Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Đề tài: Tìm hiểu một số điểm tương đồng của Phật giáo với truyền thống dân tộc Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.85 KB, 22 trang )

Học viện Báo chí và Tuyên truyền
PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, trong đó có những tôn giáo lớn 
của thế  giới  như: Phật giáo, Kitô giáo, Hồi Giáo… Các tôn giáo đã có 
những  ảnh hưởng nhất định tới nền văn hóa của dân tộc. Các tôn giáo từ 
nước ngoài du nhập vào Việt Nam muốn tồn tại và phát triển được đều 
phải có những sự  biến đổi nhất định để  phù hợp với điều kiện lịch sử, 
hoàn cảnh đời sống, phong tục của người Việt. Phật giáo là tôn giáo đã du 
nhập vào Việt Nam ngay từ  những năm đầu Công nguyên. Trải qua hàng 
ngàn năm tồn tại trên đất nước Việt Nam, Phật giáo đã có những bước 
thăng trầm cùng lịch sử  dân tộc. Phật giáo Việt Nam đã có những  ảnh 
hưởng to lớn đến tinh thần, tâm lý, đời sống của người Việt Nam. Tinh 
thần Phật giáo dường  như  đã gắn liền với truyền thống dân tộc. So với  
Phật giáo trước khi du nhập và thời gian đầu tồn tại  ở Việt Nam thì Phật 
giáo hiện nay đã có nhiều sự  biến đổi. Nó đã trở  thành một thứ  tôn giáo 
Phật giáo mang bản sắc của Việt Nam, trở thành Phật giáo Việt Nam. Sự 
hòa nhịp đồng điệu của Phật giáo với truyền thống dân tộc đã góp phần 
làm đặc sắc nền văn hóa dân tộc, đồng thời có những đóng góp vào việc 
phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc khi đất nước bước vào thời kì 
đổi mới. Đã có rất nhiều công trình khoa học về tôn giáo nói chung và vấn 
đề Phật giáo Việt Nam nói riêng do những nhà nghiên cứu lịch sử, tôn giáo 
lâu năm thực hiện, trở thành những tư liệu rất có giá trị với đất nước. Tiểu 
luận này về đề tài “Tìm hiểu một số điểm tương đồng của Phật giáo với  
truyền thống dân tộc Việt Nam”  được viết với mục đích làm phong phú 
nguồn tài liệu về  tôn giáo, tạo thuận lợi cho sự  nghiên cứu  sâu hơn trong 
tương lai.
II. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Tiểu luận sẽ  khái quát lịch sử  Phật giáo Việt Nam từ  khi du nhập  



a 1 
a


cho tới ngày nay, tìm hiểu những  điểm  tương đồng của Đạo Phật với 
truyền thống của dân tộc Việt Nam để qua đó giúp chúng ta thấy được sự 
gần gũi của Phật giáo với dân tộc, thấy được sự tác động qua lại của tinh 
thần Phật giáo với tinh thần dân tộc, tạo nên tôn giáo Phật giáo mang bản 
sắc dân tộc Việt Nam.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nội dung tiểu luận nghiên cứu về  một vấn đề  vừa có tính lịch sử, 
lại vừa mang giá trị thời đại nên trong quá trình thực hiện đề tài người thực 
hiện đã có sự kết hợp của nhiều phương pháp khác nhau: phương pháp hệ 
thống, phương pháp logic ­ lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, so 
sánh… nhằm mang lại hiệu quả nghiên cứu cao nhất.
IV. CẤU TRÚC TIỂU LUẬN

Tiểu luận gồm 3 phần chính:
Phần mở đầu: 

­ Lý do chọn đề tài
­ Nhiệm vụ nghiên cứu
­ Phương pháp nghiên cứu
­ Cấu trúc tiểu luận

Phần nội dung: 

­ Chương I: Khái quát lịch sử Phật giáo Việt Nam

­ Chương II: Một số điểm tương đồng của Phật giáo 
với truyền thống dân tộc Việt Nam

Phần kết luận: 

­ Tổng hợp, kết luận vấn đề đã trình bày.

Ngoài ra Tiểu luận còn có danh mục các tài liệu tham khảo.

2


Học viện Báo chí và Tuyên truyền

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT 
NAM
I. SỰ DU NHẬP CỦA PHẬT GIÁO VÀO VIỆT NAM

Người sáng lập ra Phật giáo là Thái tử Cồ đàm Tất­đạt­đa, vào cuối 
thế   kỷ   VI   ­   TCN.   Ông   là   con   vua   Souddhodana   ở   tiểu   vương   quốc 
Kapilavaxtu nay thuộc Nêpan gần núi Hymalaya. Sau khi ra đời, Phật giáo 
đã thể  hiện được những giá trị  của mình và  đã  được truyền bá rộng rãi 
sang các nước khác, trong đó có Việt Nam. 
Theo các tài liệu phát hiện được cho tới ngày nay, Phật giáo được 
truyền trực tiếp vào Việt Nam từ Ấn Độ. Sử sách cổ của Trung Hoa có ghi 
rằng  ở  thế  kỷ  thứ II (sau công nguyên) tồn tại một trung tâm Phật giáo là 
Luy Lâu thuộc quận Giao Chỉ (lãnh thổ  Việt Nam thuộc phương Bắc thời 
gian đó). Cuối thế  kỉ  thứ II, trung tâm Phật giáo này phát triển rất rực rỡ. 
Điều đó chứng tỏ Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm. Trong quá 

trình buôn bán của các tàu buôn Ấn Độ qua vùng đất Giao Chỉ, các chủ tàu 
buôn đã mang theo văn hóa của người  Ấn Độ  như  những sinh hoạt tín 
ngưỡng, lễ nghi. Đồng thời, những tăng sĩ mà các thương nhân đem theo 
trên thuyền buôn nhằm làm công việc cầu khấn sự phù trợ  của đức Phật, 
là những người đã trực tiếp truyền bá Phật giáo và lập nên trung tâm Phật  

a 3 
a


giáo Luy Lâu. Phật giáo rất phù hợp với tín ngưỡng dân gian của người 
Việt khi đó cho nên dường như nó không gặp trở ngại nào khi du nhập vào 
Việt Nam, thậm chí nó đã phát triển dễ dàng và nhanh chóng. Thời kỳ này 
cư dân Giao Chỉ vốn đã có những tín ngưỡng của riêng mình. Họ coi trời là 
đấng tối cao, biết rõ mọi việc, người hiền kẻ  ác dưới trần gian, có thể 
giúp người tốt, trừng phạt kẻ  xấu. Bên cạnh đó, họ  cũng thờ  các vị  thần 
như Sơn thần, Thủy thần…, họ tin vào nguồn gốc Con rồng cháu tiên của 
mình… Những tín ngưỡng đó có nhiều điểm phù hợp với Phật giáo nên 
Phật giáo được tiếp nhận một cách khá thuận lợi.  Người Giao Chỉ  xưa 
quan niệm Phật như  là một vị  Bụt (xuất phát từ  “Buddha”), có phép thần 
thông, có lòng thương người, có thể  hiện ra dưới nhiều hình thức để  cứu 
người, giúp đời. Họ cũng bắt đầu có những quan niệm đầu tiên về nghiệp 
báo, luân hồi, linh hồn bất diệt. Quan niệm về Tăng khi đó chỉ dừng lại ở 
tăng môn, chưa phải tăng đoàn. Đó là những tu sĩ khoác áo vàng. Đầu cạo 
trọc, rời bỏ gia đình, của cải, thờ Bụt, đọc kinh Phạn. Người ta cũng quan 
niệm về  từ  bi, về công đức. Làm công đức cho kiếp sau được tốt đẹp là 
dâng thức ăn cho tăng môn, bố  thí cho người nghèo khó. Quan niệm tiết 
dục cũng là  ở  chỗ  bỏ  bớt những hưởng thụ cho riêng mình, để cho người 
khốn khó. 
Sau đó, các tăng đoàn hình thành, các nghi lễ đã có tổ chức, các tăng 

sĩ bắt đầu dịch kinh, sáng tác, chùa chiền cũng đã được xây cất. Niết bàn 
đã là mục đích của người xuất gia. Luân hồi và nghiệp báo vẫn tiếp tục 
tồn tại trong tín ngưỡng dân gian. Quan niệm vô ngã đã được nói đến trong 
Tứ thập nhị chương, nhưng chưa phổ biến lắm trong trong dân gian, có lẽ 
vì bị xem như mâu thuẫn với quan niệm linh hồn bất tử. Tuy vấp phải sự 
cản trở từ phía phương Bắc đang ra đẩy mạnh việc truyền bá văn hóa Hán 
nhưng Phật giáo vẫn có những bước phát triển đều đặn.
Sang thế  kỷ  III, Phật giáo vẫn tiếp tục tự  phát triển mạnh mẽ, với 
sự  xuất hiện của Tăng Hội (? ­ 280) và tư  tưởng thiền của ông. Nhưng 
4


Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Phật giáo từ phương Bắc, cho dù có hình thành những trung tâm muộn hơn, 
cũng đã bắt đầu có ảnh hưởng trở lại lên Phật giáo Giao Chỉ. Sử sách cũng 
ghi nhận rằng trong thế kỷ này, các kinh sách về thiền đã được đem từ Lạc 
Dương xuống, và Tăng Hội cũng là một người đã học tập, lĩnh hội được tư 
tưởng   Phật   giáo   Đại   thừa   Trung   Hoa.  Đại   thừa   (Mahayana)   hoàn   toàn 
không  xa rời  Phật  pháp,  nhưng  về   chủ  trương,  nó  khác  với  Tiểu thừa 
(Hinayana) vốn xuất phát từ Phật giáo Nguyên thủy (Thérévada). Đại thừa 
không cố  chấp vào kinh điển, trong khi Tiểu thừa thì phải nhất nhất bám 
sát vào đó. Đại thừa chủ trương “tự  giác” và “giác tha”, tức giác ngộ  cho 
chính mình và cho người khác, trong khi Tiểu thừa chỉ nhắm vào việc giác 
ngộ cho bản thân. Tiểu thừa chỉ thờ một Phật Thích Ca và bậc tu cao nhất 
là đến La Hán. Đối với Đại thừa, họ thờ nhiều Phật, và bậc tu cao nhất lên 
đến Bồ Tát. Có thể nói những quan niệm, chủ trương của Đại thừa ­ một 
trong những tông phái lớn nhất của Phật giáo (một tông phái lớn khác là 
Kim Cang thừa) có xuất phát điểm từ Trung Hoa, đã có một sự thâm nhập 
mạnh mẽ xuống phương Nam kể từ thế kỷ thứ ba trở đi, để lại những dấu 
ấn phổ biến trong sinh hoạt Phật giáo, cũng như trong tín ngưỡng dân gian. 

Sự thâm nhập của Phật giáo phương Bắc sau đó còn được thể hiện ở việc 
các thiền sư  lớn, những người sáng lập ra những thiền phái có vị  trí lớn 
trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, đều ít nhiều có liên hệ  và tiếp thu Phật 
giáo Trung Hoa.
Sự  du nhập của Phật giáo vào Việt Nam được cho là hoàn tất vào 
thế  kỉ  X. Phật giáo Việt Nam đã có những nền tảng vững chắc để  phát 
triển rực rỡ trong giai đoạn sau này.
II. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ  PHẬT GIÁO VIỆT NAM TỪ  THẾ  KỶ  X CHO 
ĐẾN NGÀY NAY

1. Phật giáo Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XVI

a 5 
a


Đây được coi là giai đoạn Phật giáo Việt Nam phát triển mạnh, và 
rực rỡ nhất là dưới triều đại nhà Lý và nhà Trần.
Sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán (năm 938), chấm dứt 
một ngàn năm Bắc thuộc, mở  ra kỷ  nguyên độc lập, tự  chủ  cho dân tộc 
Việt Nam, Phật giáo có những điều kiện hết sức thuận lợi để  mở  rộng, 
phát triển.
Triều đại nhà Đinh, lần đầu tiên trong lịch sử  Việt  Nam, vua Đinh 
Tiên Hoàng lập chức Tăng thống Phật giáo (đứng đầu Giáo hội) và  đặt 
chức quan Tăng lục, điều này chứng tỏ thời bấy giờ đã có nhiều tăng sĩ và 
nhiều cư sĩ. Chùa chiền được xây dựng nhiều, kinh sách được thỉnh về khá 
đầy đủ. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư  ghi: “Năm thái bình thứ  hai (971), bắt 
đầu quy định cấp bậc văn, võ, tăng đạo... Tăng thống Ngô Chân Lưu được  
ban hiệu là Khuông Việt đại sư, Trương Ma Ni làm Tăng lục ...”. Đại sư 
Ngô Chân Lưu là tăng tài xuất chúng đã phò tá vua Đinh, khuông phò nước 

Việt. Sau đó, Đại sư tiếp tục phò tá vua Lê Đại Hành. 
Đời Lý được đánh dấu bằng sự kiện vua Lý Thái Tổ lên ngôi, dời đô 
từ Hoa Lư  về Thăng Long. Người có công lớn trong việc này là thiền sư 
Vạn Hạnh, ông là vị sư có tài đa văn, quảng kiến, một lòng vì nước. Hình 
ảnh của quốc sư  Vạn Hạnh là hình  ảnh tiêu biểu nhất về  những gì mà 
Phật giáo Việt Nam và một tu sĩ Phật Giáo Việt Nam có thể đóng góp cho 
dân tộc Việt Nam. Ngay sau khi dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, vua Lý 
Thái Tổ đã sai người đi thỉnh đại tạng kinh từ  Trung Quốc, cho xây dựng 
hàng   loạt   ngôi   chùa   tại   kinh   đô,   trong   và   ngoài   thành   như   chùa   Hưng 
Phước, Thắng Nghiêm; năm sau (1011) lại sai dựng các chùa Vạn Tuế, Tứ 
đại Thiên Vương, Cẩm Y, Long Hưng Thánh Thọ, và nhiều đài kinh các. 
Năm 1024 lại dựng chùa Chân Giáo ngay tại nội thành để làm nơi tu tập, 
tụng kinh bái sám của nhà vua. Đặc biệt, nhà vua cổ  xúy hàng thanh niên 
ưu tú Thăng Long xuất gia với mục đích không chỉ  là do mộ  Phật, đáp 
nghĩa các sư, mà động cơ  chính là mục tiêu chính trị, văn hóa.  Phật giáo 
6


Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Việt Nam tạo nên nét văn hóa Đại Việt độc lập với văn hóa phương Bắc 
(vốn nặng màu Khổng, Lão), vừa góp phần cô kết lòng dân, nuôi dưỡng 
tinh thần tự chủ, độc lập, tự cường của dân tộc (giáo lý Phật giáo đề cao 
tự chủ, trừ bỏ nô lệ). Thời vua Lý Thái Tông (ở ngôi 1028 ­ 1054), nhà vua 
đã phát tâm xây dựng hàng trăm ngôi chùa, trong đó đặc biệt là chùa Diên 
Hựu (dựng năm 1049) ngay giữa kinh đô Thăng Long (tức chùa Một Cột tại 
Hà Nội ngày nay) và hình  ảnh của nó đã  đi vào lòng mọi người trên thế 
giới, trở thành một biểu tượng cho đất nước Việt Nam. 
Dưới triều Lý, bên cạnh các dòng thiền ra đời trước đó vẫn tồn tại thì cũng 
đánh dấu sự ra đời của dòng thiền Thảo đường, với sự xuất hiện của các 
thế hệ truyền thừa chính thức không phải là giới xuất gia như trước mà đa 

phần là cư sĩ. Đây là một đặc điểm nổi bật của Phật giáo trong tình hình 
phát triển mới của dân tộc.
Bởi lẽ, Phật giáo nếu thực sự đi vào đời thì không chỉ giới hạn trong 
giới Tăng sĩ, mà cần phải phổ biến trong giới tại gia cư sĩ. Điểm nổi bật 
của dòng thiền này là lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, vai trò 
của giới cư sĩ được khẳng định một cách chính thức, phù hợp với yêu cầu  
phát triển mới của dân tộc, của việc đưa đạo vào đời, nhằm định hướng 
cho đời sống tâm linh, văn hóa của dân tộc. Chủ  trương này được phát 
triển mạnh mẽ vào đời Trần, với đỉnh cao là tư  tưởng "cư  trần lạc đạo" 
của nhà vua­thiền sư Trần Nhân Tông. 
Năm 1226, Trần Cảnh (1218 ­ 1277) được đưa lên làm vua lấy hiệu là 
Thái Tông, mở ra một triều đại mới là nhà Trần. Tuy nhiên, sự thay đổi đó 
không làm ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần của dân tộc, mà về cơ 
bản, đặc biệt là Phật giáo, vẫn tiếp tục phát triển với nền tảng của thời 
đại trước cho đến thời vua Trần Nhân Tông mới thực sự chuyển biến một  
cách rõ rệt. Vua Trần Nhân Tông là người lập ra dòng thiền Trúc Lâm Yên 
Tử.  Tư  tưởng của dòng thiền Trúc Lâm là phát triển đỉnh cao của quan 
niệm "Tức tâm tức Phật". Những đặc điểm của phương pháp tu hành  ở 

a 7 
a


dòng Thiền này, nó không thuần túy pháp môn Thiền định mà bao gồm cả 
yếu tố  Tịnh độ. Theo tư tưởng của Trúc Lâm đầu đà thì những pháp môn 
Tịnh độ  cũng chính là Thiền. Đây có thể nói là đặc điểm của Thiền tông 
Việt Nam. Phật giáo ở đời Trần nói chung và Phật giáo mà vua Trần Nhân 
Tông thiết định nói riêng là một nền Phật giáo nhập thế, đưa Phật pháp hòa 
vào cùng xã hội và làm một chuẩn mực đạo đức, định hướng cho đời sống 
của nhân dân. Có thể nói, triều đại nhà Trần là một triều đại Phật giáo, với 

nhiều  chiến  công  hiển  hách,  ba  lần   đánh  tan   quân  xâm  lược  Nguyên  ­ 
Mông, và đạt được những thành tựu rực rỡ trong công cuộc xây dựng đất 
nước. 
Từ cuối thế kỉ XIV nhà Trần suy yếu. Năm 1400, Hồ Quý Ly đã lật 
đổ nhà Trần lập ra nhà Hồ. Tuy nhiên, chính quyền của Hồ Quý Ly không 
được lòng dân, không dám dựa vào dân, nên đã thất bại trước sự xâm lược 
của nhà Minh, để  đất nước ta rơi vào một giai đoạn nước mất nhà tan. 
Giặc Minh đã tiêu hủy những di sản văn hóa của dân tộc ta, thay vào đó, 
chúng áp đặt văn hóa Hán. Phật giáo cũng phải đối mặt với thời kì đầy khó 
khăn.
Năm 1428 cuộc kháng chiến chống Minh cứu nước do Lê Lợi lãnh 
đạo thành công, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, mở  ra triều đại nhà Hậu Lê. 
Phật giáo vẫn là một hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống của dân tộc. Với 
sự  lãnh đạo của các vị  vua Lê và các danh thần như Lê Sát, Trần Nguyên 
Hãn, Lê Ngân..., Phật giáo vẫn tiếp tục được phát triển. Thiền sư Lê Mạnh 
Thát đã nhận định tổng quát: "Thời Lê là thời đại Phật giáo Việt Nam phát 
triển rầm rộ, do đối kháng lại với nền Phật giáo mà nhà Minh đưa sang". 
Phật giáo  ở  giai đoạn này đã kế  thừa các nền tảng hình thành trước, tiếp 
tục phát triển, nổi bật với các gương mặt Phật tử, danh Tăng như nhà toán 
học Phật tử Lương Thế Vinh; nhà chính trị ­ quân sự thiên tài Nguyễn Trãi 
(1380 ­  1442), người đã lấy tư  tưởng Phật giáo  để  xây dựng quan niệm 
nhân nghĩa trong tư tưởng quân sự của mình; ngài Viên Thái (1400 ­ 1460), 
8


Học viện Báo chí và Tuyên truyền
người đầu tiên dịch kinh Phật ra chữ Nôm hiện biết được; Pháp Tính (1470 
­1550), người viết Ngọc âm chỉ  nam giải nghĩa, Cổ  Châu Pháp Vân Phật 
bản hạnh… Về mặt lễ hội văn hóa tâm linh và xây dựng chùa chiền, ở thời 
Lê vẫn diễn ra tuy không nhiều như trước nhưng vẫn khá mạnh mẽ. Đạo 

Phật đã thâm nhập và hòa quyện với văn hóa dân tộc, đã trở  nên một, bất 
khả  phân ly. Chùa chiền vẫn là nơi sinh hoạt tín ngưỡng và văn hóa của 
các tầng lớp nhân dân. 
Có thể nói, dưới các triều đại Lý, Trần, Hậu Lê, Phật giáo không chỉ 
giải quyết được cuộc khủng hoảng tư tưởng của tự thân mà hơn thế nữa, 
đã thực sự hòa nhập với dân tộc, trở thành dòng tư tưởng chủ lưu trong đời 
sống văn hóa, chính trị của đất nước. Phật giáo đã bổ sung làm giàu và làm 
mạnh mẽ thêm cho bản lĩnh Việt Nam quật cường.
Đến thế  kỉ  XVI, nhà Lê mục nát, đất nước rơi vào thời kỳ  rối ren, 
phân chia thành Đàng Trong và Đàng ngoài. Phật giáo Việt Nam cũng bước 
sang giai đoạn mới.
2. Phật giáo Việt Nam từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX
Thời gian này, các dòng thiền từ  Trung Quốc được truyền bá vào 
nước ta và có những  ảnh hưởng nhất định. Thế  kỉ  XVII, dòng thiền Tào 
động ­ một dòng thiền xuất phát từ Trung Quốc, có xu hướng sử dụng dịch 
lý ­  được truyền đến nước ta,  ảnh hưởng trên cả  Đàng trong và Đàng 
ngoài. Ở Đàng ngoài, cuối thế  kỷ  XVII và trong thế  kỷ  XVIII, dòng thiền 
Tào  động đã có những  ảnh hưởng to lớn, và nó còn  ảnh hưởng đến tận 
ngày nay, nhiều chùa ở  Hà Nội như Trấn Quốc, Hàm Long và Hòe Nhai... 
đến nay vẫn xem là truyền thừa của dòng thiền này. Đối với Đàng trong, 
dòng thiền này không thật phát triển. Tuy nhiên, đối với Dòng thiền Lâm 
Tế thì ngược lại, dòng thiền này khá phát triển ở Đàng Trong. 
Bên cạnh đó, dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử  phát triển mạnh mẽ   ở 

a 9 
a


Đàng Ngoài. 
Từ  thế  kỷ  thứ  XVIII, xã hội nước ta rơi vào cuộc khủng hoảng ý 

thức hệ trầm trọng. Trong bối cảnh đó, Phật giáo đã có nhiều nỗ lực nhằm 
tìm cách xây dựng một hệ ý thức mới phù hợp với yêu cầu cả thời đại. Tuy 
nhiên, sau khi nhà Tây Sơn sụp đổ, Gia Long lên ngôi (1802), ông đã chủ 
trương phục hồi hệ ý thức Nho giáo cực kỳ phản động, đưa đất nước đến 
chỗ  bế  tắt, dân tộc ta lại rơi vào đại họa ngoại xâm. Năm 1858, thực dân 
Pháp chính thức nổ súng xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn hèn nhát 
đã sớm đầu hàng nhưng khắp nơi nhân dân tự dấy lên khởi nghĩa, và trong 
đó có những phản ứng của giới Phật giáo, điển hình là các cuộc khởi nghĩa 
chống Pháp cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX như các vị sư Nguyễn Văn 
Quý, Trần Văn Thành, Vương Quốc Chính, Cao Văn Long, v.v... 
3. Phật giáo Việt Nam từ thế kỉ XX đến nay
Những năm đầu thế  kỉ  XX, Phật giáo Việt Nam chuyển sang giai 
đoạn chấn hưng  và có sự  khởi sắc. Một bộ  phận Phật giáo duy trì hoạt 
động có tổ chức, một số cơ sở đào tạo tăng tài lần lượt ra đời và Phật giáo 
đã tạo ra được những phong trào lớn cho lịch sử  Phật giáo và lịch sử  dân  
tộc. Thời kì đất nước bị  thực dân Pháp xâm lược, Phật giáo bị  chèn ép vì 
chính quyền thực dân dựa vào Công giáo để xây dựng bộ máy cai trị. Chính 
vì vậy nhiều phong trào Phật giáo đã nổ ra để  chống sự  kỳ  thị và đàn áp 
Phật giáo, phát động phong trào yêu nước chống đế quốc xâm lược. Những 
phong trào đã làm cho có sự khác biệt nhất định giữa Phật giáo ở hai miền 
Nam ­ Bắc. Nếu như  Phật giáo miền Bắc là khá thuần nhất thì bộ  mặt 
Phật giáo miền Nam lại rất đa dạng, không chỉ  về  hệ  phái kiến trúc, về 
cách bố  cục trong chùa, về  giáo lý mà còn cả  trong sự  hòa quyện với các 
tôn giáo khác, thậm chí là yếu tố  tạo thành các tôn giáo mới. Phật giáo đã 
góp phần vào thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của 

10


Học viện Báo chí và Tuyên truyền

cả dân tộc.
Sau khi đất nước thống nhất, năm 1981  các tổ  chức hệ  phái Phật 
giáo trong cả  nước đã tổ  chức  đại hội, thống nhất làm một và lấy tên: 
“Giáo   hội   Phật   giáo   Việt  Nam”.   Đại   hội   đã   thông   qua   hiến   chương, 
chương trình hành  động và bầu ra cơ  quan lãnh  đạo. Giáo hội Phật giáo 
Việt Nam bao gồm hai Hội đồng ở Trung  ương: Hội đồng chứng minh và 
Hội đồng trị  sự.  ở  các tỉnh, thành phố  có các Ban trị  sự, dưới nữa có các 
Ban đại diện Phật giáo Quận, Huyện, Thị. 
Theo thống kê, hiện nay cả  nước có 14.303 ngôi tự  viện, trong đó 
gồm   13.312   tự   viện   Bắc   tông,   469   tự   viện   Nam   tông   nguyên   thủy   và 
Khmer, 142 tịnh xá khất sĩ, 95 tịnh thất và 185 niệm Phật đường. Về tăng 
ni thì có 26.268 vị, có 3 Học viện Phật giáo, một trường Cao đẳng chuyên 
khoa Phật học, 30 trường cơ bản Phật học, 1 trường đào tạo đội ngũ giảng 
viên hoằng pháp. Ngoài ra, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã thành lập Viện 
nghiên cứu Phật học tại thành phố  Hồ  Chí Minh và Phân viện nghiên cứu 
tại Hà Nội, thành lập Hội đồng phiên dịch và ấn hành Đại Tạng Kinh Việt 
Nam.
 

Đa số  chức sắc tín đồ  Phật giáo tiếp tục phát huy truyền thống yêu 

nước, gắn bó với dân tộc, thực hiện chủ trương chính sách nhà nước theo 
phương châm “Đạo pháp ­ Dân tộc ­ Chủ  nghĩa xã hội”. Gần đây, Phật 
giáo bắt đầu chú ý đến việc nâng cao hiểu biết cho tăng ni và tín đồ bằng 
các lớp học, các buổi thuyết giảng, in  ấn các loại sách, tham gia vào các 
công tác xã hội từ  thiện… và vào cả  các công việc của nhà nước, chính 
quyền địa phương với tư  cách là đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, 
ủy viên Hội đồng nhân dân các cấp. Phật giáo cũng góp phần tích cực vào  
việc giữ  gìn truyền thống văn hóa, đạo đức của dân tộc và sự  lành mạnh 
của xã hội.


CHƯƠNG II: MỘT SỐ ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG CỦA PHẬT 

a
11 
a


GIÁO VỚI TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC VIỆT NAM
I. TINH THẦN BẤT KHUẤT VÀ ĐỘC LẬP 

Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống anh hùng, bất khuất của tổ 
tiên lưu lại. Người Việt Nam không chịu cúi đầu làm nô lệ ngoại bang. Dù 
có những khi thế cùng lực tận bắt buộc phải lệ thuộc họ, nhưng tinh thần 
bất khuất, kiên cường  đã biến thành ngòi thuốc súng cứ  cháy âm  ỉ  trong 
lòng mỗi người dân nước Việt. Người thanh niên Việt Nam sẵn sàng hy 
sinh mối tình riêng tư của mình để đem thân ra bảo vệ quê hương dân tộc. 
Giặc Tây đánh tới Cần Giờ
Biểu đừng thương nhớ đợi chờ uổng công!
Quê hương xứ  sở  của mình dù nhỏ  nhoi nghèo thiếu, nhưng người 
Việt vẫn yêu mến nó, quí trọng nó: 
Ta về ta tắm ao ta,
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.
Và sẵn tinh thần bất khuất nên người Việt Nam không chịu ỷ lại; tự 
mình phải gây dựng cho mình, dù gian nan cách mấy cũng vui: 
Có vất vả mới thanh nhàn,
Không dưng ai dễ cầm tàn che cho.
Tinh thần của Phật giáo rất phù hợp với truyền thống đó của dân tộc 
Việt Nam. Bước chân vào chùa, chúng ta đã thấy trước chính điện đề bốn 
chữ ĐẠI HÙNG BỬU ĐIỆN, điện báu thờ đức Đại Hùng. Phật được gọi là 

đấng Đại Hùng, Đại Lực, vì  Đức Phật đã cương quyết đập tan hết mọi 
xiềng xích: xiềng xích do xã hội tạo ra như chế độ giai cấp của Bà­la­môn 
giáo đã đặt ra ở Ấn Độ , xiềng xích tại bản thân con người do ngũ dục trói 
buộc, xiềng xích  ở  nội tâm do tham, sân, si sai sử. Tất cả  thứ  xiềng xích 
đó, Đức Phật đã phá vỡ, nên Ngài là bậc hoàn toàn giải thoát. Đức Phật 
không bao giờ chịu khuất phục dưới một sức mạnh nào, dù là sức mạnh vô 
biên của nghiệp lực truyền kiếp lưu lại. Nghiệp lực  ấy đã biểu hiện qua 
hình thức vô số ma vương bao quanh cây Bồ­đề chiến đấu với Ngài, cuối 
cùng Ngài vẫn chiến thắng chúng và thành bậc Đại Giác Ngộ. Chủ trương 
12


Học viện Báo chí và Tuyên truyền
giải thoát của đạo Phật vượt ra ngoài vòng nô lệ, bất cứ loại nô lệ nào; từ 
ngoài đem đến hay từ ở trong phát sinh. Bởi quyết thoát nô lệ nên Phật giáo 
luôn luôn phá trừ  tính  ỷ  lại, dạy Phật tử  phải nỗ  lực tự cường, như  câu: 
“Các người phải tự thắp đuốc lên mà đi”. Vì thế, tinh thần hùng lực và giải 
thoát của đạo Phật rất thích hợp với tinh thần bất khuất và độc lập của 
dân tộc Việt Nam. Sự  hòa nhập sâu đậm tinh thần Phật giáo với truyền 
thống của dân tộc đã góp phần viết nên những trang sử  oai hùng của dân  
tộc Việt Nam.
 
II. TINH THẦN ĐOÀN KẾT 

Trong Phật giáo, nói đến Tăng chúng là nói đến bản chất Lục hòa. 
Có hòa thuận mới có tin yêu và đoàn kết. Lục hòa là kích chích tố phát khởi 
hành động đoàn kết. Thiếu Lục hòa, dù chúng ta có lạc giọng kêu gọi đoàn 
kết cũng không khi nào có đoàn kết. Muốn thành một tu sĩ Phật giáo trước 
hết phải thành tựu Lục hòa. Cho nên tinh thần đoàn kết là then chốt trong 
đạo Phật. Trước tiên phải có hòa kính, nhân hậu mới có đoàn kết. Đoàn 

kết là một  sức mạnh phi  thường,  không việc gì  làm chẳng  được.  Câu 
chuyện ngài Mục Kiền Liên cầu Phật cứu mẹ đang mắc trong vòng Ngạ 
quỉ. Phật bảo Ngài đi thỉnh mười phương Tăng chúng cúng dường, nhờ sức 
chú nguyện của chúng Tăng, mẹ Ngài sẽ  thoát vòng đau khổ. Tại sao ngài 
Mục Kiền Liên đầy đủ  thần thông, Đức Phật có vô biên công đức mà 
không đích thân ra tay cứu độ  cho mẹ  Ngài Mục Kiền Liên, phải đợi đến 
sức chú nguyện của Tăng chúng? Điều này đủ chứng tỏ Phật dạy đoàn kết 
là sức mạnh trên tất cả  sức mạnh. Vì ý nghĩa này nên Phật chủ  trương 
“Đức chúng như hải”. Bởi Phật giáo chủ trương hòa kính để đi đến đoàn 
kết nên rất thích hợp với truyền thống   đoàn kết của dân tộc Việt Nam. 
Chúng ta luôn kêu gọi và đề cao tình đoàn kết. Trong Hội nghị Diên Hồng, 
chúng ta thấy muôn người như  một, quyết chung lưng đấu cật chiến đấu 
tới cùng. Tình đoàn kết đó, chúng ta đã nghe văng vẳng từ đồng quê vọng 
lại: 
Khôn ngoan đối đáp người ngoài,
a
13 
a


Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
Thực vậy, nếu có người tài khôn ngoan thì hãy đem tài mình ra chống 
cự ngoại xâm. Anh em trong nhà cùng chung máu mủ  ai nỡ giết hại nhau.  
Nếu đứng riêng một mình thì người có tài giỏi đến đâu cũng không làm nên 
việc gì, cần phải góp tay chung sức mới làm nên việc lớn: 
Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Nước Việt Nam ta đã trải qua cả ngàn năm Bắc thuộc, cả trăm năm 
Pháp thuộc, vận mệnh dân tộc lúc nào cũng đối mặt với họa xâm lăng nên 
tinh thần đoàn kết của người Việt Nam luôn được thể hiện. Tình đoàn kết 

đã thấm sâu trong trái tim, trong dòng máu của  người Việt Nam, nó luôn 
được phát huy trong mọi hoàn cảnh để cùng nhau vươn lên.
III. LÒNG BAO DUNG

 

Trên dải đất Việt Nam nhỏ bé, nhưng rất nhiều dân tộc chung sống, 

nếu thiếu tâm lượng bao dung thì nội loạn sẽ  dâng khởi liên miên. Vì thế 
tâm lượng bao dung của người Việt được biểu lộ cụ thể qua câu ca dao: 
Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Cùng chung sống trong một đất nước thì khổ  vui cùng đồng chịu, 
chúng ta phải thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Với tinh thần chị  ngã em 
nâng, sự  cứu giúp này sẽ  làm lành mạnh hóa tổ  chức xã hội. Đây, tự đáy 
lòng người nông dân phát xuất ra những lời tha thiết: 
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Gặp cơn nguy biến hoạn nạn, tình  đồng bào chúng ta đâu nỡ  làm 
ngơ, mà phải ra tay cứu giúp nhau. Người biết chia sớt khổ đau cho nhau 
thật là một tình thương đáng kính đáng quý. Tình thương ấy đã phát ra ngôn 
ngữ, mà người Việt Nam chúng ta không có quyền quên: 
Đường xa xin chớ ngại ngùng,
Trèo non, xuống biển ta cùng đỡ nhau.
14


Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Đạo Phật cũng thể hiện tinh thần bao dung của mình. Đạo Phật thừa 
nhận tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Đã có Phật tính thì dù các chúng 

sinh do hành nghiệp bất đồng bị quả báo sai biệt, nhưng Phật tính vẫn đầy 
đủ như nhau. Bởi hành nghiệp bất đồng nên chúng sinh chiêu cảm thân thể, 
ngôn ngữ, tư tưởng, hành động khác nhau. Như vậy, ta không thể bắt buộc 
mọi người đều hiểu biết, hành động như ta được. Lại nữa, trong kinh Phật 
dạy: “Khi có Phật ra đời giáo hóa, người y theo pháp Phật dạy tu hành 
chính quả, gọi là Thanh văn; khi không có Phật ra đời và không còn Phật 
giáo hóa, người tự  quán sát lý sinh diệt của vạn vật mà ngộ  đạo, gọi là 
Độc giác”. Như thế, không phải chỉ y theo lời Phật dạy tu hành mới thành 
chính quả, mà bất cứ ai biết xét đúng lý sinh hóa của vũ trụ được giác ngộ 
đều thành chính quả  cả. Thế  thì, đức Lão tử, đức Khổng tử… đâu không 
phải là hàng Độc giác. Bởi quan niệm này, Phật giáo không bao giờ kỳ thị 
các tôn giáo khác, trái lại còn dung hòa thân mật là khác. Bằng chứng trong  
lịch sử Việt Nam, thời Lý, Trần là thời độc tôn của Phật giáo, mà khoa thi 
Tam giáo vẫn được mở ở đời Lý Nhân Tông và chủ trương Tam giáo đồng 
nguyên thịnh đạt nhất đời Trần Thái Tông, một ông vua rất thâm hiểu Phật 
giáo. Đây, ta hãy nghe Ngài nói:  “Tuy vân thân mệnh chí trọng, do vị  túc  
trọng ư chí đạo giả giã. Cố Khổng Tử viết: Triêu văn đạo tịch, tử khả hỉ.  
Lão Tử  viết: Ngô sở  dĩ hữu đại hoạn giả  vị  ngô hữu thân. Thế  Tôn cầu 
đạo, xả thân cứu khổ, khởi phi tam Thánh nhân khinh nhi trọng đạo tai!”.
(Thân mệnh tuy là chú trọng thật, song chưa bằng chí đạo kia. Thế cho nên 
Khổng Phu Tử có câu rằng: “Sớm nghe đạo, tối chết cũng cam”. Ông Lão 
Tử  có câu rằng: “Ta có sự  lo lớn là vì ta có cái thân”.  Đức Thế  Tôn cầu 
đạo, xả  thân cứu khổ, thế  chả  phải “ba đấng Thánh đều khinh thân mà 
trọng đạo đó sao? ).
(Khóa Hư, Thiều Chửu dịch)
Hoặc câu: “Hưu biệt tại gia xuất gia, bất câu tăng tục, chỉ yếu biện tâm.  
Bổn vô nam nữ, hà tu trước tướng. Vị minh nhơn vọng phân tam giáo, liễu 
đắc đế  đồng ngộ  nhất tâm”. (Hỏi chi tăng tục, chỉ  cốt tỏ  tâm; nguyện 
không gái trai, sao nên nệ tướng. Người chưa hiểu càng chia tam giáo, hiểu 
a

15 
a


đến nơi cùng thấu nhất tâm). 
Vua Trần Thái Tông đã có lần đi trốn lên núi xuất gia và đã viết 
nhiều tác phẩm về  Phật giáo, mà vẫn tôn trọng Khổng Tử, Lão Tử, xem 
hai ngài cũng là bậc Thánh, đồng hàng với Phật. Đó đủ chứng tỏ tinh thần 
bao dung rộng rãi của Phật giáo. Không phải như các tôn giáo khác, chỉ chú 
trọng ông Giáo chủ  của mình là Thánh, còn Giáo chủ  của tôn giáo khác là 
yêu quái, đạo mình là chính, đạo khác là tà, rồi sinh tâm khinh miệt kỳ thị. 
Đến thời Nho học độc tôn, triều Lê Thái Tổ  về  sau, Phật giáo bị  chống  
báng kịch liệt và bị  đẩy lui về  thôn dã. Bởi Phật giáo sẵn bản chất bao 
dung như vậy nên thích ứng với tinh thần dân tộc Việt Nam.
IV. HIẾU KÍNH 

Xã hội Việt Nam xây dựng trên nền tảng gia đình. Gia đình có an vui 
hạnh phúc thì quốc gia mới vững mạnh. Vì thế, trong gia đình người cha 
phải từ, người con phải hiếu. Muốn những đứa con khởi lòng hiếu kính, 
trước phải dạy chúng nhớ công  ơn sinh thành khổ  cực của cha mẹ. Công 
ơn cha mẹ được người bình dân hình dung rộng như biển, cao như núi. 
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Những ai còn  được cha mẹ  chăm lo, dưỡng dục là có cả  một kho 
tàng quý báu, là được uống những dòng suối ngọt, ăn những thức bùi. Sự 
thơm ngon quý báu  ấy còn dư  vị  trong cổ  họng chúng ta qua lời ca chất  
phác của người bình dân: 
Mẹ già như chuối ba hương,

Như xôi nếp một, như đường mía lau.
Đã biết công ơn cha mẹ nặng nề  như vậy, kẻ  làm con lúc nào cũng 
hy vọng đền đáp. Có người cho sự học hành đỗ đạt, làm đẹp mặt nở mày 
cha mẹ là đền ơn:
Bao giờ cá Lý hóa long
16


Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Đền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xưa.
Có người sống trong cảnh nghèo thiếu vất vả, nhưng lòng biết  ơn 
cha mẹ  không bao giờ  quên. Họ  phải nhịn ăn để  nhường phần nuôi cha 
mẹ: 
Đói lòng ăn hột chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
Gặp khi cha mẹ  gặp lúc trở  trời trái gió, người con hiếu thảo lo sợ 
cha mẹ  chết nên đến trước bàn Phật thắp hương lâm râm khấn vái, cầu 
nguyện Phật, Trời phù hộ cho cha mẹ sống đời với con: 
Lâm râm khấn vái Phật, Trời,
Xin cho cha mẹ ở đời với con.
Công ơn cha mẹ sinh thành nuôi dưỡng rộng sâu như trời bể, người 
con hiếu thảo lúc nào cũng canh cánh bên lòng, mong ngày  đền đáp.  Rồi 
được cha mẹ cho đi học hành, ông thầy sẽ  thay thế  cha mẹ  dạy bảo văn 
chương chữ  nghĩa và cách cư xử   ở đời. Người con hiếu  ấy đã thấy mang 
thêm một ơn nặng nữa: 
Gươm vàng rớt xuống hồ Tây
Công cha cũng trọng, nghĩa thầy cũng sâu.
Lớn  lên   được  dịp  đi   chùa  lễ  Phật,  hoặc  nghe   các  sư  giảng  dạy, 
người con hiếu phát tâm hâm mộ đạo đức, muốn dứt khoát cuộc đời thế 
tục, vào nương mình dưới bóng từ bi. Hoặc những lúc chiều về nghe tiếng 

trống   công   phu   dồn   dập,   giọng   chuông   cảnh   tỉnh   ngân   dài,   khiến   lòng 
khoan khoái nhẹ nhàng muốn gởi thân vào cửa Phật. Nhưng còn cha mẹ già 
yếu chưa đền đáp được chút ơn sinh thành, nên khó lòng cất bước đi. Thế 
là, người con hiếu bị  giằng co giữa hai tâm niệm: vừa muốn tìm  đường 
thoát tục, vừa lo đền đáp công ơn sinh thành: 
Đến chùa thấy Phật muốn tu,
Về nhà thấy mẹ đi tu không đành.
Nhưng rồi, quan niệm chữ  hiếu nặng hơn. Người ta cho rằng đạo 
hiếu là đạo chân chính của con người. Người biết thờ  cha kính mẹ  là 
người đã tu đúng chính đạo: 
a
17 
a


Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.
Hoặc giả người ta đã thần thánh hóa cha mẹ, coi cha mẹ  như Phật, 
biết thờ  kính cha mẹ  là thờ  kính Phật. Cho nên người bình dân  đã nói: 
“Phật trong nhà không thờ, thờ Thích Ca ngoài đường”. Hiếu thảo là chất 
liệu thiết yếu trong xã hội Việt Nam. Vì thế, trong tinh thần dân tộc Việt  
Nam, ai cũng đặt chữ hiếu trên tất cả. Những đứa con bất hiếu luôn luôn bị 
dân chúng Việt Nam chê ghét, nguyền rủa.
Đạo Phật cũng chú ý đặc biệt đến lòng hiếu thảo của kẻ  làm con. 
Những kinh điển chuyên dạy người con phải hiếu kính cha mẹ  như  Kinh 
Báo Phụ  Mẫu Ân, Kinh Thai Cốt, Kinh Hiếu Tử, Kinh Đại Tập, Kinh 
Nhẫn Nhục, Kinh Vu Lan… Ngoài ra, những Kinh chỉ đề cập đến chữ hiếu 
vài tờ, vài đoạn thì bàng bạc khắp Tam tạng Thánh điển, không thể  kể 
xiết. Nhắc lại công ơn cha mẹ không thể tính kể, không thể đo lường, kẻ 
làm con đền đáp suốt đời vẫn chưa thấm vào đâu. Phật dạy: “Thế gian vạn 

pháp, mạc quá phụ  mẫu cù lao ân đại” (Kinh Thai Cốt), nghĩa là  “Muôn 
việc ở thế gian, không gì hơn công nuôi dưỡng lớn lao của cha mẹ” . Công 
đức của cha mẹ đã quá lớn lao, nếu kẻ làm con không lo đền đáp, lại ăn ở 
bất hiếu thì mắc tội không biết đến ngần nào. Phật dạy: “Ân đức cha mẹ 
vô lượng vô biên, kể  không bao giờ  cùng”  (Kinh Báo Phụ  Mẫu Ân). Kẻ 
làm con biết sợ điều ác, biết ưa điều thiện thì không gì hơn ăn ở hiếu kính 
với cha mẹ. Phật dạy: “Cùng tột điều thiện không gì bằng hiếu, cùng tột  
điều ác không gì bằng bất hiếu” (Kinh Nhẫn Nhục). Cho đến trong Luật, 
Phật liệt tội bất hiếu đứng đầu năm tội “ngũ nghịch”. Bởi Phật giáo đặt 
trọng chữ  hiếu nên thích hợp với tinh thần dân tộc Việt Nam.   Như  hạt 
giống tốt gieo xuống thửa ruộng phì nhiêu, lại đủ nước, phân… nên chóng 
đơm hoa kết quả. Tinh thần hiếu kính của Phật giáo đã hun  đúc ăn sâu 
trong tinh thần dân tộc và trở  thành một truyền thống hết sức tốt đẹp của 
người Việt Nam.
 

18


Học viện Báo chí và Tuyên truyền

PHẦN KẾT LUẬN
Đất nước ta đang bước vào quá trình hội nhập sâu rộng theo xu thế 
chung của thế giới. Trong bước đường hội nhập đó, chúng ta có nhiều thuận 
lợi nhưng cũng phải đối mặt với không ít những khó khăn và thách thức. Đồng 
thời, xu thế toàn cầu hóa cũng khiến Việt Nam nói riêng và các nước nói chung 
phải đối mặt với nguy cơ đánh mất giá trị văn hóa truyền thống. Trong nền 
văn hóa Việt Nam, Phật giáo đóng vai trò vô cùng quan trọng. Phật giáo đã 
đồng hành cùng dân tộc trong hàng ngàn năm lịch sử và tạo nên bản sắc văn 
hóa Việt Nam, đồng thời Phật giáo cũng đã có những đóng góp to lớn trong quá 

trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Trong giai đoạn hiện nay, Phật giáo vẫn có 
nhiều giá trị đối với dân tộc. Đảng ta luôn quan tâm tới sự phát triển của tôn 
giáo nói riêng và Phật giáo nói chung, khẳng định vị trí của Phật giáo trong lòng 
dân tộc. Tinh thần Phật giáo và tinh thần dân tộc từ lâu đã có mối liên hệ gắn 
bó chặt chẽ với nhau, việc gìn giữ và phát huy những điểm tích cực trong giáo 
lý nhà Phật sẽ tạo ra những ảnh hưởng tích cực đến nền văn hóa và tinh thần 
dân tộc. Như vậy sẽ góp phần vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên 

a
19 
a


tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đưa đất nước vững bước trên con đường đổi 
mới. Trong khuôn khổ  một tiểu luận, nội dung còn nhiều thiếu sót , để thực 
hiện được mục đích nêu trên, cần phải có sự nghiên cứu, tìm hiểu sâu sắc và 
nghiêm túc hơn nữa trong thời gian tới. Tiểu luận cần được sự đóng góp ý, bổ 
sung để có thể hoàn thiện hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Tôn giáo học ­ Khoa Triết học ­ Học viện Báo chí và Tuyên  
truyền.
2. Việt Nam Phật giáo sử luận ­ Nguyễn Lang ­ NXB Văn học ­ 1994
3. Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý­Trần ­ NXB KHXH
4. Lịch sử Phật giáo Việt Nam ­ Lê Mạnh Thát ­ NXB Thuận Hóa
5. Tạp chí nghiên cứu tôn giáo

20



Học viện Báo chí và Tuyên truyền
6. Tư tưởng phật giáo ­ Thích Trí Quảng ­ NXB Tôn giáo 2004
7. Vài nét chính luân lý Phật Giáo ­ Thích Thanh Từ ­ NXB Tôn giáo 2007
8. Phật giáo với văn hóa Việt Nam ­ Nguyễn Đăng Duy ­ NXB Hà Nội 1999
9. Tư tưởng Phật giáo Việt Nam ­ Nguyễn Duy Hinh ­ NXB Hội Nhà văn 
1999
10. Thế giới quan Phật Giáo ­ Thích Mật Thể ­ NXB Tôn giáo 2004

MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

1

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1

II. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

1

III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2

IV. CẤU TRÚC TIỂU LUẬN

2


a
21 
a


PHẦN NỘI DUNG

3

CHƯƠNG I: 
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM

3

I. SỰ DU NHẬP CỦA PHẬT GIÁO VÀO VIỆT NAM
3
II. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM 
TỪ THẾ KỶ X CHO ĐẾN NGÀY NAY

5

1. Phật giáo Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XVI
5

2. Phật giáo Việt Nam từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX

8

3. Phật giáo Việt Nam từ thế kỉ XX đến nay 

9
CHƯƠNG II: 
MỘT SỐ ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG CỦA PHẬT GIÁO VỚI 
TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC VIỆT NAM

11

I. TINH THẦN BẤT KHUẤT VÀ ĐỘC LẬP 

11

II. TINH THẦN ĐOÀN KẾT

12

III. LÒNG BAO DUNG 

13

IV. HIẾU KÍNH 

15

PHẦN KẾT LUẬN

18

22




×