Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Tiểu luận: Giải quyết đơn khiếu nại của ông Đa Cát Ha Mang, Thôn Đa Xế, xã Đạ M’Rông, huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng về việc không được công nhận hộ nghèo năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.19 KB, 21 trang )

PHẦN I:  MỞ ĐẦU
Xóa đói giảm nghèo đang là vấn đề cấp bách mang tính toàn cầu và  
là chương trình thiên niên kỷ  của Liên hiệp quốc.  Ở  Việt Nam, công tác 
xóa đói giảm nghèo là một chủ trương lớn được Đảng và Nhà nước ta đặc  
biệt quan tâm và xác định đó là chương trình mục tiêu quốc gia.
Trong công tác xóa đói giảm nghèo, để  thực hiện đạt chỉ  tiêu thì 
không chỉ   được  triển khai, thực  hiện bằng nhiều phương  pháp, nhiều 
phương thức, sử  dụng nhiều nguồn nhân lực và sự  hỗ  trợ  khác nhau mà 
quan trọng là ý chí vươn lên thoát nghèo của chính những hộ  nghèo. Để 
phát huy được ý chí vươn lên thoát nghèo của chính người nghèo thì việc 
tiến hành bình xét hộ  nghèo hàng năm là khâu rất quan trọng. Việc bình 
xét nếu được thực hiện khách quan, dân chủ, công bằng, công khai và 
chính xác thì chọn được hộ  đúng thực sự  là hộ  nghèo. Để  từ  đó với sự 
đầu tư và hỗ trợ của nhà nước những hộ nghèo vươn lên thoát nghèo. Tạo 
được sự  đồng thuận, đồng tình và hưởng  ứng của nhân dân đối với các 
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Qua đó, nâng cao ý nghĩa,  
mục đích của xóa đói giảm nghèo, đồng thời đánh giá được hiệu quả thiết  
thực của các nguồn hỗ  trợ  của nhà nước đối với những hộ  gia đình còn 
gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Ngược   lại,   bình   xét   hộ   nghèo   không   chính   xác,   không   dân   chủ, 
không công bằng sẽ  tạo sự  phân bì, phản  ứng, so sách ngay chính trong 
nội bộ nhân dân, như vậy chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước sẽ 
không được thực hiện nghiêm minh, tình trạng đơn thư khiếu kiện là điều 
khó tránh khỏi. Trong thực tế, sau khi tiến hành bình xét hộ  nghèo xong,  
mặc dù quá trình thực hiện đảm bảo công khai, chính xác và đúng quy 
trình nhưng vẫn có tình trạng khiếu kiện xảy ra. Lý do vì sao có tình trạng  
này tôi sẽ  trình bày trong phần nội dung. Sau mỗi năm, số  đơn thư  khiếu  
kiện tăng lên, tính chất ngày càng phức tạp, đặc biệt là xuất hiện đơn 
khiếu kiện tập thể.

1




Qua chương trình quản lý nhà nước mà tôi đã được học và yêu cầu 
lựa chọn đề  tài, từ  thực tế  công tác bình xét hộ  nghèo hàng năm, tôi đã  
chọn đề tài: Giải quyết đơn khiếu nại của ông Đa Cát Ha Mang, Thôn  
Đa   Xế,   xã   Đạ   M’Rông,   huyện   Đam   Rông,   tỉnh   Lâm   Đồng   về   việc  
không được công nhận hộ nghèo năm 2018. Sở dĩ tôi chọn đề tài này vì 
tôi nhận thấy đây là vấn đề khá nhạy cảm trong quản lý nhà nước đối với 
việc thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo tại địa phương. Trong  
quá trình xử  lý vụ  việc trên, tôi hy vọng những trường hợp như  ông  Đa 
Cát Ha Mang  và nhân dân, các ngành, đơn vị  có liên quan, cán bộ  công 
chức trực tiếp làm công tác xóa đói giảm nghèo có nhận thức đúng đắn 
hơn trong khảo sát, cách tính thu nhập của hộ  gia đình để  xếp  ở  mức  
nghèo hay cận nghèo. Từ đó có những tham mưu sát với thực tế trong việc  
thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo ở địa phương.
Tiểu luận gồm 3 phần: mở  đầu; nội dung và phần kiến nghị, 
kết luận.
   * Phần mở đầu: Trình bày mục đích, ý nghĩa, lý do việc lựa chọn đề 
tài.
       * Phần nội dung : Là phần trọng tâm của tiểu luận, gồm 5 bước theo  
trình tự, tập trung giải quyết việc khiếu kiện của ông Đa Cát Ha Mang 
đến khi hoàn thành việc giải quyết.
           * Phần kết luận, kiến nghị: Một số  ý kiến xung quanh việc giải  
quyết đã nêu  ở  trên, để  trong thời gian tới công tác quản lý nhà nước về 
bình xét hộ  nghèo ngày càng tốt hơn, tạo được sự  thống nhất, đồng thuận  
trong nhân dân.
Đối với công tác bình xét hộ  nghèo, tôi nghĩ đây là đề  tài khá mới. 
Trước đây, trong thực hiện bình xét hộ  nghèo hàng năm các ngành liên 
quan mới chỉ chú ý đến việc thực hiện văn bản của cấp trên chứ chưa chú 
ý đến việc tiếp thu ý kiến của nhân dân trong quá trình triển khai, thực 

hiện tại địa phương. Hơn nữa, vì khả  năng của bản thân còn hạn chế  và  

2


giới hạn của đề  tài nên tôi không có tham vọng trình bày rộng mà chỉ tập 
trung theo trình tự giải quyết vụ việc đã được hướng dẫn.

PHẦN II: NỘI DUNG
Tình hình thực tế và công tác xóa đói giảm nghèo ở xã Đạ M’Rông, 
huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng
Xã  Đạ  M’Rông  là một xã  ở  phía Tây Bắc thuộc huyện  Đam 
Rông, tỉnh Lâm Đồng có vị trí địa lý: Phía đông giáp xã Đạ  Tông, phía 
tây giáp xã Đạ RSal, phía nam giáp xã Rô Men, phía bắc giáp xã Krông  
Nô – huyện Lăk – tỉnh Đăk Lăk.
Xã Đạ M’Rông được chia thành 6 thôn, có 846 hộ, với diện tích đất 
tự   nhiên   là  5712,86   ha;   thu  nhập  bình   quân  nhân   khẩu  đạt  23.500.000 
đồng/người/năm, (tăng 7.800.000 đồng so với năm 2015). Nhân dân xã Đạ 
M’Rông chủ  yếu làm kinh tế  nông nghiệp. Địa hình của xã tương đối 
hiểm trở, hơn nữa lại là vùng sâu, vùng xa của tỉnh Lâm Đồng nên việc đi  
lại còn gặp nhiều khó khăn. Theo tinh thần Nghị quyết 30a của Chính phủ 
và  áp dụng chuẩn nghèo được quy định tại Quyết định số  59/2015/QĐ­
TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chuẩn hộ nghèo, 
hộ  cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2016 ­ 2020  thì xã Đạ  M’Rông năm 
2018 có 318 hộ/846 hộ  chiếm 37.59% số  hộ toàn xã (Giảm 33 hộ  so với  
cuối năm 2015).  Hộ  cận nghèo cuối năm 2017: 253 hộ  chiếm 29,9 %, 
(giảm 41 hộ so với cuối năm 2015).
Trong những năm qua công tác xóa đói giảm nghèo được Đảng bộ,  
chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể, nhân dân trong xã đặc biệt 
quan tâm và thực hiện bằng nhiều chương trình lồng ghép như  cấp thẻ 

bảo hiểm y tế  cho người nghèo, hỗ  trợ  sản xuất, chuyển đổi giống cây 
trồng vật nuôi, xóa nhà tạm cho người nghèo theo tinh thần Nghị  quyết 
167/NQ­CP   của   Chính   phủ,   Quyết   định   số   59/2015/QĐ­TTg   ngày 
19/11/2015 của Thủ  tướng Chính phủ  và Chỉ  thị  22 của Ban Thường vụ 
Tỉnh ủy Lâm Đồng, chế độ bảo trợ xã hội theo Nghị định 13/2010/NĐ­CP  
ngày 27/2/2010 của Chính phủ  “về  sữa đổi, bổ  sung một số  điểm của  
Nghị  định 67/2007/NĐ­CP ngày 13/4/2007 của Chính phủ.  Công tác chỉ 
đạo thực hiện xóa đói giảm nghèo từ  huyện đến xã đảm bảo thường  
xuyên và chặt chẽ. Sự nỗ lực, ý chí vươn lên thoát nghèo của nhân dân đã 
được phát huy. Vì vậy, tỷ  lệ  hộ  nghèo trong huyện những năm qua đã  
giảm, chỉ tiêu giảm nghèo hành năm đều đạt chỉ tiêu đặt ra và đạt chỉ tiêu 
3


giảm nghèo mà Đại hội Đảng bộ  xã Đạ  M’Rông lần thứ  XI, nhiệm kỳ 
2015 – 2020 giảm tỷ lệ hộ nghèo dưới 1­2%. 
Tuy nhiên, trong những năm gần  đây, do chế  độ  chính sách của 
Đảng và Nhà nước đối với người nghèo đã được quan tâm và có nhiều ưu 
ái thông qua các chương trình như: hỗ trợ sản xuất, xóa nhà tạm, cấp thẻ 
bảo hiểm y tế, thực hiện chế độ  bảo trợ  xã hội, miễn giảm học phí cho  
học sinh thuộc hộ nghèo, ưu tiên vay vốn ngân hàng, hỗ trợ vật chất trong 
các dịp lễ, tết... những chính sách trên đã phản ánh tính  ưu việt của chủ 
trương, đường lối của Đảng, Chính sách của Nhà nước trong quá trình 
thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo trong cả nước thời gian qua. Đồng 
thời là nguồn động viên hỗ  trợ  cả  vật chất và tinh thần đối với người  
nghèo, để  người nghèo có cơ  hội vươn lên thoát nghèo, cũng cố  niềm tin  
của nhân dân vào sự  lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Nhưng cũng chính 
vì những chính sách ưu đãi đó nên nhiều hộ nghèo có biểu hiện trông chờ, 
ỷ  lại không muốn thoát nghèo, có nhiều hộ, nhiều năm liền không thoát 
nghèo, tình trạng đó phản ánh nhiều hộ  nghèo không phải không có khả 

năng, điều kiện thoát nghèo mà các hộ  này đã trông chờ   ỷ  lại vào Nhà  
nước, nhiều hộ  nghèo tách ra thành nhiều hộ  nghèo mới. Hàng năm, khi 
tiến hành tổng kết công tác xóa đói giảm nghèo, ban chỉ đạo xóa đói giảm 
nghèo đều rút kinh nghiệm và tìm nguyên nhân dẫn đến nghèo dựa trên  
thực tế  tại xã và xây dựng biện pháp giảm nghèo nhưng vì nhiều lý do 
khác nhau nên công tác xóa đói giảm nghèo chưa đạt kết quả  như  mong 
muốn. Nhiều hộ không thuộc diện nghèo nhưng lại muốn công nhận là hộ 
nghèo để được hưởng chính sách đối với hộ  nghèo làm tăng số  hộ  nghèo  
hàng năm. Vì thế  công tác xóa đói giảm nghèo trong huyện trở  nên phức  
tạp, khó khăn hơn.
Cũng chính từ  thực tế  đó, hàng năm sau khi tiến hành bình xét hộ 
nghèo xong, hiện tượng đơn thư khiếu kiện của nhân dân với nội dung đề 
nghị  được công nhận hộ  nghèo hầu như  năm nào cũng có, ít từ  1 đến 2 
đơn. Qua tiếp nhận và giải quyết hàng năm thì thấy nội dung đơn thư đều 
phản ánh mục đích là đề  nghị  được công nhận hộ  nghèo và hầu hết số 
đơn này đều thuộc nhóm hộ cận nghèo. Công tác giải quyết đơn phải thực 
4


hiện nhưng không hề  đơn giản, có đơn phải giải quyết nhiều lần, nhiều  
cấp và trường hợp ông Đa Cát Ha Mang  ở  thôn Đa Xế, xã Đạ  M’Rông, 
huyện Đam Rông mà tôi sẽ trình bày ở phần nội dung chính là một ví dụ.
Trong khi đó đội ngũ làm công tác xét hộ  nghèo chịu nhiều áp lực, 
nhiều hộ  dân có thái độ  không hợp tác với cán bộ  làm công tác khảo sát,  
có biểu hiện giấu bớt tài sản, không kê khai hết thu nhập của gia đình  
trong năm vì vậy tính tổng thu nhập của gia đình trong năm khó chính xác. 
Việc tổ  chức họp thôn để  bình xét công khai  ở  nhiều nơi không đủ  50% 
tổng số hộ trong thôn tham gia. Có thôn phải tổ chức họp nhiều lần, nhiều  
hộ  không thuộc diện hộ  nghèo không quan tâm đến quá trình bình xét, 
không tham dự, thờ ơ. Nhiều hộ khi không được xếp vào diện nghèo đã có  

thái độ hằn học, thậm chí mạt sát, xúc phạm đến danh dự của cán bộ bình 
xét.
Trên đây là thực trạng, tuy chưa phải là phổ biến nhưng đang và sẽ 
là vấn đề  bức xúc đáng quan tâm trong vài năm gần đây. Khi tiến hành  
giải quyết đơn thư, đại diện hộ gia đình có đơn thư không thống nhất sự 
phân tích của người có trách nhiệm, phát biểu theo cảm tính cá nhân, có  
biểu hiện dân chủ  quá trớn, phát ngôn tùy tiện không vì mục đích xây 
dựng. Khắc phục được vấn đề  này có lẽ  là vấn đề  không đơn giản. Đây  
là một thực tế nhưng với suy nghĩ của bản thân tôi muốn nhấn mạnh đó là  
không nên chú ý quá nhiều vào vào mặt trái mà không thấy được mặt tích 
cực, hiệu quả của chương trình. Chỉ khi nhìn thấy mặt trái một cách chính 
xác thì mới thấy mặt tích cực càng có ý nghĩa hơn vì đại bộ phận nhân dân 
ta luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo, đường lối của Đảng, chấp hành tốt mọi 
chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, rất nhiều hộ sẵn sàng hy 
sinh lợi ích của cá nhân, của gia đình vì lợi ích của cộng đồng, của xã hội 
và của đất nước. Với tình thực tế  như  trên, phần nội dung tập trung vào 
các bước sau:
I. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
Tháng 11 hàng năm là thời điểm bình xét hộ  nghèo ở  tất cả  các địa  
phương và huyện Đam Rông cũng tiến hành bình xét hộ  nghèo  ở  tất cả 
5


các xã trong huyện và kết quả  bình xét hộ  nghèo cuối năm 2017 sẽ  là số 
hộ  nghèo năm 2018, để  có kế  hoạch đầu tư  từ  đầu năm. Việc tiến hành 
bình xét hộ  nghèo tuy là công việc thường xuyên được tiến hành hàng 
năm, nhưng bình xét hộ  nghèo là chương trình lớn, rộng, liên quan đến  
quyền và lợi ích của một bộ phận nhân dân nên trước khi tiến hành bình 
xét  Ủy ban nhân dân huyện đều tổ  chức tập huấn kỹ  lưỡng, thành phần 
tham dự gồm thành viên Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo của huyện, lãnh  

đạo Ủy ban nhân dân các xã, cán bộ  Lao động thương binh và xã hội của 
các xã và trưởng các thôn, buôn, chuẩn bị và cung cấp đầy đủ các văn bản 
liên quan, thành lập ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo cấp huyện và cấp xã,  
phân công Ban chỉ đạo phụ trách địa bàn, đồng thời tiến hành bình xét hộ 
nghèo từ thôn, tiến hành khảo sát thu nhập từng hộ. 
Hơn nữa, kết quả  bình xét hộ  nghèo là cơ  sở, là điều kiện để  cấp 
thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, xóa nhà tạm, bảo trợ xã hội... Vì thế 
việc tiến hành bình xét phải đảm bảo công khai, dân chủ, công bằng và 
chính xác. Việc tiến hành bình xét hộ  nghèo tại xã Đạ  M’Rông cũng như 
tất cả  các xã khác trong huyện Đam Rông được tiến hành công khai, dân 
chủ, khách quan, đúng kế hoạch và quy trình đã được hướng dẫn.
Ngày 19/11/2017, sau khi tiến hành bình xét xong  ở xã Đạ M’Rông, 
ông Đa Cát Ha Mang, 51 tuổi, thường trú tại thôn Đa xế, xã Đạ  M’Rông,  
huyện Đam Rông có đơn khiếu nại tới Ban chỉ  đạo xóa đói giảm nghèo  
của xã. Trong đơn, ông khiếu nại về  cách tính thu nhập, đồng thời trình  
bày nguyện vọng của gia đình được công nhận là hộ nghèo năm 2018. Ủy  
ban nhân dân xã Đạ  M’Rông đã mời ông Đa Cát Ha Mang đến làm việc.  
Ban chỉ đạo đã phân tích về thu nhập của gia đình, cách tính tổng thu nhập 
cả năm, thu nhập bình quân người, đồng thời giải thích cho ông Đa Cát Ha 
Mang hiểu với mức thu nhập của gia  đình ông Mang thì gia  đình ông 
không thuộc hộ nghèo. Sau khi được cán bộ  làm công việc khảo sát phân  
tích tận tình, ông Đa Cát Ha Mang đã chấp nhận và rút đơn khiếu kiện, 
công tác giải quyết đơn của ông Mang như vậy đã xong.

6


 Nhưng không hiểu vì lý do gì, đến ngày 09/12/2017 tức là 20 ngày 
sau khi đã giải quyết tại xã, ông Đa Cát Ha Mang lại gửi đơn khiếu kiện 
lên Ban chỉ   đạo xóa  đói giảm nghèo của huyện  Đam Rông. Nội dung  

khiếu kiện cũng trùng với nội dung khiếu kiện mà ông đã gửi lên Ban chỉ 
đạo xóa đói giảm nghèo xã Đạ  M’Rông là gia đình ông không được xếp 
vào hộ nghèo và trình bày nguyện vọng được công nhận là hộ nghèo năm 
2018,  Ủy ban nhân dân huyện Đam Rông đã chỉ  đạo cho Phòng Lao động 
thương binh và xã hội giải quyết đơn khiếu kiện của ông Đa Cát Ha Mang  
và   báo   cáo   chủ   tịch   Ủy   Ban   nhân   dân   và   thanh   tra   huyện   trước   ngày  
28/12/2017.
Để chuẩn bị và phục vụ việc giải quyết khiếu kiện của ông Đa Cát  
Ha Mang, Phòng Lao động thương binh và xã hội đã nghiên cứu kỹ phiếu  
khảo sát thu nhập của gia đình ông Đa Cát Ha Mang. Sỡ  dĩ phải nghiên  
cứu kỹ  phiếu thu nhập vì phiếu khảo sát là căn cứ  và là cơ  sở  tính thu  
nhập để xếp loại hộ nghèo mới hoặc hộ cận nghèo hoặc thoát nghèo. Qua 
nghiên cứu phiếu khảo sát nhận thấy: phiếu khảo sát thể hiện đầy đủ  và 
chính xác về thu nhập và cách tính thu nhập cho gia đình ông Mang cụ thể 
như sau:
­ Ruộng lúa canh tác có 03 sào (3.000m2) canh tác 02 vụ/năm.
thu nhập từ canh tác lúa (đã trừ chi phí đầu tư) là: 6.600.000đồng.
­ Chăn nuôi 02 con bò trong đó có 01 con sinh sản và 01 con bò thịt.
­ Thu nhập từ chăn nuôi (đã trừ chi phí) là: 7.500.000đồng.
­ Vườn cà phê có diện tích 5000m2 (đã trừ  chi phí) cho thu nhập  
30.000.000 đồng.
­ Vườn điều có diện tích 1000m2 cho thu nhập 11.335.000 đồng
­ Như  vậy, tổng thu nhập cả  năm của cả  gia đình ông Đa Cát Ha 
Mang là 55.435.000đồng/năm. Thực tế, qua kiểm tra thì gia đình ông Mang 
không có nguồn thu nhập khác. Như vậy cán bộ khảo sát đúng và ghi đầy 
đủ các nguồn thu.
7


Hiện tại gia đình ông Đa Cát Ha Mang gồm có 05 người (vợ, chồng,  

2 con gái và 1 con trai). Vậy thu nhập bình quân/người/năm là: 11.087.000 
đồng.
Căn cứ với mức thu nhập trên, gia đình ông Đa Cát Ha Mang không  
thuộc hộ nghèo.
Tuy nhiên, vấn đề phức tạp và là mấu chốt quan trọng của vụ việc 
đó là trước thời điểm bình xét hộ nghèo ở xã 01 tuần, gia đình ông Đa Cát  
Ha Mang đón cha đẻ  và mẹ  đẻ  của vợ  ông Mang chuyển về  sinh sống 
cùng gia đình. Phía gia đình ông Mang cũng đồng tình và thống nhất với  
kết quả  khảo sát và tính tổng thu nhập được thể  hiện trong phiếu khảo  
sát nhưng ông không đồng tình với cách tính thu nhập bình quân cho 5 
người mà phải tính cho 7 người vì gia đình mới có thêm ông bà về  sinh 
sống.
Nhận thức của ông Mang về  tính thu nhập là chia cho 7 người. Vì 
vậy, nếu lấy tổng thu nhập cả  năm (đã trừ  chi phí) của cả  gia đình ông  
Mang cho thu nhập bình quân/người/năm là 7.919.285 đồng.
Với thu nhập trên thì gia đình ông Mang đương nhiên sẽ là hộ thuộc  
diện hộ  nghèo. Hơn nữa ông bà đã lớn tuổi không còn sức lao động (ông  
đã 77 tuổi, bà đã 76 tuổi). 
Trước tình hình trên thì Ủy ban nhân dân huyện Đam Rông đã cho cơ 
quan chức năng xuống kiểm tra và có phương án giải quyết.
II.  PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ
1. Nguyên nhân:
Qua xem xét nội dung đơn khiếu kiện thì mục đích của ông Đa Cát 
Ha Mang là khiếu nại để được công nhận là hộ  nghèo để  có được sự  hỗ 
trợ  phần nào cùa nhà nước đối với người nghèo, để  giảm bớt khó khăn  
trong cuộc sống. Về  nhận thức của ông Đa Cát Ha Mang trong tính thu 
nhập là tính cho 07 người. Nhận thức trên là do xuất phát từ sự thiếu hiểu  
biết của bản thân  ông Mang để  được  tính thu nhập trong gia  đình thì 
8



người đó phải có thời gian sinh sống trong gia đình tối thiểu 06 tháng. Bản  
thân ông Mang cũng không nhận thức được là tính chia cho 5 người hay 7  
người là đúng, nhưng rõ rằng ông biết được nếu chia tổng thu nhập của 
gia đình trong năm chia cho 7 người thì gia đình ông Mang sẽ là hộ nghèo.
Còn phía Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo bình xét hộ nghèo của Ủy 
ban nhân dân xã Đạ M’Rông trong quá trình khảo sát thu nhập của gia đình 
ông Mang và cách tính thu nhập chia cho 5 người là hoàn toàn chính xác và  
hợp lý.
Một nguyên nhân nữa có thể  đề  cập đó là văn bản của Nhà nước, 
của ngành chuyên môn phục vụ  hướng dẫn cho việc bình xét hộ  nghèo  
còn thiếu và quy định chưa rõ ràng. Ngoài các văn bản như Quyết định số 
59/2015/QĐ­TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư số 
17/2016/TT­BLĐTBXH ngày 28/6/2016 của Bộ Lao độmg Thương binh và 
xã hội, kế  hoạch của  Ủy ban nhân dân huyện thì cần có những văn bản 
của ngành chuyên môn hướng dẫn chi tiết, cụ  thể  hoặc sự  thống nhất  
chung trong các hội nghị tập huấn với những vấn đề  cụ  thể  như: Hướng  
dẫn để  khảo sát hết các nguồn thu, mức tính giá thành trong thời điểm 
khảo sát, một người có thời gian ở trong gia đình bao lâu thì được tính thu  
nhập trong năm, hoặc một gia đình sản xuất nông nghiệp nhưng có người  
lao động trong doanh nghiệp có thu nhập riêng nhưng không cộng vào thu 
nhập gia đình xử lý thế nào. 
Công tác bình xét  ở  xã khi thực hiện khảo sát từ  thôn thì không đủ 
các thành phần tham dự mà giao cho cán bộ  bình xét,  ủy ban nhân dân xã 
chưa chỉ  đạo chặt chẽ, trong khi đó cán bộ  bình xét hộ  nghèo phải thực 
hiện công việc này trong thời gian ngắn, áp lực nhiều nên khó tránh khỏi  
những sơ suất.
2. Hậu quả:
Sự việc gây mất uy tín của nhân dân vào Nhà nước, vào đội ngũ cán  
bộ  làm cơ  quan nhà nước.  Ảnh hưởng xấu về  nhiều thế  hệ  không trung  

thực trong công tác kê khai tài sản của mình, khó khăn cho việc khảo sát 
tài sản thực tế. 
9


Từ   những   nguyên   nhân   và   hậu   quả   trên   chúng   ta   cùng   tìm   các 
phương án giải quyết thấu tình đạt lý, bảo đảm tính nghiêm minh của  
pháp luật, đồng thời hợp với lòng dân.
III. MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Với tình huống đặt ra như  trên, nếu tính thu nhập cho 07 người thì 
gia đình ông Đa Cát Ha Mang thuộc hộ  nghèo và cha mẹ  vợ  đã già yếu 
không còn sức lao động lại sinh sống  ở  vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt 
khó   khăn   sẽ   được   xét   hưởng   chế   độ   bảo   trợ   xã   hội   theo  Nghị   định 
13/2010/NĐ­CP ngày 27/2/2010 của Chính phủ “về sữa đổi, bổ  sung một  
số điểm của Nghị định 67/2007/NĐ­CP ngày 13/4/2007 của Chính phủ trợ  
cấp các đối tượng bảo trợ xã hội”. 
Vấn đề  là cha mẹ  vợ  mới chuyển khẩu về  nhập vào gia đình ông 
Mang trước đó 1 tuần (cha mẹ vợ đã ở gia đình anh vợ gần 11 tháng); Vì  
vậy, nếu tính thu nhập của cha mẹ  vợ  vào gia đình ông Mang thì không 
thể được vì nguyên tắc một người được tính thu nhập trong năm phải có 
thời gian sinh sống, làm việc trong gia đình tối thiểu là 6 tháng. Hơn nữa, 
khi tiến hành họp thôn để  bình xét thì trường hợp ông Mang cũng thuộc 
diện đưa ra để  biểu quyết tại hội nghị, kết quả  là 146 hộ/146 hộ  trong 
thôn biểu quyết, tỷ  lệ  100% là hộ  ông Đa Cát Ha Mang đã thoát nghèo  
đồng thời xem xét hộ thuộc diện cận nghèo.
Tính phức tạp của sự việc còn thể hiện ở chỗ là theo  Quyết định số 
59/2015/QĐ­TTg ngày 19/11/2015 của Thủ  Tướng Chính phủ  ban hành 
chuẩn hộ  nghèo, hộ  cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2016­2020 thì ranh 
giới giữa hộ  nghèo và hộ  cận nghèo chỉ  300.000đồng/tháng, tức là hộ 
nghèo có thu nhập từ 700.000 đồng trở  xuống, hộ  cận nghèo từ  700.000đ 

đồng/tháng/người  đến 1.000.000 đồng/tháng/người. Vì vậy, ngoài tính thu 
nhập bình quân cho từng người đã quan trọng nhưng quan trọng hơn đó là  
khảo sát được hết các nguồn thu nhập trong năm, vì tổng thu nhập trong 
năm là số liệu để tính thu nhập bình quân cho từng người. Nếu giả sử 02  
gia đình có mức thu nhập như nhau nhưng trong quá trình khảo sát, hoặc 
gia đình không kê khai hết nguồn thu nhập hoặc cán bộ khảo sát có thể do  
10


thiếu sót hoặc vì lý do nào đó không khảo sát hết nguồn thu nhập thì kết 
quả  xếp loại sẽ  hoàn toàn khác. Hơn nữa căn cứ  vào phiếu khảo sát thì 
trong   08   tiêu   chí   để   tính   thu   nhập   theo   phụ   lục   của  Thông   tư   số 
17/2016/TT­BLĐTBXH ngày 28/6/2016 của Bộ Lao độmg Thương binh và 
xã hội thì 05 tiêu chí sau:
­ Trồng trọt: Cây lương thực, thực phẩm, ăn quả… Tính cả  sản 
phẩm bán ra và sản phẩm tiêu dùng trong gia đình.
­ Chăn nuôi: Gia súc gia cầm, cả sản phẩm bán ra và tiêu dùng.
­ Lâm nghiệp: Cả sản phẩm bán ra và tiêu dùng.
­ Thủy sản: Cả sản phẩm bán ra và tiêu dùng.
­ Tiền lương, tiền công.
05 tiêu chí này dễ  xác định và khảo sát để  tính thu nhập vì lượng  
hóa bằng diện tích gieo trồng, số  lượng  vật nuôi, khối lượng  gỗ, giá 
thành, tiền công, tiền lương hàng tháng, còn 03 tiêu chí sau:
­ Hoạt động dịch vụ nông nghiệp.
­ Các dịch vụ  sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp (Tính cả  sản 
phẩm bán ra và tiêu dung trong gia đình).
­ Các khoản thu khác (bao gồm các khoản thu từ  hái lượm, quà tặng,  
tiền gửi về từ nước ngoài, lãi tiết kiệm, tiền cho thuê nhà, lương hưu, trợ 
cấp).
03 khoản thu này thường có thu nhập cao so với sản xuất nông 

nghiệp nhưng rất khó khảo sát và tính thu nhập vì thường các gia đình 
kinh doanh các loại hình này không kê khai hết thu nhập.
IV. XÂY DỰNG, PHÂN TÍCH VÀ LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN 
GIẢI QUYẾT 
1. Cơ sở pháp lý:

11


Quy định tại Quyết định số  59/2015/QĐ­TTg ngày 19/11/2015 của  
Thủ  tướng chính phủ  ban hành chuẩn hộ  nghèo, hộ  cận nghèo áp dụng 
cho giai đoạn 2016­2020:
­ Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 700.000 
đồng/người/tháng (từ 8,4 triệu đồng/người/năm) trở xuống;
­ Hộ  nghèo  ở  khu vực Thành thị  có mức thu nhập bình quân  đầu 
người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống;
­ Hộ cận nghèo khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu 
người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng;
­ Hộ cận nghèo khu vực thành thị: là hộ  có thu nhập bình quân đầu 
người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng.
Mức chuẩn nghèo quy định nêu trên là căn cứ để thực hiện các chính 
sách an sinh xã hội và chính sách kinh tế, xã hội khác. Quyết định này có 
hiệu lực thi hành từ ngày 05/01/2016.
2. Xây dựng, phân tích phương án giải quyết:
Như  đã trình bày, việc giải quyết đơn khiếu kiện của ông Đa Cát 
Ha Mang có một số phương án xử lý sau:
­ Phương án thứ  nhất: Tính thu nhập bình quân của cả  hộ  trong 
năm cho 05 người và hướng dẫn cho gia đình ông các thủ  tục để  được  
hưởng các chính sách  ưu đãi từ  Nhà nước đối với người già yếu, người  
mất sức lao động như cha mẹ vợ của ông hoặc chính sách ưu đãi của Nhà  

nước đối với hộ cận nghèo trong trường hợp hộ ông Mang được xem xét 
công nhận là hộ cận nghèo năm 2018.
* Ưu điểm của phương án:
Nếu tính thu nhập cho 05 người thì đương nhiên gia đình ông Đa Cát 
Ha Mang không thuộc hộ  nghèo. Giải quyết theo hướng này thì rạch ròi,  
đúng nguyên tắc và đảm bảo các yếu tố pháp lý, thuận lợi cho cán bộ bình 
xét hộ  nghèo, tôn trọng kết quả  biểu quyết của thôn và kết quả  bình xét 
của Ban chỉ  đạo xóa đói giảm nghèo xã Đạ  M’Rông, huyện Đam Rông. 
Qua cách tính lấy tổng thu nhập của gia đình chia cho 05 người của Ban 
12


chỉ đạo xóa đói giảm nghèo xã Đạ M’Rông đã phản ánh phương pháp làm 
việc khoa học, đúng nguyên tắc.
* Hạn chế của phương án:
Nếu thực hiện theo phương án này, gia đình ông Đa Cát Ha Mang  sẽ 
không thuộc hộ nghèo và sẽ không được hưởng các chế độ chính sách đối  
với hộ  nghèo, điều này đúng với nguyên tắc và kỷ  cương của pháp luật.  
Trong thực tế, gia đình ông Đa Cát Ha Mang   tuy không thuộc hộ  nghèo 
nhưng thuộc nhóm hộ cận nghèo (Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức  
thu   nhập   bình   quân   từ   700.000   nghìn   đồng   đến   1.000.000  
đồng/người/tháng), như vậy gia đình ông không có điều kiện tiếp cận đầy 
đủ sự hỗ trợ của Nhà nước để giảm bớt khó khăn trong cuộc sống, vươn  
lên thoát nghèo, về  mặt tình thì vẫn có gì đó không hợp tình vì thực tế 
hoàn cảnh gia đình ông còn gặp nhiều khó khăn sinh sống  ở  vùng sâu,  
vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế ­ xã hội xuất phát điểm thấp.
­ Phương án thứ  hai:  tính thu nhập bình quân của hộ  trong năm 
chia cho 07 người.
* Ưu điểm của phương án
Nếu tính thu nhập cho 07 người thì gia đình ông Đa Cát Ha Mang sẽ 

thuộc hộ nghèo và gia đình ông sẽ được tiếp cận đầy đủ  với mọi chế độ 
chính sách hỗ trợ đối với người nghèo, như vậy chắc chắn không còn đơn 
khiếu kiện.
* Hạn chế của phương án
Nếu giải quyết theo phương án này chắc chắn sẽ  có sự  so sánh, 
phân bì hộ  này được hộ  kia không được thậm chí sẽ  có phản  ứng từ  các  
hộ khác, nhất là những ưu đãi cho hộ ông Mang, từ đó dẫn đến sự không  
đồng   thuận   của   nhân   dân,   gặp   khó   khăn   trong   công   tác   xóa   đói   giảm  
nghèo; nhân dân thiếu tin tưởng vào công cuộc đổi mới, chủ trương, chính 
sách của Đảng và Nhà nước; văn bản Nhà nước không được thực hiện 
nghiêm túc.
­ Phương an th
́ ư ba:
́
13


Tổ chức điều tra, rà soát, bình xét lại từ đầu đối với ông Đa Cát Ha  
Mang và các hộ khác trong thôn.
* Ưu điểm của phương án:
Hộ  ông Đa Cát Ha Mang là hộ  cận nghèo, giao nhau mức khoảng  
300.000đ so với hộ nghèo (theo quy định) nên việc bình xét hộ nghèo được  
triển khai làm lại thì hộ gia đình ông Mang sẽ là hộ nghèo, cùng với thêm 
một số hộ nữa trong xã Đạ M’Rông, vì thời điểm bình xét mới giá lúa, giá 
bán con bò hạ xuống mức thấp nhất vậy nên tính tổng thu của các hộ cận  
nghèo sẽ là hộ nghèo.
  Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với UBND xã 
Đạ  M’Rông tổ  chức điều tra, rà soát, bình xét lại từ  đầu đối với hộ  ông 
Đa Cát Ha Mang và các hộ khác trong thôn thì sẽ đảm bảo được tính công 
khai, minh bạch, dân chủ  và có sự  tham gia của người dân; đảm bảo lợi  

ích của nhân dân trong thời điểm hiện tại. Kết quả  giảm nghèo của thôn 
sau rà soát lại sẽ phản ảnh đúng thực chất.
* Hạn chế của phương án:
Với phương án này thì trước hết là hộ  nghèo trong xã Đạ  M’Rông 
có thể  tăng lên hoặc giảm xuống, gây khó khăn trong việc quản lý và hỗ 
trợ.
Điều này sẽ  dẫn đến phản  ứng của một số  cán bộ  trong Ban chỉ 
đạo giảm nghèo xã Đạ  M’Rông; gây tốn kém rất nhiều thời gian của  
nhiều người và tốn kém về kinh phí, và có thể là sự sai phạm của một số 
cán bộ  làm công tác xóa đói giảm nghèo, từ  đây tính chất phức tạp của 
việc bình xét hộ  nghèo hàng năm chuyển qua chiều hướng khác, với sự 
kiện tụng của các hộ dân tăng lên vì không tin tưởng vào cán bộ làm công  
tác xóa đói giảm nghèo.
3. Lựa chọn phương án để giải quyết
Qua 3 phướng án trên, xét ưu điểm cũng như hạn chế, để thực hiện  
đúng chủ  trương chính sách của Nhà nước,   pháp luật được thực hiện 
14


nghiêm minh; đảm bảo khách quan, công bằng trong bình xét hộ  nghèo 
năm 2018 và những năm tiếp theo, việc giải quyết đơn khiếu kiện của 
ông Đa Cát Ha Mang  cần thiết phải chọn phương án 1 là cách tính thu 
nhập cho 05 người,   đồng thời phải tiến hành giải thích, phân tích về 
nguyên tắc tính thu nhập bình quân cho 05 người một cách tường tận, cặn 
kẽ  cho các thành viên và đặc biệt là cách tính thu nhập của cha mẹ  vợ 
được thụ  hưởng chế  độ  bảo trợ xã hội, thẻ  BHYT và các chế  độ  ưu đãi 
khác liên quan, đối với người già yếu, người mất sức lao động.
V. LẬP KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN 
Bước 1.  Chuẩn bị  các văn bản để  phục vụ  cho tổ chức thực hiện  
phương án

Trước khi tổ  chức hội nghị để  giải quyết đơn khiếu kiện của ông 
Đa Cát Ha Mang cần chuẩn bị các văn bản sau đây:
+ Thông tư  số  17/2016/TT­BLĐTBXH ngày 28/6/2016 của Bộ  Lao 
độmg Thương binh và xã hội về hướng dẫn quy trình rà soát hộ nghèo, hộ 
cận nghèo hằng năm theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai 
đoạn 2016 – 2020.
+ Quyết định số  59/2015/QĐ­TTg ngày 19/11/2015 của Thủ  tướng  
chính phủ ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn  
2016­2020.
+ Biên bản họp xét hộ nghèo của thôn Đa Xế và xã Đạ M’Rông.
+ Phiếu rà soát hộ nghèo hàng năm (phụ lục số 3 của thông tư 17).
Bước 2.  Tổ chức lực lượng thực hiện.
+ Thành phần tham gia giải quyết đơn khiếu kiện của ông Đa Cát 
Ha Mang gồm:
. Đồng chí Trưởng phòng Lao động thương binh và xã hội huyện.
. Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo của xã Đạ M’Rông (những người  
trực tiếp làm công tác bình xét hộ nghèo) gồm: Đại diện Đảng ủy, Ủy ban 
15


nhân dân, trưởng các đoàn thể xã hội của xã, trưởng thôn và mời già làng  
hoặc những người có uy tín tại thôn cùng tham gia.
. Đại diện gia đình ông Mang, tốt nhất là người viết đơn.
Bước 3. Trình tự tổ chức hội nghị
+ Tổ chức hội nghị gồm đầy đủ những thành phần đã nêu ở trên.
. Chủ trì là đồng chí Trưởng phòng Lao động thương binh và xã hội 
huyện theo sự phân công của Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo của huyện.
. Tuyên bố lý do, mục đích hội nghị.
. Thông qua phiếu khảo sát và xếp loại của Ban chỉ đạo bình xét hộ 
nghèo đối với gia đình ông Đa Cát Ha Mang.

. Đại diện gia đình ông Đa Cát Ha Mang có ý kiến về kết quả khảo  
sát thu nhập và kết luận không thuộc hộ nghèo, các biên bản họp xét của 
thôn, xã.
. Các thành viên tham dự  cho ý kiến tập trung vào việc phân tích,  
giải thích, làm rõ các nội dung khiếu nại của gia đình ông Đa Cát Ha Mang 
để  đi đến thống nhất phương  án đã lựa chọn là tính thu nhập cho 05 
người và gia đình ông Mang không thuộc hộ nghèo năm 2018.
Thời gian diễn ra hội nghị phải hết sức chú ý sử dụng phương pháp 
đối thoại và gặp mặt trực tiếp. Tránh áp đặt vần đề từ phía cơ quan được  
giao trách nhiệm giải quyết đơn khiếu kiện, không khí hội nghị  phải cởi 
mở, thoải mái, gần gũi, không căng thẳng. Từng vấn đề  đặt ra để  phân 
tích từ đó đi đến kết luận cần có sự thống nhất của 2 bên. Thái độ  góp ý  
của người có trách nhiệm phải tôn trọng, nhẹ  nhàng, góp ý đúng trọng 
tâm, phân tích lý lẽ phải đảm bảo tính thuyết phục, dễ hiểu, thấu tình đạt 
lý. Kỹ năng điều hành của người điều hành phải khoa học, ứng xử nhanh  
nhẹn, không cứng nhắc.
Bước 4. Nội dung gợi ý tập trung phân tích.
Hội nghị sẽ tập trung vào 3 nội dung chính:
16


+ Tính tổng thu nhập của gia đình và thu nhập bình quân người  
trong năm, tính cho 05 người.
+ Giải thích về  chủ  trương, chính sách đối với người nghèo, nghĩa 
vụ  của gia đình và công dân trong chấp hành chủ  trương, chính sách của  
Đảng và Nhà nước.
+ Có thể  nêu một số  trường hợp tương tự  như  hoàn cảnh của gia 
đình ông Mang nhưng đã được giải quyết xong và họ  đã chấp thuận để 
khơi dậy ý thức chấp thuận quy định của Nhà nước.
Bước 5. Gợi ý các thành viên tham dự  hội nghị  phát biểu tập  

trung vào các nội dung cụ thể:
+ Đại diện của Đảng  ủy,  Ủy ban nhân dân cần tập trung phân tích 
lý do, nguyên tắc tính thu nhập của 05 người.
+ Đại diện của các tập thể  tập trung vào việc phân tích, giải thích 
vấn đề  lợi ích khi được xếp vào hộ  nghèo hoặc không được xếp vào hộ 
nghèo, đồng thời nêu bật được trách nhiệm của công dân trong việc chấp 
hành   chủ   trương,   chính   sách   pháp   luật   của   Đảng   và   Nhà   nước.   Nếu 
trường hợp gia  đình  ông Đa Cát Ha Mang  không chấp nhận thì già làng 
hoặc người có uy tín trong thôn có ý kiến tác động thêm.
Mục đích cuối cùng cần đạt được là qua phân tích gia đình ông Đa 
Cát Ha Mang chấp thuận cách tính và xếp loại không thuộc hộ  nghèo và 
chấp thuận một cách vui vẻ, không vướng mắc, thoải mái và không tiếp 
tục khiếu kiện nữa.
Việc ghi biên bản, ký biên bản làm việc phải có sự tham gia của đại  
diện gia đình và các thành viên tham dự, đồng thời chuẩn bị  báo cáo kết 
quả  giải quyết  đơn khiếu kiện cho Chủ  tịch  Ủy ban nhân dân huyện,  
thanh tra huyện theo thời gian yêu cầu.

PHẦN III: KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
I. KIẾN NGHỊ
17


Qua quá trình giải quyết sự  việc trên để  đảm bảo giải quyết thấu 
tình đạt lý. Để  thời gian sắp đến, công tác bình xét hộ  được tiến hành 
chính xác, công khai, dân chủ  không để  xảy ra tình trạng khiếu kiện, tôi 
xin mạnh dạn kiến nghị một số vấn đề như sau:
1.   Ngoài các văn bản của Trung  ương, của Bộ  Lao động thương  
binh và xã hội cần các văn bản hướng dẫn chi tiết. Những vấn đề mà văn 
bản không thể  quy định chi tiết được cần có sự  thống nhất chung trong  

các lớp tập huấn để phục vụ cho công tác bình xét hộ nghèo ở cơ sở một  
cách thuận lợi và chính xác.
2.   Đối với đội ngũ cán bộ  làm công tác bình xét nghèo cần phải 
nâng cao ý thức trách nhiệm phục vụ  nhân dân, không ngừng nâng cao  
trình độ chuyên môn, có sự đầu tư, nghiên cứu kỹ các văn bản hướng dẫn  
thực hiện một cách linh hoạt, chính xác phù hợp với điều kiện tại địa 
phương của mình, giải thích cặn kẽ ngay từ đầu năm những vấn đề  nhân  
dân hay vướng mắc để hạn chế tình trạng khiếu kiện nhất là khiếu kiện  
vượt cấp và khiếu kiện tập thể.
3.  Đối với Ban công tác Mặt trận và các chi bộ, đoàn thể ở thôn cần 
đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động nhân dân để  nhân dân hiểu rõ  
chủ  trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời gương mẫu 
chấp hành chủ trương, chính sách pháp luật. Biện pháp tuyên truyền phải 
thiết thực, trực quan để  đạt hiệu quả, làm được điều nay sau khi ban chỉ 
đạo bình xét hộ  nghèo, giải quyết xong đơn khiếu kiện tại xã (nếu có)  
chắc chắn sẽ không có đơn thư khiếu kiện lên cấp cao hơn.
4. Thực tế qua công tác bình xét hàng năm vẫn có tình trạng một số 
xã giao việc bình xét cho đồng chí Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, cán bộ 
Lao động thương binh xã hội và các đoàn thể  thực hiện. Tình trạng này 
nhanh chóng cần khắc phục. Các cấp  ủy Đảng, chính quyền cơ  sở  cần 
xác định rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác bình xét hộ  nghèo, nhận  
thức được tính phức tạp và coi đó là nhiệm vụ  của hệ  thống chính trị  cơ 
sở, tổ  chức chỉ  đạo bình xét khoa học, chặt chẽ  và chính xác giải quyết  
phát sinh một cách kịp thời.
18


II. KẾT LUẬN
Như  đã đặt vấn đề  ngay từ  đầu, công tác bình xét hộ  nghèo hàng  
năm nếu được thực hiện chính xác, dân chủ, công khai và khách quan thì  

mới chọn được đúng hộ nghèo để có những đầu tư, hỗ trợ từ nguồn ngân  
sách hỗ  trợ  của nhà nước. Văn bản của nhà nước phải được thực hiện 
nghiêm minh, kỷ  cương pháp chế  xã hội chủ  nghĩa được tăng cường. Sự 
đồng thuận, tin tưởng của nhân dân vào chủ trương, chính sách được củng 
cố; Việc giải quyết đơn khiếu kiện của ông Đa Cát Ha Mang trước hết 
nhằm mục đích phục vụ  cho việc bình xét hộ  nghèo tại thôn Đa Xế  nói 
riêng, xã Đạ M’Rông, huyện Đam Rông nói chung đảm bảo tính chính xác, 
công bằng, tăng cường pháp chế  xã hội chủ  nghĩa, đảm bảo chủ  trương,  
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống. Công tác 
bình xét hộ  nghèo là một trong những nội dung quản lý nhà nước đang 
được sự  quan tâm của nhân dân vì nó liên quan đến quyền và lợi ích của  
nhân dân trước hết là những hộ gia đình nghèo. Do đó công tác quản lý nhà  
nước đối với xã hội nói chung và đối với công tác xóa đói giảm nghèo cần  
được tăng cường.
Việc giải quyết đơn khiếu kiện của ông Đa Cát Ha Mang, mà tôi đã 
trình bày trong nội dung của tiểu luận có thể  còn có các biện pháp giải 
quyết khác song để  đảm bảo tính nghiêm minh và công bằng, chính xác. 
Do đó tôi đã lựa chọn phương pháp đã trình bày trong nội dung theo tôi đây 
là sự lựa chọn đúng và hy vọng rằng qua cách xử lý tình huống sẽ trang bị 
cho tôi thêm những bài học quý báu, đúc kết thêm kinh nghiệm trong quá 
trình công tác của bản thân. Mục tiêu cần đạt được là khách quan, công  
bằng và chính xác, kỷ cương được tăng cường, pháp chế xã hội chủ nghĩa 
được củng cố.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nghị định 13/2010/NĐ­CP ngày 27/2/2010 của Chính phủ “về sữa  

đổi, bổ  sung một số  điểm của Nghị  định 67/2007/NĐ­CP ngày 13/4/2007 
của chính phủ trợ cấp các đối tượng bảo trợ xã hội”.
2. Thông tư  số  17/2016/TT­BLĐTBXH ngày 28/6/2016 của Bộ  Lao 
độmg Thương binh và xã hội về hướng dẫn quy trình rà soát hộ nghèo, hộ 
cận nghèo hằng năm theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai 
đoạn 2016 – 2020.
3. Quyết định số  59/2015/QĐ­TTg ngày 19/11/2015 của Thủ  tướng 
Chính phủ ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 
2016­2020.

20


4. Quyết định số 2119/QĐ­UBND ngày 29/12/2017 của Ủy ban nhân 
dân huyện Đam Rông về việc phê duyệt kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận  
nghèo cuối năm 2017 trên địa bàn toàn huyện.
5. Quyết định số  131/QĐ­UBND ngày 29/12/2017 của  Ủy ban nhân 
dân xã Đạ  M’Rông về  việc công nhận kết quả  rà soát hộ  nghèo, hộ  cận  
nghèo cuối năm 2017 trên địa bàn xã.
6. Nghị  quyết Đại hội Đảng bộ  xã Đạ  M’Rông lần thứ  XI, nhiệm  
kỳ 2015 – 2020.
7. Báo cáo số 63­BC/ĐU ngày 14/5/2018 của Đảng ủy xã Đạ  M’Rông 
về  sơ  kết giữa nhiệm kỳ  thực hiện Nghị  quyết  Đại hội Đảng bộ  xã Đạ 
M’Rông khóa XI, nhiệm kỳ 2015 – 2020.
 
8. Báo cáo số 91/BC­UBND ngày 15/12/2017 của  Ủy ban nhân dân xã  
Đạ M’Rông về tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển KT­ XH năm 2017 và 
kế hoạch, nhiệm vụ phát triển KT­ XH năm 2018.
9. Báo cáo số 37 /BC­UBND ngày 11/06/2018 của  Ủy ban nhân dân xã 
Đạ  M’Rông về  tình hình phát triển KT­ XH 6 tháng đầu năm 2018 và kế 

hoạch, nhiệm vụ phát triển KT­ XH 6 tháng cuối năm 2018

21



×