội tâm. Nghĩa là người kể chuyện mượn
điểm nhìn, mượn giọng điệu của nhân vật để tường thuật câu chuyện khiến người đọc
rất khó phân biệt đâu là giọng nhân vật, đâu là giọng người kể chuyện. Bước tiếp theo
là thâm nhập vào đời sống bên trong để khéo léo chuyển vai kể sang nhân vật rồi rút
lui để họ tự bộc bạch những suy tư, quan niệm của riêng mình. Với điểm nhìn bên
trong, người kể chuyện chạm đến những nơi thầm kín nhất, những ám ảnh sâu xa nhất
trong tâm hồn con người. Đây là cách tốt nhất để nhân vật tự nói lên tiếng nói của
mình thông qua những dòng độc thoại nội tâm, tự đối diện với chính mình.
Trong Nỗi buồn chiến tranh những dòng độc thoại khơi mở chiều sâu nội tâm
thậm chí nó còn chạm đến tầng vô thức, tiềm thức của nhân vật. Tuy nhiên độc thoại
trong Nỗi buồn chiến tranh không phải là độc thoại một chiều. Ngay trong dòng độc
thoại nội tâm của nhân vật, nhà văn cũng thường sử dụng những kiểu câu phỏng đoán,
không xác định, tạo nên sự phức tạp khó nắm bắt. Thực ra, nó là những cuộc đối thoại
của nhân vật với chính mình, với những luồng tư tưởng, tình cảm khác nhau tồn tại
trong con người mình. Nhân vật của Bảo Ninh là kiểu nhân vật tự vấn. Kiên miên man
trong những dòng độc thoại nội tâm suốt từ đầu đến cuối tác phẩm. Tuy nhiên, lời độc
thoại của Kiên lại cho thấy anh không phải đang kể lại cuộc đời của mình mà đang
sống lại những ngày tháng đã qua, vì thế, nhiều lời độc thoại của Kiên như là đang đối
thoại với chính mình, với độc giả. Chẳng hạn như, cuộc độc thoại sau: “Bây giờ thì đã
qua cả rồi. Tiếng ồn ào của những cuộc sung sát đã im bặt. Và vì chúng ta đã chiến
16



thắng nên đương nhiên có nghĩa là chính nghĩa đã chiến thắng, điều này có một ý
nghĩa an ủi lớn lao, thật thế. Tuy nhiên cứ nghĩ mà xem, cứ nhìn vào sự sống sót của
bản thân mình, cứ nhìn kỹ vào nền hoà bình thản nhiên kia, và nhìn cái đất nước đã
chiến thắng này mà xem: đau xót, chua chát và nhất là buồn xiết bao. Một người ngã
xuống để người khác được sống, điều đó chẳng có gì mới, thật thế... là cả một nghịch
lý quái gở” [22; 258]. Lời độc thoại về lẽ sống chết, về cuộc chiến thắng và nền hoà
bình nghe như những dằn vặt, xót xa, lại nghe như đang tự vấn, như đang đối thoại với
người đọc và cần sự đối thoại trở lại.
Đặt Kiên là nhân vật trung tâm trong tác phẩm của mình với một cái nhìn đa
chiều, Bảo Ninh đã xây dựng thành công bi kịch của một người lính. Vừa mới bước ra
khỏi cuộc chiến, Kiên lại phải đối mặt với những phủ phàng của thời hậu chiến, những
mặt trái của xã hội. Chính nó làm cho anh có một suy nghĩ: “Tại sao lại không viết về
tiểu thuyết về cái cộng đồng kỳ thú những người hàng xóm ở tầng trên, tầng dưới và ở
chung tầng với anh trong ngôi nhà này?” [22; 74]. Những dòng suy tư, những giấc mơ
đứt nối, những hồi tưởng gấp gáp, thật hỗn loạn nhưng dường như nó lại thống nhất
trong một dòng chảy, dòng chảy của nội tâm nhân vật.
Bảo Ninh cũng để nhân vật luân phiên kể chuyện của mình và của nhân vật
khác dù không công khai lộ diện. Tuổi thơ của Kiên đã phải sống trong hoàn cảnh bị
mẹ bỏ rơi để đi tìm hạnh phúc riêng cho mình. Những sang chấn về tuổi thơ đã để lại
những ám ảnh quá lớn trong cuộc đời anh. Và khi đã trưởng thành, anh tâm sự:
“…Còn hơn là một khuyết tật, trong Kiên rõ ràng là có mầm bẩm sinh độc ác, có thói
nhẫn tâm, khô rắn, lạnh lùng. Một sự trống rỗng bất hạnh và tệ mạt. Một lương tri
không lành. Có lẽ anh lớn lên chỉ với nhiều nhất là một phần hai nhân cách” [22;
155]. Anh cũng tự nhủ với mình rằng: “Phải viết thôi! - Viết để quên đi, viết để nhớ
lại. Viết để có một cứu cánh, một niềm cứu rỗi, để mà chịu đựng, để giữ lòng tin, để
mà muốn còn sống” [22; 188]. Qua những dòng độc thoại nội tâm, những quan điểm,
cách nhìn và ước muốn của nhân vật được bộc lộ một cách chân thật và sinh động. Với
điểm nhìn của Kiên, bạn đọc có thể thấy được cái nhìn khốc liệt của chiến tranh, dù
cuộc chiến đã đi qua nhưng những nỗi đau, những mất mát mà nó để lại trong tâm hồn
mỗi con người thì không thể nào bù đắp được.

Lối trần thuật trao điểm nhìn cho nhân vật, nương theo nhân vật để kể thực chất
không mới nhưng lại được Bảo Ninh khéo léo vận dụng, nhờ thế đời sống nhân vật
được soi chiếu từ nhiều phía. Với điểm nhìn bên trong, Bảo Ninh đã dựng nên bức
tranh về thân phận con người, từ sự cô đơn, nỗi dằn vặt, cảm hứng tự thú của con
người trước, trong và sau cuộc chiến mang tính nhân văn sâu sắc. Quan trọng hơn là
tạo cho độc giả, có cơ hội nắm bắt tâm lý nhân vật rõ ràng, có khả năng phân tích được
những động cơ tạo ra hành động của nhân vật để thấu hiểu và cảm thông cho họ nhiều
17


hơn. Có lẽ, trước Bảo Ninh chưa từng, hoặc rất hiếm có một tác phẩm nào viết về đời
sống con người chiến tranh một cách trần trụi nhưng đầy ngậm ngùi, khắc khoải đến
vậy. Ông đắm mình vào không gian khốc liệt đó để khơi dậy, để đánh thức trong lòng
độc giả cái nhìn cảm thông, sẽ chia với nhân vật. Bản thân việc sử dụng điểm nhìn bên
trong đã mang tính mới mẻ, đi ngược lại lối mòn và khẳng định tâm huyết tìm tòi và
đổi mới kỹ thuật tiểu thuyết của Bảo Ninh.
1.2. Giọng điệu trần thuật phức hợp
Văn học là tiếng nói của con người về cuộc đời. Tác phẩm chứa đựng tiếng nói
ấy, nghĩa là đã mang trong đó một hay nhiều giọng điệu. Nó mang tính tổng hợp và
tính cá thể rất cao, đến mức trở thành quy luật ngữ pháp riêng, giọng điệu riêng của
từng người chứ không phải tuân theo quy luật ngữ pháp chung của ngôn ngữ. “Giọng
điệu là một yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả trong tác phẩm. Nếu như trong đời
sống ta thường chỉ nghe giọng nói là nhận ra con người, thì trong văn học cũng vậy.
Giọng điệu giúp nhận ra tác giả” [26; 134] Giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập
trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong
lời văn, quy định cách xưng hô gọi tên, dùng số, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa
gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [22; 134]. Giọng điệu
là cơ sở để phân biệt nhà văn này với nhà văn khác, đồng thời có vai trò rất lớn trong
việc tạo nên phong cách của nhà văn. Khi trần thuật tác giả tạo ra những sắc thái giọng
điệu khác nhau, cái mà M.Bakhtin gọi là “tính đa thanh trong giọng điệu”. Vì vậy, việc

“nghiên cứu là tìm hiểu ngôn ngữ của chủ thể, cách nói của chủ thể về vấn đề được nói
đến và với đối tượng mà lời văn nhắm tới” (Nguyễn Đăng Điệp).
Tuy nhiên, nếu chỉ bám vào những ký hiệu trực tiếp, thì đó chỉ là cuộc tìm kiếm
vô ích trong đại dương mênh mông ngôn từ. Nhà nghiên cứu M.Khravchenko đã từng
chỉ ra hướng tiếp cận tác phẩm rằng: “Tiếp cận hệ thống các ngữ điệu như một gam
ngữ điệu”. Giọng điệu trần thuật trong văn chương cũng xuất phát từ ngôn ngữ, song
có nghĩa rộng hơn, bao hàm cả ngữ cảnh, thái độ, quan niệm, cách ứng xử ..., và được
cá thể hóa, trở thành tài sản riêng của một cá nhân, như giọng điệu riêng của người ấy
trong cuộc đời. Giọng điệu trần thuật có vai trò quan trọng trong tác phẩm văn học.
Thậm chí, có nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng, giọng điệu trần thuật là cơ sở, là
thước đo để đánh giá tài năng của nhà văn. Văn hào của người Nga A.P.Chekhov nói:
“Nếu tác giả nào không có lối nói riêng của mình thì người đó không bao giờ là nhà
văn cả”. Có rất nhiều người trước khi sáng tác đã dự cảm được các sự kiện, tình huống
truyện. Thế nhưng, Khi mà chưa xác định được cho tác phẩm một giọng điệu trần
thuật cụ thể thì vẩn chưa sáng tác được.
Ngay từ những trang đầu tiên của tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh
đã gây chú ý về một lối kể chuyện điềm đạm với sự tham dự nhiều giọng, tạo nên một
18


dàn hợp xướng biến hóa linh hoạt. Sự hòa điệu của các giọng khác nhau tạo nên một
lối kể chuyện nhiều bè và bổ sung những cách nhìn nhận khác nhau về cuộc sống. Tuy
nhiên, có thể nhận thấy giọng buồn thương, day dứt và giọng chiêm nghiệm, suy tư là
hai gam giọng chủ đạo chi phối toàn truyện.
1.2.1. Giọng buồn thương, day dứt
Trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh ta thấy, khát vọng khám
phá chiều sâu cuộc sống con người được ông chú ý. Nhà văn đặt các nhân vật vào
những suy tư, day dứt, dằn vặt, lý giải về những vấn đề cốt lõi mang tính nhân sinh.
Giọng buồn thương, dằn vặt là nơi thể hiện những góc nhìn khác nhau của nhân vật.
Đây đồng thời cũng là gam giọng thường gặp trong tiểu thuyết đương đại nói chung và

trong Nỗi buồn chiến tranh nói riêng. Bởi thông qua tác phẩm, đứa con tinh thần của
nhà văn bao giờ cũng được gửi gắm những thông điệp về cuộc đời của tác giả. Giọng
buồn thương, dằn vặt thường gắn với nội tâm nhân vật được thể hiện chủ yếu qua suy
nghĩ, cách nhìn cuộc đời, và những đối thoại, độc thoại của họ trước hiện thực khắc
nghiệt.
Chiến tranh là cơn chấn động quá lớn để lại những di chứng không có gì xoá
được trong tâm hồn của Bảo Ninh. Nó áp vào nhãn quan của ông một màn sương u
hoài để những gì khúc xạ lại đều bàng bạc một nỗi buồn thương day dứt. Thế giới
nghệ thuật của ông là một bản hoà tấu của những giọng điệu buồn. Ở đó có nỗi buồn
chiến tranh, nỗi buồn tình yêu, nỗi buồn sáng tạo, nỗi buồn thực tại nhân thế. Những
nỗi buồn cất lên từ một tiếng lòng sâu nặng với quá khứ, với nhân sinh. Bởi thế nó
không phải là cái buồn bi quan, tuyệt vọng mà là cái buồn có khả năng thanh lọc con
người, hướng con người đến với chân, thiện, mỹ.
Viết về chiến tranh, về số phận con người, tình yêu trong tâm chấn và dư chấn
chiến tranh, giọng điệu Bảo Ninh đầy xót xa, thương cảm. Bởi hơn ai hết, là người
từng trải nghiệm, ông thấu hiểu cảm giác mất mát, đau đớn khi chứng kiến cái chết
của đồng chí, đồng bào, cảm giác khiếp hãi khi nằm trọn trong tay thần chết, cảm giác
day dứt khi đồng đội dám chết để mình được sống. Nói về chiến tranh, chết chóc, huỷ
diệt người ta thường nói đến cảm giác đau đớn hơn là cảm giác buồn. Bảo Ninh không
nghĩ thế, bởi vì đau rồi sẽ nguôi ngoai, đau rồi sẽ chữa lành, còn buồn thì mãi mãi
đọng lại. Nó mơ hồ nhưng da diết và không thôi day dứt lòng người. Chính nhờ nỗi
buồn đó mà người lính của ông đã “thoát khỏi chiến tranh, thoát khỏi bị chôn vùi
trong cảnh chém giết triền miên, trong cảnh khốn khổ của những tay súng, đầu lê,
những ám ảnh bạo lực và bạo hành” [22; 319] để trở về với hoà bình. Cũng nhờ nỗi
buồn còn đọng mãi đó mà những nhân vật của ông không bị sự quên lãng ăn mòn,
không bị tha hoá trước cuộc đời phồn tạp.
19


Nỗi buồn, sự day dứt luôn gặm nhấm trong tâm hồn của những người sống sót

sau chiến tranh. Giọng buồn thương, day dứt còn được thể hiện qua cuộc đối thoại
giữa người lái xe và Kiên:
“Hay đếch gì! Buồn lắm. Thương lắm. Ai oán. Dưới mồ sâu đâu còn là người.
Nhìn nhau hiểu nhau mà không làm được gì cho nhau.
- Giá có cách gì thông tin cho họ biết là đã thắng lợi cho họ an lòng nhỉ?
- Ôi giời! Có nói được thì cũng nói làm gì cơ. Dưới âm ti người ta cũng chẳng
nhớ tới chiến tranh nữa đâu. Chém giết là sự nghiệp của những người đang sống.
- Nhưng dù sao thì cũng đã hòa bình. Giá mà giờ phút hòa bình là giờ phút
phục sinh cho tất cả những người chết trận nhỉ.” [22; 52]
Nhân vật thể hiện rõ nhất giọng buồn thương, day dứt chính là Kiên với những
đoạn độc thoại nội tâm dai dẳng khi nhớ về đồng đội, khi chia tay từ biệt hương hồn
Thịnh: “ từ lòng sâu đất ẩm xin bạn thân yêu hãy nghe thấu lời anh em vĩnh biệt. Xin
hãy chứng giám và phù hộ cho anh em tung hoành trong đồn bốt quân địch hoàn
thành nhiệm vụ. Xin hãy lắng nge tiếng súng anh em rửa thù cho bạn rồi đây sẽ rung
chuyển đất trời...” [22; 57].
Kiên mang đầy mặc cảm tội lỗi bởi những quyết định sai lầm, Kiên đã không
quyết liệt ngăn Can và khuyên bảo Can khi đồng đội của anh đã tâm sự rất chân thành:
“Can đưa bàn tay lạnh ngắt móp nước nắm lấy cổ tay Kiên. Hồi lâu. Kiên gạt tay Can
ra và quay lưng bỏ đi không nói một lời” [22; 30]. Và rồi, là hậu quả cái chết thương
tâm của Can - người đã vào sinh ra tử cùng anh, người đáng được sống hơn bao người
khác trên đời. Theo Kiên cái chết của Can có một phần lớn trách nhiệm của anh. Do
vậy mặc cảm tội lỗi đã giày vò ám ảnh Kiên hàng ngày và ngay cả trong những giấc
mơ “Kiên không sao gột hẳn Can ra khỏi tâm trí. Đêm đêm, anh nghe thấy Can trở về
thì thầm ngay bên võng, lặp đi lặp lại cuộc trò chuyện nhạt nhẽo ở bờ suối chiều hôm
nào. Tiếng thì thào chuyển dần thành tiếng nức nở, thành tiếng nấc nghẹn y như là
tiếng nước sặc lên trong họng kẻ sắp sửa chết chìm” [22, 32].
Giọng day dứt, giằng xé nội tâm còn được thể hiện rõ khi Kiên ngồi trên bàn
viết: “Nhiều đêm ngồi trên bàn viết anh miệt mài theo đuổi một ý tưởng nào đó, bám
nó theo thừng dòng từng trang, vật vã với nó, dằn vặt đầu óc bởi nó, để rồi rốt cuộc
chợt nhận thấy rằng hóa ra là nói chung mình chẳng có một ý tưởng nào cả… Anh viết

dường như chỉ để mà hủy. Nỗi xót xa tiếc rẻ công sức và tâm lực bị phí hoài cùng nỗi
lo sợ mãi mãi giẫm chân tại chỗ không thắng nỗi bệnh cầu toàn đầy oan nghiệt. Gạch,
xóa, gạch, xóa và xé, xé sạch rồi lại cặm cụi viết, nhích dần từng chữ như một gã i tờ
đang đọc đánh vần” [22; 61- 62].
Trong Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã dành cho nhân vật của mình những
20


danh xưng trừu mến, lúc thì ông gọi băng tên: Kiên, Phương...lúc thì ông gọi anh, cô...
chứ không phải là hắn, y, thị... Cách xưng hô tạo cảm giác yêu thương trân trọng nhân
vật dù cho đó có thể là người lính phía bên kia chiến tuyến. Giọng buồn thương day
dứt hiện lên qua những dòng tâm trạng của nhân vật khi nghĩ về những đồng đội:
“Dưới lòng sâu đất ấm của đại ngàn họ chung nhau một số phận. Không người vinh
kẻ nhục, không người hùng kẻ nhát, không có người đáng sống và kẻ đáng chết. Chỉ có
người tên tuổi còn đó, người thì thời gian đã xoá mất rồi và người thì còn chút xương,
người chỉ đọng chút bùn lỏng” [22; 33].
Điều dễ nhận thấy trong những sáng tác của Bảo Ninh là các câu chuyện được
kể đều là chuyện buồn. Mà đã là chuyện buồn thì không thể nào kể bằng giọng hồ hởi,
náo nức hay say mê được. Vì thế, giọng văn của Bảo Ninh cứ nhẹ nhàng, da diết như
thủ thỉ, tỉ tê, day dứt thấm sâu vào lòng người. Giọng buồn thương, day dứt đã phả vào
trong trang viết của Bảo Ninh những dòng cảm xúc thấm đẫm, ấm áp đến nao lòng để
rồi từ đó nó đánh thức lương tri, đánh thức lòng khoan dung, trắc ẩn của con người.
Chính giọng điệu này đã mang lại cho Nỗi buồn chiến tranh một âm sắc mới. Tạo nên
sự day dứt, khắc khoải, ngậm ngùi trong tiếp nhận.
1.2.2. Giọng chiêm nghiệm, suy tư
Trong quá trình sáng tác, mỗi nhà văn đều phải trăn trở để tìm ra giọng điệu
nghệ thuật cho tác phẩm của mình. Hơn nữa, ở mỗi tác phẩm văn chương, giọng điệu
chính là “một hiện tượng nghệ thuật toát ra từ bản thân tác phẩm và mang một nội hàm
tư tưởng thẩm mỹ” (Trần Đình Sử). Ngoài ra nó còn thể hiện thái độ tình cảm của nhà
văn. Hơn hết lời nhân vật chính là lời của nhà văn, mà nhà văn trao cho nhân vật

chính.
Trong cuộc sống, Bảo Ninh là người thích quan sát, lắng nghe và suy ngẫm.
Trong sáng tác, Bảo Ninh không làm công việc mô tả hiện thực mà là nghiền ngẫm
hiện thực. Những điều đó đã làm nên giọng điệu buồn thương day dứt hay là giọng
chiêm nghiệm, suy tư. Đây là giọng điệu của người từng trải nghiệm cuộc sống, trăn
trở với cuộc sống, suy nghĩ sâu lắng và thường xem xét ngẫm nghĩ, đoán biết. Trong
tiểu thuyết, giọng điệu này thường đi với dòng độc thoại nội tâm của nhân vật, nó
thường biểu thị bằng những câu văn suy tưởng triết lý, cũng có khi hoà vào trong
chính chủ đề của câu chuyện mà nhà văn đề cập.
Trong tác phẩm, hành trình sáng tạo của Kiên là hành trình trải nghiệm lại cuộc
đời đã qua, cũng là hành trình chiêm nghiệm, suy tư về lẽ sống, vinh nhục, về chiến
tranh, về hoà bình, về tình yêu, về nghệ thuật... Sau mỗi biến cố, bao giờ Kiên cũng có
những đúc rút triết lí. Trước sự huỷ diệt cuả chiến tranh, Kiên nhận thấy: “Chiến tranh
là cõi không nhà không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn
21


ông, không đàn bà, là thế giới bạt sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng
giống con người” [22; 39 - 40]. Nghĩ về hoà bình, Kiên chua chát: “Hoà bình chẳng
qua là thứ cây mọc lên từ máu thịt của bao anh em mình, để chừa lại có chút xương.”
[22; 52].
Sau những gì đã trải qua Kiên ngậm ngùi: “Thì ra cuộc đời tôi kỳ thực có khác
nào con thuyền bơi ngược dòng sông không ngừng bị đẩy lui về dĩ vãng. Đối với tôi
tương lai đã nằm lại ở phía xa kia rồi. Và không phải là cuộc sống mới, thời đại mới,
không phải là những hi vọng về tương lai tốt đẹp đã cứu giúp tôi mà trái lại những
tấm thảm kịch của quá khứ đã nâng đỡ tâm hồn tôi, tạo sức mạnh tinh thần cho tôi
thoát khỏi những tấn trò đời hôm nay. Chút lòng tin và lòng ham sống còn lại không
phải là những ảo tưởng mà là nhờ sức mạnh của những hồi tưởng” [22; 59].
Trong tác phẩm, sau câu chuyện về cuộc đời của Kiên, nhà văn cũng có những
suy tư, chiêm nghiệm về nỗi buồn chiến tranh: “Nỗi buồn chiến tranh mênh mang, nỗi

buồn cao cả, cao hơn hạnh phúc và vượt trên đau khổ. Chính nhờ nỗi buồn mà chúng
tôi đã thoát ra khỏi chiến tranh, thoát khỏi bị chôn vùi trong cảnh chém giết triền
miên, trong cảnh khốn khổ của những tay súng, những đầu lê, những ám ảnh của bạo
lực và bạo hành, để bước trở lại con đường riêng của mỗi cuộc đời có lẽ chẳng sung
sướng gì và cũng đầy tội lỗi, nhưng cũng là cuộc đời đẹp đẽ nhất mà chúng tôi có thể
hi vọng, bởi đấy là đời sống hòa bình” [22; 319]... Sự xuất hiện dày đặc của những
suy ngẫm triết lý như thế đã tạo nên chiều sâu tư tưởng cho Nỗi buồn chiến tranh.
Những điều Bảo Ninh chiêm nghiệm, đúc rút không phải là có cái gì đó cao siêu, xa
vời. Nó đơn giản chỉ là những hiện tượng, những quy luật tự nhiên của cuộc đời mà ai
cũng có thể nhận thấy nhưng không phải ai cũng có thể khái quát. Giọng điệu chiêm
nghiệm, suy tư đã tỏ ra khá phù hợp với thiên hướng đi sâu vào những vùng khuất lấp
mờ tối của chiến tranh và hậu chiến để phát hiện và ngẫm ngợi của Bảo Ninh. Với
giọng điệu này, Bảo Ninh tỏ ra là cây bút già dặn, sắc sảo trên từng trang viết và tác
phẩm của ông vì thế mà cũng ý vị, sâu lắng hơn, đạt đến chiều sâu triết học.
Sự thay đổi linh hoạt các sắc thái giọng điệu khác nhau cũng là một thành công
của Bảo Ninh, đan xen bên cạnh các giọng điệu chủ đạo trên, ở các chương đoạn khác,
còn có giọng điệu trữ tình, sâu lắng và xót xa thương cảm sâu sắc. Ngôn ngữ rất gần
gũi, những lời văn như được thốt ra từ cõi lòng sâu thẳm của nhân vật. Nhà văn đã để
cho lời kể của nhân vật tự thể hiện nỗi lòng và trải nghiệm, khiến sắc thái trữ tình càng
thiết tha, sâu lắng.
Mọi sự vật, hiện tượng, mọi biến cố thăng trầm trong cuộc đời nhân vật bao giờ
cũng được nhìn từ nhiều phía, mỗi giọng điệu vang lên bày tỏ một thái độ, một cách
nhìn nhận, một quan điểm riêng. Với việc sử dụng nhiều giọng điệu trong tác phẩm,
tác giả tạo được sự linh hoạt, hấp dẫn trong trần thuật. Cũng một lúc có thể khơi gợi
22


nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau nơi người đọc. Sắc thái giọng điệu trong Nỗi buồn
chiến tranh không tồn tại riêng lẻ, độc lập mà có sự đan xen, hòa điệu với nhau tạo nên
tính đa thanh cho tác phẩm, thể hiện cái nhìn đa chiều đối với hiện thực. Mỗi câu

chuyện là một bè riêng nhưng lại hướng đến bản hợp ca về thành công và thất bại của
con người sau cuộc chiến.
Cuộc sống vốn đa sự mà nhà văn lại đa đoan. Chính sự đa đoan đã mang đến
cho Bảo Ninh những trải nghiệm sâu sắc với cuộc đời để từ đó chắp bút cho những
cảm xúc và suy tư sâu lắng chảy tràn trên trang viết làm nên sắc thái giọng điệu chủ
đạo là buồn thương, day dứt và chiêm nghiệm, suy tư. Nếu giọng điệu buồn thương,
day dứt làm nên vẻ đẹp nhân văn thì giọng điệu chiêm nghiệm, suy tư lại mang đến
cho tác phẩm của ông chiều sâu tư tưởng và giá trị phổ quát. Sự hoà kết của hai sắc
thái giọng điệu này đã tạo nên sức hút cho tác phẩm và dấu ấn phong cách riêng của
Bảo Ninh.
*
*

*

Bảo Ninh là một nhà văn đương đại Việt Nam, tài năng và giàu trải nghiệm,
ông đã tạo dựng được những thành công trong thể loại tiểu thuyết, đặc biệt ở phương
thức trần thuật. Sự kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố trần thuật từ ngôi kể, điểm nhìn,
giọng điệu đã giúp nhà văn tái hiện một cách chân thực đời sống và con người trước,
trong và sau chiến tranh. Qua những trang văn của Bảo Ninh, thế giới tâm hồn con
người với tất cả sự phong phú, đa dạng và phức tạp hiện lên thật sinh động, đa chiều.

23


Chương 2
HỆ THỐNG VÀ PHƯƠNG THỨC XÂY DỰNG NHÂN VẬT
TRONG TIỂU THUYẾT NỖI BUỒN CHIẾN TRANH
Nhân vật không chỉ thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm mà còn thể hiện
quan điểm nghệ thuật về con người của nhà văn ở những thời điểm lịch sử nhất định.

Thông qua nhân vật nhà văn khái quát những quy luật của cuộc sống, con người thể
hiện những hiểu biết, ao ước và kỳ vọng về con người. Trong cuộc đời cầm bút của
mình, Bảo Ninh đã khắc họa nhiều hình tượng nhân vật độc đáo. Các nhân vật của ông
từ trang sách đã bước ra khỏi cuộc đời và sống trong lòng nhiều thế hệ độc giả.
2.1. Các kiểu con người đặc trưng trước, trong và sau cuộc chiến
Đối tượng chung của văn học là cuộc đời, trong đó con người luôn giữ vị trí
trung tâm. Những sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những bức tranh thiên nhiên,
những lời bình luận ... đều góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng cho tác phẩm,
nhưng cái quyết định chất lượng tác phẩm văn học chính là việc khắc họa chân dung
nhân vật. Đọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn người tiếp nhận
thường là những cảm xúc, suy tư về thân phận con người trong đó.
Số phận con người trước, trong và sau cuộc chiến là cội nguồn cho mọi cảm
hứng sáng tạo của Bảo Ninh. Những kiểu nhân vật mà ông lựa chọn để đem vào tác
phẩm thường được xây dựng trong môi trường chiến tranh gắn với những tưởng thời
đại, những mặc cảm về tội lỗi hay là những ám ảnh về những sang chấn tinh thần.
2.1.1. Con người với lý tưởng thời đại
Sau năm 1986, văn học đã tiếp cận con người ở góc độ đời tư, cá thể. Mỗi
người là một thế giới riêng, một số phận riêng. Chiến tranh, vì thế cũng được nhận
thức lại từ sự tác động ghê gớm của nó đến tính cách và số phận con người. Trên tinh
thần đó, Bảo Ninh hướng ngòi bút của mình vào góc khuất của chiến tranh, viết về nó
dưới góc nhìn hoàn toàn mới, góc nhìn từ thân phận con người. Các trang viết của ông
man mác một nỗi buồn nhân bản gắn với thân phận con người bị buộc vào cái trục
chiến tranh và bị cuốn theo vòng xoáy của nó. Nói đến chiến tranh là nói đến cơn lốc
huỷ diệt. Nó cuốn theo hàng vạn sinh linh, hất tung họ ra khỏi cuộc đời bình thường
mà nạn nhân đầu tiên là những người lính. Trên trang viết, Bảo Ninh đặc biệt quan tâm
tới số phận của họ. Với cái nhìn của một người trải nghiệm, ông cay đắng nhận ra
rằng, người lính là phận con sâu cái kiến, bị buộc phải cõng chiến tranh trên lưng. Còn
chiến tranh thì không ngừng tàn sát huỷ hoại họ cả nhân hình và có sức ám ảnh mạnh
mẽ đến nhân tính. Viết về số phận người lính trong chiến tranh, Bảo Ninh không dừng
lại ở việc người lính bị huỷ hoại sự sống, nhân hình. Cái ông muốn xoáy sâu chính là

sự ám ảnh mạnh mẽ tâm hồn, nhân tính. Đây là điểm mới trong ngòi bút của Bảo Ninh
24


ngay ở thời điểm ông xuất hiện trên văn đàn. Ông luôn trăn trở về vấn đề sự ám ảnh
nhân tính của người lính trước sự huỷ diệt trong chiến tranh. Trong Nỗi buồn chiến
tranh rất nhiều lần Bảo Ninh đã để cho nhân vật của mình đưa ra những cảnh báo về
nhân tính. Trước khi bước vào cuộc chiến, đa phần người lính là những thanh niên
mười tám, đôi mươi, tâm hồn trẻ trung phơi phới. Sau ba tháng huấn luyện chiến sỹ
mới, họ được ấn vào tay súng đạn và chính thức bước vào chiến trường làm cái công
việc bất khả kháng là chém giết, dù những cuộc chém giết kinh hoàng đó là phục vụ
cho sự sinh tồn của quê hương đất nước. Họ phải đổ máu, họ phải hi sinh dể dành
chiến thắng, để chiến tranh chấm dứt, được trở về với cuộc sống bình yên. Thế nhưng,
chiến thắng tiếp nối chiến thắng mà đường chiến tranh vẫn mịt mù thăm thẳm, hoà
bình thì chỉ đến trong giấc mơ! Tâm hồn họ thì cứ xơ cứng dần theo thời gian cùng
đạn bom, máu lửa và cái chết. Một phần trong số họ bắt đầu nảy sinh tâm lí hoài nghi,
chán nản, ấm ức, bực bội, mâu thuẫn không sao giải toả nổi. Cảnh chết chóc, chém
giết, máu lửa, đói khổ, bệnh tật luôn ám ảnh khiến họ rơi vào trạng thái sống lẫn lộn
giữa thực tại và ảo giác. Họ thấy lo sợ cho nhân tính của mình. Bảo Ninh đã tái hiện
những cảnh đời thực của người lính chiến đấu. Ông muốn phơi bày tận cùng nỗi đau
khổ mà người lính phải gánh chịu, đồng thời nói lên sự khốc liệt sau ánh hào quang
của chiến thắng.
Đọc tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, người đọc có thể thấy rõ
con người gắn với lý tưởng thời đại đó là nhân vật Kiên. Kiên là một chàng trai chính
gốc Hà Nội, bố là hoạ sỹ đã ly hôn với mẹ. Anh có một mối tình với Phương - người
bạn gái học cùng lớp hồi cấp ba. Kiên thuộc lớp thanh niên lớn lên trong hoàn cảnh
chiến tranh. Sau khi cha mất (1965), Kiên nhập ngũ khi tròn 17 tuổi. Mang theo trái
tim nhiệt tình cách mạng, Kiên dấn thân vào cuộc chiến tranh sinh tử với lý tưởng giải
phóng đất nước. Lý tưởng đó đã theo Kiên trong suốt quá trình chiến đấu và nó đã cho
anh có những suy nghĩ, những tình cảm tốt đẹp, chân thành về đồng đội, về những con

người làm nên chiến thắng. Mặc dù rất yêu Phương, nhưng khi Phương bị cưỡng hiếp,
anh đã bỏ mặc Phương để đi theo tiếng gọi lí tưởng của đời mình là chiến đấu bảo vệ
tổ quốc. Kiên lúc này là hiện thân cho lí tưởng thời đại, một con người của cộng đồng,
theo cách đánh giá của Phương, khi hai người tình tứ lãng mạn, khi khói lửa chiến
tranh chưa chạm đến họ: “Anh say mê cuộc chiến đến đứng ngồi không yên. Anh
không yêu mẹ, không yêu cha, không yêu tình yêu của em. Anh khăng khăng: tôi đi
chiến đấu, tôi là con người trung thực, tôi trong sạch và tôi không muốn em bị nhơ
nhuốc” [22; 136].
Lý tưởng của Kiên là lý tưởng của thời đại lúc bấy giờ. Khi Tổ quốc lâm nguy,
vì độc lập tự do của Tổ quốc, lớp lớp thanh niên lên đường “Quyết tử cho Tổ quốc
quyết sinh”. Đúng như hai câu thơ trong bài thơ “Tiếng hát sang xuân” của Tố Hữu:
25


×