Tải bản đầy đủ (.pdf) (233 trang)

Các vùng biển việt nam chế độ pháp lý và việc phân định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (40.45 MB, 233 trang )

Đ Ạ I H Ọ C Q U Ố C G IA H À N Ộ I

KHOA LUẬT
«

LÊ QUÝ ỌƯỲNH

C Á C V Ù N G B IỂ N V IỆ T N A M : C H Ế Đ Ộ P H Á P L Ý
V À V IỆ C P H Â N Đ ỊN H

C h u y ê n n g à n h : L ý lu ậ n N h à n ư ớ c v à P h á p q u v ề n
M ã số

: 50501

LUẬN ÁN T IẾN S ĩ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯ ỚNG D Ẫ N K H O A HỌC:

1. Nguyễn Đàng Dung
P h ó G iá o sư - T iế n s ĩ L u ậ t h ọ c

2. Nguyễn Bá Diên
P h ó G iá o sư -T iế n s ĩ L u ậ t h ọ c

Hà Nội -2003


MỤC LỤC
T rn n g p h ụ bìii
Lòi cam đo an


M ụ c lục
D an h II1IIC ó c ký h iệ u , các c h ữ viết tĩít
M ở ( l ầ u ..................................................................................................................................................... 5

CHƯƠNG 1:
C ơ sờ lý lu ậ n vể ch ế độ p h á p lv và p h â n đ ịn h các v ù n g biến .........................................10
1.1. Khái quát về các nguyên lắc điều chinh của pháp luậi quốc tố và pháp
luật quốc g i a ..................................................................................................................... 10
1.2. Lịch sử phát triển của luđt biến và các nguyên tắc cơ bàn của cồng ước
23
ỉ 982......... .... ......... ..... ............ ............ ...... ...... .......... ........... ...................
1.3. Dường c a sỏ và c h ế đỏ pháp lý các vùng biên theo Côn*:ước 1 9 8 2 ...................36
1.4. Phân định các vùng biển chổng lấn giữa các quốc g i a ........................................ 60
CHƯƠNG 2:
P h á p luật hiện h à n h cùa Việt N am vể c h ế đ ộ p h á p lý và thự c tr ạ n g p h â n định
các vùng b i ể n ...................................................................................................... ................................93
2.. 1.BCÍi cảnh chung của Bicn Đ ô n tì...................................................................................93
2.2. Đường cơ sở thẳng 1982 và ch ế độ pháp lý các vùng biển Việc N am ............. 97
2.3. Thực trạng phân định biển giữa Việi Nam với các nước..................................... 116
C H Ư Ơ N G 3:
P h ư ơ n g h ư ó ĩ i g , g i ả i p h á p h o à n t h i ệ n c h ế đ ộ p h á p lý v à
v ù n g b iể n

p h à n đ ịn h các

Việt N a m ............................................................................................................. 137

3. ]. Các nguyên tắc cơ ban hoàn thiện c h ế dộ pháp lý và phân đinh các vùng
biển Việl N am ................................................................................................................ 137
3.2. Phương hướng sửa đỏi hộ thống đường cơ sở và hoàn thiện chế độ pháp lý

các vùng biển Việt N am ...............................................................................................140
3.3. Giài pháp phàn định các vùng biển chồng lấn giữa Việt Nam với các nước
liên quan........................................................................................................................... 157
K ết ỉuụn và kiến n g h ị .................................................................................................................... 174
D an h m ụ c còng tr ì n h cù a tác g i ả .............................................................................................. 178
T ài liệu th a m k h à o ...„ .................................................................................................................... Í79
P h ụ l ụ c .................................................................................................................................................188


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

A FTA :

Khu vực Thương m ại Tự do ASEAN

A SEA N:

H iệp hội các Q uốc gia Đ ông N am Á

CEPT:
CHND:
CHXHCN:
C ông ước 1958:
Công ước 1982:
DCCH:
GTVT:
HQ N D V N :
KHKT:
LHQ
X T


Chương trình T h u ế quan Ưu đãi có H iệu lực chung
C ộng hoà N hân dân
C ộng hoà xã hội chủ nghĩa
C ông ước của Liên hợp quốc về L uật biển năm 1958
Công ước của L iên hợp quốc về L uật biển năm 1982
D ân chủ Cộng hoà
G iao thông vận tải
Hải quân N hân dân V iệt Nam
K hoa học kỹ thuật
Liên họp quốc

7"T'l

NXB:
W TO:

N hà xưất bản
Tổ chức Thương m ại T h ế giói


M ỏ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia có lợi thế vé biển với một bờ biển trải dài khoảng
3.260 km trên ba hướng: Đông, Nam và Tây Nam. Trung bình cứ 100 krrr diện tích
đất liền lại có 1 km bờ biển, tỷ lộ này thuộc vào loại cao so với tỷ lệ trung bình của
thế giới (600 km2 đất liền mới có một km bờ biển). Biển có một vai trò đặc biệt quan
trọng và gắn bó mật thiết với đời sống kinh tế, chính trị xã hội đối với mọi miền của
Việt Nam.
Trong xu thế chung phát triển của luật biển quốc tế, Việt Nam íà một trong
những nước đã phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.

Công ước này đã có hiệu lực bắt đầu từ ngày 16 tháng 11 năm 1994. Theo tinh thần
của Công ước và đổng thời phù hợp với Tuyên bố vể lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng
đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ngày 12/5/1977 và Tuyên bố về
đ ư ờng cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam ngày 12/11/1982, Việt Nam có

các vùng biển và thềm lục địa rộng gấp mấy lần diện tích đất liền với các loại tài
nguyên đa dạng và phong phú. Với diện tích và vị trí địa lý thuận lợi về biển, biển
của Việt Nam vừa là điều kiên để liên kết kinh tế giữa các vùng, các miền trong
nước, lại vừa là cửa ngõ thông thương của nước ta với nhiều khu vực khác trên thế
giới. Mật khác, tầm quan trọng, vị trí địa lý thuận lại và tài nguyên giầu có của Biển
Đông cũng là những nguyên nhân gây ra những tranh chấp phức tạp quyết liệt về
chủ quyển và các quyền lợi quốc gia trên biển giữa các quốc gia xung quanh Biển
Đóng.

1.

Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Là quốc gia đã phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982,
việc quy định chế độ pháp lý các vùng biển của mình phù hợp với quy định của
Công ước vừa là quyền lợi và vừa là nghĩa vụ của Việt Nam. Các nước xung quanh
Biển Đỏng đều đã đưa ra yêu sách các vùng biển của mình và hầu hết những yêu
sách này đều chổng lấn lén nhau. Tuyên bố ngày 12/5/1977 cùa Chính phủ Việt
Nam mới chỉ tuyên bố một cách nguyên tắc về các vùng biển Việt Nam nhưng chưa

5


vạch rõ giới hạn các vùng biển đó [2,tr.8-10J. Hệ thống các văn bản pháp quy về chế
độ pháp lý các vùng biến Việt Nam còn tản mát, chổng chéo và còn nhiều sơ hở nên

gây khó khăn cho việc khai thác, sử dụng, quản lý và bảo vệ các vùng biển. Ngoài
tranh chấp về chủ quyển rất phức tạp với Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa và với
Trung Quốc, Đài Loan, Ma-lai-xia, Phi-ỉip-pin trên quần đảo Trường Sa, Việt Nam
còn cần phải giải quyết phản định các vùng biển với In-đò-nê-xia, Ma-lai-xia, Thái
Lan (vùng 3 bên) và Cam-pu-chỉa. Cho đến nay Việt Nam mới giải quyết phân định
được với Thái Lan trong vịnh Thái Lan nãm 1997 và với Trung Quốc trong vịnh Bắc
Bộ năm 2000 [5], [33].
Việc quy định ranh giới, chế độ pháp lý các vùng biển thuộc chủ quyền,
quyền chủ quyển và quyền tài phán quốc gia và phân định biển là một quá trình rất
phức tạp. Nó đòi hỏi phải nghiên cứu rất kỹ các tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế,
thực tiễn quốc tế và các hoàn cảnh hữu quan. Đề tài nghièn cứu "Các vùng biển Việt
Nam: Chế độ pháp lý và việc phân định" là hết sức cấp thiết, có ý nghĩa thực tiễn
cao nhằm xác định ranh giới, chế độ pháp lý các vùng biển Việt Nam và cơ sở pháp
lý phân định biển giữa Việt Nam với các nước liên quan phù hợp với luật pháp và
thực tiễn quốc tế trong đó có Còng ước của Liên hợp quốc về Luật biển nám 1982,
góp phần tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc khai thác, sử dụng và bảo vệ các
vùng biển Việt Nam.

2.

Tình hình nghiên cứu đ ề tài

Nghiên cứu lý luận chung về nhà nước và pháp luật nói chung và vấn đề xác
định ranh giới và chế độ pháp lý các vùng biển nói riêng được nhiều nhà học giả trên
thế giới và ở Việt Nam quan tâm. Trong nước đã có nhiều công trình nghiên cứu về
các vấn đề này như: “Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước và Pháp luật”[26] và
“Một số vấn để cơ bản về luật quốc tế” [25] của Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp
luật; “Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật” của Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội [17]; “Giáo trình Luật quốc tế” của Trường Đại học Luật Hà
Nội[20]; các công trình nghiên cứu về Luật biển của cô Giáo sư Nguyễn Ngọc

Minh; "Vùng biển và quyền làm chủ" (Vũ Phi Hoàng, NXB Quân đội Nhãn dân -

6


Hà Nội 1978)[Ỉ2], "Luật Biển'1 (Phạm Giảng - NXB Pháp lý, Hà Nội 1983) [16],
"Thềm lục địa - Những vấn để pháp íý quốc tế” (Phạm Ngọc Chi - NXB Pháp lý, Hà
Nội 1990)[8]. Gần đây có hai luận án phó tiến sỹ là luận án của Phó tiến sỹ Trần
Công Trục: "Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với các vùng biển của
nước CHXHCN Việt Nam"[30] và luận án của Phó tiến sỹ Hoàng Trọng Lập:
'Tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa"[18] cũng có đề cập tới bối cảnh
tranh chấp trên các vùng biển và hai quần đảo trên Biển Đông nhung không đi sàu
vào nghiên cứu chế độ pháp lý các vùng biển Việt Nam và vấn đề phán định. Tiến sỹ
Nguyễn Hổng Thao đã bảo vệ luận án tiến sỹ luật quốc tế tại Pháp với đề tài "Việt
Nam đang đối mặt với vấn đề mở rộng biển"[l 14], Tác giả đã nghiên cứu về các vấn
để khó khăn mà Việt Nam gặp phải trước tình hình tranh chấp rất phức tạp trên Biển
Đông, đặc biệt là tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Ban Biên giới của Chính phủ thực hiện để tài nghiên cứu cấp nhà nước với mã
số KT03-19 "Cơ sờ khoa học cho việc phân định các vùng biển của Việt N am ” năm
1992 [3] và đề tài "Cơ sở khoa học cho việc xác định ranh giới ngoài của thềm lục
địa Việt Nam" (Vụ Biển phối hợp với Phân viện Hải dương học tại Hà Nội, 1994)
[4]. Hai đề tài này chỉ đề cập tới khía cạnh khoa học tự nhiên, các hoàn cảnh tự
nhiên trong Biển Đông tác động tới việc phân định biển giữa Việt Nam với các nước
và cơ sở khoa học tự nhiên cho viộc xác định ranh giói ngoài thềm lục địa Việt Nam.
Đề tài "Cơ sở khoa học cho việc xác định biên giới và ranh giới chủ quyền của
nước Việt Nam trên biển theo Công ước về Luật biển năm 1982", Mã số KHCN-0605, Đại học quốc gia Hà Nội, 1999[9], đưa ra các khái niêm chung nhất về việc
phân định các vùng biển theo Công ước 1982 và tập trung vào việc nghiên cứu đề
xuất việc bổ sung sửa đổi hệ thống đường cơ sở thẳng Việt Nam.
Mặc đù trên thế giới cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu để cập tói cơ sở
pháp lý của công tác hoạch định các vùng biển và thềm lục địa (thí dụ như tác giả

Gerard J. Tajia với cuốn sách "The legal determination of international maritime
boundaries", Nhà xuất bản Kỉuwer Law and Taxation Publishers - 1990 [67]; tác giả
Epsey Cooke Farrell "The Socialist Republic of Vietnam and the Law of the Sea”,
Martinus Nijhoff Publishers, 1998 [62]; Victor Prescot, Mark Valencia...) nhưng các

7


công trình này chưa trực tiếp đề cập sâu tới chế độ pháp lý các vùng biển Việt Nam
và phản định các vùng biển chổng íấn siữa Việt Nam với các nước trong khu vực.
Như vậy, đề tài này sẽ ỉà công trình nghiên cứu chuyên sâu vể ranh giới, chế
độ pháp lý các vùng biển Việt Nam và cơ sở pháp lý để phân định các vùng biển
chổng lấn giữa Việc Nam với các nước có kế thừa và tham khảo các công trình
nghiên cứu trong và ngoài nước khác.
3.

Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứ u cơ sở lý luận về việc điều chỉnh chế đ ộ pháp lý c á c v ù n g biển và
phân định biển bằng các quy phạm pháp luật quốc tế và quốc gia;
- Trên cơ sở các quy phạm pháp luật quốc tế và quốc gia phân tích, đánh giá
pháp luật hiện hành của Việt Nam về chế độ pháp lý các vùng biển Việt Nam và
thực trạng các vùng biển chổng lấn giữa Việt Nam với các nước có liên quan;
- Xuất phát từ đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt
Nam và trên cơ sở lý luận về việc điều chỉnh của các quy phạm pháp luật quốc tế và
quốc gia, đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện chế độ pháp lý và phân định
cá c v ù n g biể n V iệ t N am .
4.

Phương pháp nghiên cứu


Phương pháp ỉuận để nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử; phương pháp tiếp cận hê thống, phương pháp so sánh đối chiếu và phương
pháp xã hội học cụ thể.
5.

Những đóng góp mới của luận án

- Luận án đưa ra được phương án bổ sang và sửa đổi hệ thống đ ư ờ n g cơ sở
thẳng hoàn chỉnh khép kín ven bờ lục địa Việt Nam.
' Luân án đưa ra được ranh giới các vùng biển Việt Nam được tính toán trên
cơ sở hệ thống đường cơ sở mới đề xuất và phương hướng hoàn thiện chế độ pháp lý
các vùng biển này.
- Luận án đưa ra được các giải pháp phân định cụ thể các vùng biển chồng lấn
eiữa Việt Nam với các nước có liên quan.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tién của luận án
- Lý luận về việc điều chỉnh chế độ pháp lý và phàn định các vùng biển bằng

8


các quy phạm pháp luậl quốc tê' và quốc uia !à cơ sỏ dể xác định phươnu hướng, liiái
pháp hoàn thiện hệ thốne pháp luậl về biển của Việt Nam, eiái quyẽì các iranh chấp
nẩy sinh Iren bien uiửa Việt Nam với các nước có liên quan.
- V iệc phân tích các cơ sở pháp lý vạch dườriii cơ sở và x ác d ịnh c á c vùnu biển
c ù a V iệt N a m có the ih a m kháo dể n a h iê n cứu, đề x u ấ t sử a dổi, b ổ suns h ệ thố n«
đườniỉ c ơ

sờ ihẳn g c ủ a V iệ i N a m tu y ê n b ố n g ày 1 2 /1 1 /1 9 8 2 cho phù h ợ p với C ó n e


ƯỚC c ủ a L iê n hợ p q u ố c về L uật biển n ăm 1982 m à V iệt N a m đã phê c h u ẩ n đổnH thời
vẫn h á o vệ được q u y ề n lựí q u ố c tíia c ủ a V iệt N a m trôn biển.

- Việc phân lích các cơ sớ pháp lý xác định ranh aiới vù chế độ pháp lý các
vùn«! biển Việt Nam có ý nahĩa rất thực tiển dế các nhà hoach định chính sách và
pháp luậi của Việi Nam tham kháo khi nähien cứu phạm vi và chế độ pháp lý các
vùnu

biển

V

Việt
*

Nam,*

tạo
%

cơ sử pháp [ý vững chắc cho công tác khai thác, sử dụns, quản lý và bảo vệ biển của
Việt Nam.
- Việc niíhièn cứu và phân lích cơ sờ pháp lý phân định các vùne biển chổnũ
lấn tíiữa Việt Nam với các nước aóp phần củng cố Ihêm vữnu chắc lập trườnu pháp
lý của Việl Nam troníỊ đàm phán phân định, ùm ra một eiái pháp phân dịnh thích
hợp với các nước cổ lien quan, tạo mòi tnrờng ổn định và phát triển tốt Irong khu
vực.
- N g o à i ra, luận án c ó thế là m ột tài liệu th a m k h ả o tốt cho cô n g tá c n g h iê n
cứu k h o a h ọ c p h áp lý, p hục vụ cho c ô n s lác q u á n lý b iể n c ủ a các Bộ, n g à n h và các

d ịa p h ư ơ n g , làm tài liệu aiả n g d ậy tại các trư ờng đ ại học.
7. Kết

cảu của luận án.

M eoài p hần M ở đầu, lài liệu th a m k h ảo, phụ lục (các h ìn h vẽ), L u ậ n án g ồ m 3
c h ư ơ n a , m ỗ i c h ư ơ n u d ều có tiểu kết v à c u ố i c ù n g là ph ần k ế t luận c h u n g c ủ a cả
L uận án và c á c k iế n ntíhị.

9


CHƯƠNG 1
CO SỞ LÝ LUẬN VỂ CHÊ ĐỘ PHÁP LÝ VÀ PHẢN ĐỊNH
CÁC VÙNG BIỂN

1.1. KHÁI QUÁT VỀ CÁC NGUYÊN TẮC ĐlỀU CHỈNH CỦA PHÁP
LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP I.UẬT QUỐC CiĩA

1.1.1. Một sô khái niệm cơ bản về điều chỉnh cùa pháp luật quốc tế và
phá|> luật quốc gia
Điều 14 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 nèu
rõ: “Nước Cộng ỉioà x ã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách htìà bình, hữu
nghị, m ơ rộng giao lưu và hợp tác với (ất cá các nước trên th ế giói, không phân biệt
c h ế độ chính trị và x ã hội khác nhau, trên cơ sở tòn trọng độc lập. chủ quvển vờ
toàn vẹn lãỉìh thố' của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đắni> và các bên củng cố lọi; íâng cường tình đoàn kết hữu nghị vù quan hệ hợp tác
vói các nước xã hội chủ nghĩa và các nước lúng giềng; tích cực ủng hộ và góp phần
vào cuộc đấu tranh chung cùa nhân dân th ế giới vì hơà bình, độc lập cláỉì tộc , dán
chủ và liến bộ xã hội". Rõ ràng chúng ta đã xác định đúng tính chất của thời đại. xu

hướng phái trien tất yếũ của nhàn loại và đồ ra chính sách đối ngoại nhất quán, Việt
Nam [uôn luôn mong muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới - đó là phương
châm hành động của chúng ta trong việc thực hiện chính sách đối ngoại. Đáng ta đã
chi rõ: chúng ta phải mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thú sự đồng tình, ủng hộ và
giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh của dân lộc

VỚI

sức mạnh của thời

đại. động viên mọi nguổn lực bên trong là chính, đổng thời khai thác tốt nhũng điéu
kiện mới Irong quan hệ đối ngoại, tạo môi trường quốc tế thuận lợi và tranh thủ
những nhàn tố tích cưc phục vụ công cuộc xây dựng và báo vệ đất nước. Việc mớ
rộng quan hệ đối ngoại phải trên cơ sở giữ vững độc lập lự chủ, giữ gìn. phát huy
ban sắc dân tộc và truyền thống tốt đẹp của dân tộc[21, tr.15].
Q u a n h ệ q u ố c tế k h ỏ n g phải là cái gì đó bất hiến, m à luôn luôn thav đổi.

10


Quan hệ quốc tế thay đổi cùng với những thay đổi diễn ra trong tương quan lực
lượng trên thế giới. Các quan hệ quốc tế ớ mỗi giai đoạn phát triển đểu được điều
chỉnh bằng các nguyên tắc, quy phạm của pháp luật quốc tế. Do vậy, các nguyên tác
và quy phạm pháp luật quốc tế luôn luôn thay đổi. Lịch sử phát triển của các quan
hệ quốc tế và của pháp luật quốc tế đã chứng minh điểu đó. Nếu chỉ tính từ đầu thế
kỷ XX đến nay chúng ta đã thấy rõ bức tranh toàn cảnh của quan hệ quốc tế và của
pháp luật quốc tế. Trước Cách mạng tháng Mười Nga trong quan hệ quốc tế thịnh
hành sự bất công và bao lực. Chủ nghĩa đế quốc làm mưa, ỉàm gió. Chúng tự cho
minh quyền định đoạt số phận của các dân tộc trên thế giới, tự cho mình có quyển
phân chia thế giới phục vụ lợi ích của các tập đoàn tư bản độc quyền nhà nước. Pháp

luật quốc tế trước Cách mạng tháng Mười ỉà pháp luật của kẻ mạnh, của sự bất công.
Các nước châu Á, châu Phi và cháu Mỹ-Latin được coi là các nước ngoại biên và là
đối tượng của sự thôn tính thuộc địa của các nước tư bản chủ nghĩa. Trong những
điều kiện như vậy thì làm sao có thể nói vẻ sự công bằng, bình đẳng trong quan hệ
quốc tế, làm sao có thể nói về các nguyên tắc và quy phạm công bằng của pháp luật
quốc tế? Cách mạng tháng Mười vĩ đại đã mờ ra kỷ nguyên mới, chân trời mới cho
các dủn tộc bị áp bức trên toàn thế giới, đã đặt nền móng cho một trật tư pháp luật
quốc tê' mới. Sau chiến tranh thế giới lần thứ Hai, thế giới đã chuyển sang giai đoạn
phát triển mới. Tương quan lực lượng trên thế giới dã thay đổi về chất. Hiến chương
Liên Hợp Quốc đã được thông qua, đã đánh dấu một bước ngoặt trong quá trình phát
triển của quan hệ quốc tế và của pháp luật quốc tế. Pháp luật quốc tế không còn là
pháp luật của kẻ mạnh nữa (điều đó, về thực chất nằm ngoài ý muốn của các nước
phương Tây). Sau chiến tranh thế giới lần thứ Hai phong trào đấu tranh giành độc
lập dân tộc của các nước châu Á, chàu Phi và châu Mỹ-Latin đã thực sự trở thành
yếu tố' tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của pháp luật quốc tế và của quan hệ quốc
tế. Cách mạng Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung đó của nhân loại. Từ
một nước nửa phong kiến, nửa thuộc địa nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng và
của Chủ tịch Hổ Chí Minh đã thực hiện thành công cách mạng dân tộ c -d â n chủ,
đánh đuổi thực dân, xoá bỏ chế độ phong kiến, xây dựng một Nhà nước kiểu mới Nhà nước cồng - nóng đầu tiên ở Đóng - Nam châu Á. Quan hệ quốc tế của nước

II


Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã mang môt sắc thái mới.
Như vậy, có thể nói, quan hộ quốc tế mới đương nhiên dẫn đến việc hình
thành các nguyên tác và quy phạm mới của pháp luật quốc tế. Mặt khác, các nguyên
tắc và quy phạm mới của pháp luật quốc tế cũng sẽ đẫn đến sự xác lập các quan hộ
quốc tế mới. Mối quan hệ giữa quan hộ quốc tế và pháp luật quốc tế là mối quan hệ
biện chứng, có sự gắn bó với nhau chặt chẽ, tác động qua lại với nhau. Quan hệ quốc
tế ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, tức là không chỉ bao gồm các quan hệ trực tiếp

giữa các quốc gia với nhau mà còn bao gổm mối quan hệ giữa các quốc gia với các
tổ chức quốc tế, quan hệ giữa các tổ chức quốc tế với nhau. Sự tham gia của các tổ
chức quốc tế vào các quan hệ quốc tế không làm ảnh hưởng, thay đổi tính chất liên
quốc gia của các quan hệ quốc tế. Suy cho cùng thì bản thân các tổ chức quốc tế là
diễn đàn hợp tác của các quốc gia, nhiệm vụ cơ bản của các tổ chức quốc tế là thúc
đẩy sự hợp lác giữa các quốc gia. Trong đời sống quốc tế hiện nay quan hệ giữa các
quốc gia trên các lĩnh vực khác nhau có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, và mọi
sự hợp tác đều phải phục vụ một mục tiêu chung: vì hoà bình, an ninh thế giới, vì sự
tiến bộ xã hội, vì tự do và hạnh phúc của tấĩ cả các dân tộc.
Hệ thống luật pháp quốc gia điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong phạm
vi nội bộ quốc gia bao gồm các quan hệ xã hội về chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo
dục, khoa học, côns nghệ, quốc phòng, an ninh; các quan hệ xã hội giữa Nhà nước
và công dân; các quan hệ phát sinh trong việc xây dựng, tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước.
Pháp luật quốc tế điều chỉnh các quan hệ xã hội nhất định phát sinh trong
sinh hoạt quốc tế như quan hệ chính trị, kinh tế, khoa học - kỹ thuật, văn hoá v.v.
giữa các quốc gia, giữa các quốc gia với các tổ chức quốc tế liên chính phủ. Những
quan hệ chính trị và khía cạnh chính trị của quan hệ kinh tế, khoa học - kỹ thuật,
vãn hoá v.v. nêu trên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật quốc tế hiện đại.
Trong sinh hoạt quốc tế còn phát sinh các mối quan hệ dân sự mà các bên
tham gia là các thể nhân, pháp nhân, thậm chí cả quốc gia, tổ chức liên chính phủ.
Những quan hệ xã hội này thuộc phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Như vậy
pháp luật quốc tế không điều chỉnh tất cả các mối quan hệ phát sinh trong sinh hoạt

12


quốc tế mà chí điều chỉnh quan hệ chính trị hoặc khía cạnh chính trị của quan hệ
kinh tế, khoa học - kỹ thuật và văn hoá giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế liên
chính phủ[20, tr. 15].

Chủ í h ể pháp luật là (hể nhân và pháp nhân nhất định được pháp luật cống
nhận có quyền năng chủ thể. Mỗi ngành pháp luật đều có đặc trưng của mình về chủ
thể. Đạc trưng đó hình thành trên cơ sơ tính chất và đặc điểm các mối quan hệ xã
hội do ngành pháp luật đó điều chỉnh.
Chủ thể pháp luật quốc gia là những cá nhân, tổ chức có khả năng trở thành
các bên tham gia quan hộ pháp luật, có được những quyền và nghĩa vụ pháp lý trên
cơ sở những quy phạm pháp luật[17, tr.394].
Quan hệ quốc tế là quan hệ giữa các quốc gia nên chủ thể của pháp luật quốc
tế hiện đại chủ yếu phải là quốc gia. Những quan hộ giữa các quốc gia ngày nav dù
đó ỉà quan hệ chính trị, kinh tế, khoa học - kỹ thuật hay văn hoá, đều ỉà quan hệ dựa
trên cơ sở tõn ưọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng giữa các quốc gia. Mỗi quốc gia,
dù lớn hay nhỏ, dù giàu hay nghèo, phát triển hay đang phát triển đều là mỗi thực
thể độc lập, có chủ quyển và bình đẳng với mọi quốc gia khác trong quan hệ quốc
tế. Các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập mà đại diện là các mặt trận giải phóng
dân tộc cũng là chủ thể của pháp luật quốc tế hiên đại nhưng là chủ thể đặc biệt, là
quốc gia độc lập đang trong quá trình hình thành. Các tổ chức quốc tế liên chính phủ
do các quốc gia thoả thuận thành lập phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật quốc tế hiện đại cũng là chủ thể của pháp luật quốc tế hiện đại nhưng chỉ là chủ
thể hạn chế. Các tổ chức quốc tế liên chính phủ không phải là quốc gia hay đứng
trên quốc gia mà chỉ có một số quyền hạn chế do các quốc gia thành viên thoả thuận
quy định[20, tr.lố].
Thể nhân và pháp nhân không thể là chủ thể của luật quốc tế hiện đại, không
thể xếp ngang hàng với các quốc gia - các thực thể độc lập, có chủ quyền. Đó chính
là điểm khác với tư pháp quốc tế. Chủ thể của tư pháp quốc tế gồm thể nhàn và pháp
nhân. Quốc gia chỉ là chủ thể đặc biệt của tư pháp quốc tế[20, tr.16].
Nhu vậy có thể định nghĩa một cách tổng quát: “Chủ thể luật quốc tế là
những thực thể đang tham gia (hoặc có khả năng tham gia) vào quan hệ quốc tế một

13



cách độc lập, có đầv đủ quyền và nghía vụ quốc tế cũng như thực hiện mội cách độc
lập các quvền và nghĩa vụ quốc tế đó trên cơ sở các quy phạm luật quốc tế” [24,
tr.30-31].
Nguồn của pháp luật là hình thức biểu hiện của các nguyên tắc và quy phạm
pháp luật. Các nguyên tắc và quy phạm của pháp luật quốc gia cũng như của pháp
luật quốc tế tổn tại dưới hai hình thức: thành vãn và không thành vãn. Nguồn thành
văn của pháp iuật quốc gia là các vãn bản quy phạm pháp luật đo các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành mà trong đó Hiến pháp ỉà nguồn chủ yếu và quan
trọng nhất. Nguổn thành văn của luật quốc tế là các điều ước quốc tế ký kết giữa hai
hay nhiều chủ thể pháp luật quốc tế. Điều ước quốc tế không phải ỉà nguồn cùa pháp
luật quốc gia[20, tr.17).
Nguồn khống thành văn của pháp luật quốc gia là những tập quán được chính
quốc gia thừa nhận và bảo đảm thi hành trong nội bộ quốc gia. Nguồn không thành
văn của pháp luật quốc tế là những tập quán quốc tế được các quốc gia cùng thừa
nhận một cách rộng rãi và áp dụng làu dài trong thực tiễn quan hệ quốc tế.
V ề bản chất, pháp luật quốc gia thể hiện và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm
quyền của quốc gia đó trên cơ sở tưcmg quan lực lượng của cuộc đấu tranh giai cấp
trong nội bộ quốc gia ờ từng giai đoạn phát triển kinh t ế - x ã hội. Moi khi có sự Ihay
đổi ỉớn về các mặt của đời sống xã hội, về tương quan lực lượng trong cuộc đấu
tranh giai cấp thì nội dung của pháp luật quốc gia, cách thể hiện và bảo vệ lợi ích
của giai cấp cầm quyền cũng có sự thay đổi tương ứng[20, tr.21]Pháp luật quốc tế hiện đại thể hiện sự thoả hiệp về lợi ích của các quốc gia
tham gia quan hệ quốc tế, trẽn cơ sở tương quan íực lượng giữa các quốc gia, giữa
các giai cấp cầm quyền của các quốc gia trong quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh
với nhau. Pháp luật quốc tế còn thể hiện xu thế phát triển và kết qủa đấu tranh chung
của các lực lượng vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trong từng
giai đoạn phát triển của xã hội quốc tế hiện đại[20, tr.21 ].
V ề bảo đảm thi hành, trong phạm vi quốc gia, các nguyên tắc và quỵ phạm
pháp ỉuật do cơ quan có thẩm quyền của quốc gia đặt ra hoặc chấp nhận những tập
quán nhất định, ràng buộc mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội và được quốc gia


14


đảm bảo thi hành. Luật quốc tế là tổng hợp các nguyôn tắc và quy phạm pháp luật
nhằm điều chỉnh các mối quan hệ chính trị, kinh tế, văn hoá... giữa các quốc gia,
giữa các quốc gia với các tổ chức liên chính phủ. Các nguyên tắc và quy phạm của
luật quốc tế đo các quốc gia thoả thuận xây dựng bằng cách ký kết các điều ước
quốc tế hoặc cùng chấp nhận áp dụng những tập quán nhất định đã hình thành trong
quan hệ giữa các quốc gia.

Nói một cách khác, để điều chỉnh quan hệ quốc tế,

không có một cơ quan nào đứng trên các quốc gia để đặt ra pháp luật để bắt các
quốc gia phải tuân theo. Các quốc gia, chủ thể chủ yếu của luật quốc tế hiện đại, là
các thực thể độc lập, có chủ quyền, bình đẳng với nhau trong quan hệ quốc tế. Do
vậy cũng không một quốc gia nào có quyền đặt ra pháp luật bắt các quốc gia khác
phải tuân theo. Các quốc gia tham gia thoả thuận các xây dựng các nguyên tắc và
quy phạm pháp ỉuật quốc tế có trách nhiệm thoả thuận quy định các biện pháp
cưỡng chế cần phải được áp dụng[20, tr.21].

1.1.2.

Môi quan hệ qua lại và vấn đề chuyển hoá pháp luật quốc tê vào

pháp luật quốc gia
Trong khoa học pháp lỷ quốc tế một trong những vấn để quan trọng luôn
được đề cập tới là vấn đề về mối quan hệ qua lại giữa pháp luật quốc tế và pháp luật
quốc gia, hay còn gọi là mối tương quan giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc
gia. Vấn đề này ngày càng có ý nghĩa quan trọng đối với các cơ quan của các quốc

gia và ở mức độ nhất định là đối với cá nhân. Thực tế cho thấy rằng hiện nay ở nước
ta cũng như nhiều nước trên thế giới các công trình nghiên cứu về luật quốc tế còn
quá ít so với luật quốc gia và việc đào tạo các luật gia chuyên ngành luật quốc tế
cũng ít hơn rất nhiều so với việc đào tạo các chuyên ngành luật quốc gia. Đối khi
người ta nói đến pháp luật quốc tế chỉ thuần tuý dưới góc độ chính trị mà chưa thấy
hết hiệu quả của pháp luật quốc tế. Chính vì lý do đó mà hiệu quả của sự điều chỉnh
pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia không được như mong muốn. Trong những
điều kiện hiện nay khi giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, sự tuỳ thuộc vào nhau
giữa các quốc gia ngày càng nhiều thì việc xác định mối tương qua giữa pháp luật
quốc tế và pháp luật quốc gia ngày càng có ý nghĩa quan trọng.
Bản thân mối quan hộ qua lại mật thiết giữa các quan hệ trong mỗi quốc gia

15


do pháp luật quốc gia điều chỉnh và các quan hệ quốc tế, quan hệ giữa các quốc gia
do pháp luật quốc tế điều chính. Pháp luật quốc tế được đề cập ở đây bao gồm cả
pháp luật quốc tế chung, mang tính toàn cầu và pháp luật quốc tế điều chỉnh mối
quan hệ giữa các quốc gia trong mỗi khu vực địa lý nhất định đều có mối quan hệ
mật thiết với pháp luật của mỗi quốc gia. Chẳng hạn, các điểu ước quốc tế được ký
kết trong phạm vi Liên hợp quốc đương nhiên có tác động nhiều đến pháp luật quốc
gia của các nước thành viên; các cam kết trong khuôn khổ ASEAN tất yếu sẽ tác
động trực tiếp đến pháp luật của các quốc gia Đông Nam Á, trons đó có Việt Nam.
Việc cam kết tham gia xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA và thực
hiện CEPT đương nhiên dẫn tới việc sửa đổi pháp luật về thuế quan của Việt Nam.
Khi chúng ta tham gia WTO thì tất yếu phải sửa đổi pháp luật cho phù hợp. Việc tự
do hoá thương mại có liên quan nhiều tới pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
Khi thế giới đã nối chung mạng Internet thì ranh giới giữa pháp luật quốc tế và pháp
luật quốc gia ngày càng mờ nhạt. Nói như vậy không có nghĩa là đến một ngày nào
đó pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia sẽ hoàn toàn thống nhất với nhau, sẽ là

một nhất thể, sẽ không có sự phân biệt. Pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia vẫn
tồn tại như hai hệ thống với những đặc điểm riêng và có mối liên hệ qua lại với
nhau.
Mối tương quan giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia thể hiện ở các
mặt sau:
Một là, pháp luật quốc tế tác đ ộ n g tới sự phát triển của pháp luật quốc gia.
Hai lả, pháp luật q u ố c gia thúc đẩy q u á trình phát triển của pháp luật q u ố c tế.
Ba là, pháp luật quốc gia là phương tiện chuyển tải pháp luật quốc tế, là điều
kiện bảo đảm thực hiện pháp ỉuật quốc tế.
Pháp luật quốc tế không có hiệu lực thi hành trực tiếp trong phạm vi lãnh thổ
của quốc gia. Luật quốc tế muốn được thi hành trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, có
hiệu lực đối với thể nhân và pháp nhân của các quốc gia cần phải được chuyển hoá
vào pháp luật quốc gia.
Hiến pháp Việt Nam và Pháp lệnh về ký kết và thực hiện Điều ưóc quốc tế
nãm 1998 khỏng có quy định cụ thể, rõ ràng về việc chuyển hoá điều luật quốc tế

16


vào nội luật Việt Nam nhưng đã khẳng định nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam nghiêm chỉnh tuân thủ điều ước quốc tế mà mình ký kết hoặc tham gia, đổng
thời đòi hỏi các bên ký kết hoặc tham gia khác cũng phải nghiêm chỉnh tuân thủ
điều ước quốc tế đã ký hoặc cùng tham gia với Việt Nam[19]. Tuy nhiên, thực tiễn
thực hiện các điều ước quốc tế của Việt Nam đã có hai phương thức là phương thức
đưa vào nội luật một số điều ước như điều ước khuyến khích, bảo hộ đầu tư, tránh
đánh thuế hai lần... qua áp dụng trực tiếp (thừa nhận trực tiếp của điều ước quốc tế)
và phương thức ban hành vãn bán để nội luật hoá (như chuyển hoá một số điều ước
về quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao - ỉãnh sự trong pháp lệnh về quyền ưu đãi,

miền trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện

của tổ chức quốc tế tại Việt Nam ngày 23/8/1993)[27, tr.92].

1.1.3. Thực tiễn mối quan hệ giữa luật biển quốc tế và luật biển Việt Nam
Luật biển quốc tế và luật biển quốc gia có mối quan hệ biện chứng và được
thể hiện rất rỗ trong suốt quá trình phát triển của hai hệ thống luật này. Thực tiễn
quốc gia trong việc khai thác và bảo vệ biển đã yêu cầu quốc gia phải định ra hệ
thống luật pháp của mình nhằm bảo vệ các quyền lợi quốc gia và điều chỉnh các mối
quan hệ trên biển. Chính luật pháp quốc gia về biển đã tạo ra các thực tiên quốc tế
và giúp hình thành và phát triển luật biển quốc tế thống qua quá trình đàm phán,
soạn thảo, thông qua các văn bản luật quốc tế về biển. Sau khi được các quốc gia
thành viên ký kết, phé chuẩn hoặc íham gia, luật biển quốc tế có hiệu ỉực bắt buộc
đối với các quốc gia này và đồng thời nó cũng có giá trị là luật tập quán đối với các
quốc gia không phải là thành viên tham gia. Đến luợt mình, các quốc gia tham gia
các công ước quốc tế về biển có trách nhiệm thi hành và điều chỉnh hệ thống luật
pháp q u ố c gia củ a mình cho phù hợp VỚI các c ô n g ước q u ố c t ế mà mình đ ã tham gia.
Đối với các quốc gia không tham gia công ước nhưne cũng tham khảo các quy định
của công ước để xây dựng luật quốc gia của mình và đàm phán giải quyết các tranh
chấp với các quốc gia có liên quan. Mối quan hệ biện chứng này có thể được diễn
giải bàng sơ đồ sau:

17


Mối quan hệ biộn chứng, ràng buộc giữa luật biển quốc tế và luật biển quốc
gia được thể hiện rõ ràng qua việc luật quốc gia ảnh huởng tới sự hình thành và phát
triển của luật biển quốc tế và ngược lại, luật biển quốc tế thường xuyên thúc đẩy sự
phất triển và hoàn thiện luật biển quốc gia. Hơn thế nữa do bản chất quốc tế rất đặc

thù của biển mà luật biển quốc tế hiện đại cụ thể là Công ước của Liên hợp quốc về
luật biển 1982 và luật quốc gia không chỉ dừns lại ở chỗ tác động qua lại lẫn nhau,

thúc đẩy nhau phát triển mà chúng còn tạo điếu kiện đảm bảo cho nhau trong quá
trình thực hiện.
Ngày nay việc các quốc gia mở rộng phạm vi các vùng biển và quy định chế
độ pháp lý các vùng biển đều có thể đụng chạm tới quyển lợi của các quốc gia khác.
Do vậy, việc xây dựng và thực hiện tốt các quy phạm của luật biển quốc tế cụ thể là
Cồng ước 1982 là điều kiện đảm bảo có hiệu quả các quy phạm tương ứng của luật
pháp quốc gia và ngược lại. Nói một cách khác, luât của các quốc gia ven biổn nói
chung, của Việt Nam nói riêng chỉ có thể thực thi được khi nó được xây dựng phù
hợp với các quy phạm pháp ỉý quốc tế được thừa nhận. Khi quốc gia ven biển cố tình
áp đặt các quy phạm pháp lý quốc gia trái với các quy phạm pháp lý và thực tiễn
quốc tế chung sẽ không được các quốc gia khác thừa nhận và tón trọng. Việc làm
như vậy có thể gãy ảnh hưởng tới quan hệ ngoại giao giữa quốc gia ven biển với các
quốc gia có liên quan và cộng đồng quốc tế nói chung. Ví dụ trong việc quy định
đường cơ sở thảng dùng để tính chiều rộng lãnh hải, quốc gia ven biển càn cứ vào
hoàn cảnh địa lý cụ thể của mình, vận dụng luật pháp và thực tiễn quốc tế để đưa ra
hệ thốn» đường cơ sở thẳng quốc gia. Đường cơ sở này nếu phù hợp với các quy
phạm và thông lệ quốc tế chung sẽ được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tồn trọng,
ngược lại nó sẽ bị các quốc gia khác phản đối, không thừa nhận và rất khó đảm bảo
thi hành đối với các tàu thuyền và phương tiện của các quốc gia này. Tương tự như

18


vậy, việc xây dựng chế độ pháp lý các vùng biển thuộc chủ quyền, quvền chủ quvền
và quyền tài phán quốc gia cũng cần phải phù hợp với quy định của luật pháp quốc
tế mà cụ thể là Cống ước 1982 dù quốc gia đó có không phải là thành viên của Công
ước vì chỉ như vậy mới được quốc tế thừa nhận và có hiệu lực thực thí trên thực tế.
Việc đàm phán phân định các vùng biển chồng lấn và giải quyết các tranh chấp trên
biển giữa các quốc gia lại càng cần phải dựa trên quy phạm pháp lý quốc tế được
thừa nhận chung thì mới có thể đi tới giải pháp cống bằng và được quốc tế thừa

nhận.
Luật quốc gia cũng có vai trò quan trọng đối với quá trình phân định và giải
quyết các tranh chấp trên biển ỏ 4 khía cạnh sau:
Luật quốc gia quy định ranh giới và chế độ pháp lý các vùng biển thuộc
chủ quyển, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia. Tuy nhiên, các quy định
cùa luật quốc gia này phải phù hợp với các quy phạm chung của luật pháp và thực
liễn quốc tế thì mới có giá trị pháp lý trong quan hộ quốc tế.
Sự tham gia của quốc gia vào các công ước và điều ước quốc tế. Khi quốc
gia là thành viên của công ước và điều ước quốc tế nào thì công uớc hoặc điều ước
quốc tế đó có hiệu lực ràng buộc. Và khi các bên tranh chấp đều là thành viên của
công ước chung nào đó thì các quy phạm pháp lý có liên quan của công ước đó sẽ là
căn cứ pháp ỉý chung để phán định các vùng biển và giải quyết các tranh chấp nẩy
sinh trên biển.
Lập trường pháp lý đuợc thể hiện trong luật quốc gia và trong đàm phán
phân định và giải quyết tranh chấp với các quốc gia liên quan phải nhất quán trong
mọi trường hợp và với các quốc gia khác nhau. Thí dụ lập trường pháp lý phàn định
biển và giải quyết các tranh chấp trên biển đã được Nhà nước Việt Nam khẳng định
qua các tuyên bố của Quốc hội, của Chính phủ được thể hiện một cách nhất quán ờ
tất cả các diễn đàn đàm phán với các nước liên quan.
Luật quốc gia quy định thủ tục pháp lý và Ihẩm quỵền ký kết và phê
chuẩn hiệp định, hiệp ước phân định biển hay các thoả thuận giải quyết tranh chấp
khác.
Thực tiễn cho thấy sự giao Lhoa, đan chéo nhau giữa luật biển quốc gia và luật

19


biển quốc tế là không thể thiếu được trong suốt quá trình phát triển và nó được thực
hiện liên tục qua các hoạt động quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước có
liên quan và các tổ chức quốc tế.

Sự đóng góp của luật pháp quốc gia vé' biển của Việt Nam đối với ỉuật biển
quốc t ế
Có thể nói Việt Nam là môt quốc gia có sự tham gia rất muộn mằn so với các
quốc gia phát triển khác nhưng cũng đã thể hiện vai trò ảnh hưởng tới quá trình hình
thành và phát triển của ỉuật biển quốc tế. Cũng như các quốc gia khác, Việt Nam đã
cố gắng đưa vào luật biển quốc tế những ảnh hưởng và hướng điều chỉnh theo luật
pháp quốc gia để bảo vệ lợi ích tối đa của mình trên biển. Năm 1958, Việt Nam
Cộng hoà đã tham gia Hội nghị lần thứ nhất của Liên hợp quốc về Luật biển tại
Giơnevơ với danh nghĩa là một quốc gia ven biển[29, tr.27]. Tại Hội nghị này Việt
Nam cùng với các quốc gia khác có cùng quyền lợi tập trung đấu tranh mở rộng
vùng đánh cá và íhềm lục địa thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia.
Do các quan điểm của mình không được chấp nhận nén Việt Nam Cộng hoà đã
không ký kết các công ước về luật biển năm 1958[29, tr.28]. Song song với việc tích
cực tham gia trong Hội nghị lần thứ nhất của Liên hợp quốc về luật biển năm 1958,
theo xu thế phát triển chung của luật biển quốc tế Việt Nam Cộng hoà cũng đã đưa
ra các quy định bảo vệ quyền lọi quốc gia trên biển bàng các tuyên bố về bảo vệ
lãnh hải năm 1965, Luật dầu khí nãm 1970 và Nghị định phân lô dầu khí năm
1971 [28, tr.28-29]. Đường phân lô dầu khí nãm 1971 của Việt Nam Cộng hoà dựa
trên đường cách đều là phương pháp rất phổ biến trong thực tiễn quốc tế và là được
phương pháp phân định được ghi nhận trong các công ước 1958 để các quốc gia giải
quyết phân định các vùng biển chổng lấn.
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng đã giành sự quan tâm đặc biệt
tới vấn đề bào vệ các vùng biển của mình nhưng do đang phải tập trung vào công
cuộc đấu tranh giải phóng thống nhất đất nước nén chưa đưa ra được các luật hoặc
quy định cụ thể về biển. Sau khi đất nước thống nhất, Chính phủ nước CHXHCN
Việt Nam đã ra tuyên bố ngày 12/5/1977 về các vùng biển của Việt Nam phù hợp
với xu hướng phát triển chung của luật biển quốc tế và quan điểm này của Việt Nam

20



được thể hiện rõ trong quá trình tham gia vào Hội nghị lần thứ 3 của Liên hợp quốc
về luật biển bắt đầu từ ngày 2/7/1976 và góp phần hình thành Cóng ước của Liên
hợp quốc về Luật biển 1982. Tại Hội nghị này Việt Nam ủng hộ quan điểm thiết lập
lãnh hải 12 hải lý, vùng đặc quyển kinh tế 200 hải lý và thềm địa pháp lý dựa trên sự
kéo dài tự nhiên của thềm lục địa không vượt quá giới hạn tối đa 350 hải lý[29,
tr.31]. Về phân định các vùng biển chổng lấn giữa các quốc gia Việt Nam cũng
tham gia nhóm 29 ủng hộ nguyên tắc công bằng trong phân định. Những đóng góp
trên của Việt Nam sau đó đều được chứa đựng trong các điều khoản của Công ước
1982 về chế độ pháp lý và phân định các vùng biển.
Tác động của luật biển quốc tế đối với luật pháp quốc gia về biển của Việt
Nam và giải quyết mối quan hệ giữa ỉuật quốc tế vả luật quốc gia trong điều kiện cụ
thể ở Việt Nam.
Mặc dù không tham gia các công ước năm 1958 nhưng trước khi Công ước
1982 ra đời, Viêt Nam đã vận dụng các quy định của luật biển quốc tế để quy định
hệ thống luật pháp quốc gia của mình. Ngoài Tuvẻn bố của Chính phủ năm 1977 về
các vùng biển của Việt Nam, Việt Nam còn có hàng loạt các quy định về biển khác
như Nghị định 30/CP ngày 29/1/1980 điều chỉnh các hoạt động của tàu thuyền nước
ngoài trong các vùng biển Việt Nam, Nghị định 31/CP ngày 29/1/1980 điều chỉnh
các hoạt động nghề cá của tàu thuyên nước ngoài trong các vùng biển của Việt Nam
và Tuyên bố ngày 12/11/1982 vể hệ thống đường cơ sở thẳng của Việt Nam ngay
trước khi Việt Nam ký kết Công ước 1982 vào ngày 10/12/1982. Sau khi phê chuẩn
Công ước 1982 vào ngày 23/6/1994, Việt Nam có nghĩa vụ thi hành Công ước một
cách trực tiếp hoặc thông qua hệ thống luật pháp quốc gia về biển của mình.
Quy định về chế độ pháp lý các vùng biển của Việt Nam là những quy định cơ
bản rất quan trọng liên quan trực tiếp tói chù quyền, quyền chủ quyền và quyền tài
phán quốc gia của Việt Nam trên biển nên cần được cụ thể hoá bằng hình thức Bộ
Luật biển hoặc Pháp lệnh của Việt Nam để từ đó các văn bản pháp quy về biển khác
của Việt Nam quy định chi tiết điều chỉnh các mối quan hệ cụ thể trên biển. Các quy
dịnh khác của Cổng ước không mâu thuẫn với luật pháp quốc gia của Việt Nam và

chưa được quy định hoặc không cẩn thiết phải chi tiếí hoá trong luật của Việt Nam

21


thì không cần thiết phải chuyển hoá mà có thể được áp dụng một cách trực tiếp.
Về việc phân định các vùng biển và giải quyết các iranh chấp, bất đồng trên
biển, quan điểm cơ bản của Việt Nam đã được Quốc hội công bố tháng 6/1994 khi
phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 là: "... giải quyết các bất
đồng liên quan 'đến Biển Đông thông qua thương lượng hoà bình, trên tinh thăn bình
dẳng, hiểu biết và lớn irọng lẩn nhau, tôn trọng pháp ỉuật quốc tế, đặc biệi là Công
ước của Liên hợp quốc vê Luật biển năm 1982, tôn trọng chủ quyền và quyển tài
phán của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục
địa...." [44].
Lạp trường nhất quán của Việt Nam về phân định các vùng biển còn được thể
hiện rõ ràng trong đàm phán phân định với các nước có liên quan là căn cứ vào luật
pháp và thực tiễn quốc tế mà cụ thể là Cồng ước 1982, hoàn cảnh địa lý cụ thể của
khu vực phân định để đàm phán giải quyết đi tới một giải pháp phân định công
bằng.
Nói tóm lại, luật biển quốc tế và ìuật biển quốc gia có mối quan hệ rất biện
chứng với nhau, thúc đẩy nhau phát triển và hoàn thiện. Luật quốc t ế dược hình
thành, phái triển từ thực tiễn, luật pháp quốc gia rồi sau đỏ lại được đảm bảo thực
thi qua hệ thống luật và các hoạt động thực tiễn của quốc gia.
Việt Nam đã phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển nãm 1982,
trong thời gian tới đây Việt Nam cần cụ thể hoá một số quy phạm quan trọng của
Công ước này trong Bộ luật biển của Việt Nam. Công ước 1982 là một văn bản pháp
lý tổng hợp điều chỉnh rất nhiều mối quan hệ trên biển giữa các quốc gia. Việt Nam
đã ký kết và phê chuẩn Công ước này mà không có bất ký sự bảo lưu nào nên đương
nhiên có nghĩa vụ phải thi hành Công ước nhưng không nhất thiết phải chuyển hoá
toàn bộ các quy định của Công ước này vào hệ thốne luật pháp Việt Nam. Hiện nay

hệ thống luật pháp về biển của Việt Nam còn chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, một số
quy định còn chưa phù hợp với quy định của Công ước. Việt Nam cẩn có sự vận
dụng sáng tạo những quy định của Công ước để sửa đổi, bổ sung hệ thống luật pháp
về biển của Việt Nam cho phù hợp với thực tiễn và hoàn cảnh cụ thể nhưng đổng
thời cũng khõng được mâu thuẫn với các quy định của Công ước.

22


1.2.

LỊCH SỬ PHÁT TRIEN

c ủ a l u ậ t b iê n v à c á c n g u y ê n t ắ c

Cơ BẢN CỦA CÔNG ƯỚC 1982

1.2.1.

Vai trò của biển - yếu tô quan trọng thúc đẩy sự phát triển của luật

quốc tế và luật quốc gia về biển
Từ xưa tới nay người ta vẫn quen gọi hành tinh của chúng ta íà trái đát nhưng
thực ra 71 % bề mặt trái đất là biển cả và 29% diện tích đất còn lại chỉ là những
vùng đảo giữa biển cả mênh mông- Nói như vậy mới hình dung hết được vai trò
quan trọng của biển đối với cuộc sống và sự phát triển của loài người. Tuy con người
không thể cư trú được ngoài biển khơi nhưng biển và đại đương lại là nơi bắt nguồn
của sự sống và cũng là nơi tạo điều kiện thuận ỉợi cho cuộc sống và sự phát triển của
loài người.
Biển và đại dương là nguồn tài nguyên vô tận đã từng nuôi sống loài người từ

trước tới nay và nhất là trong thời gian hiện nay khi tài nguvên trên đất đã gần cạn
kiệt thì tương lai phát triển của loài người lại càng phụ thuộc nhiều hơn vào việc
khai thác các tài nguyên của biển phục vụ cho cuộc sống của loài người. Ngày nay,
với sự phát triển nhanh chóng của nền khoa học hiện đại, cống nghệ khai thác và sử
đụng các tài nguyên của biển có những bước tiến bộ nhẩy vọt, ta lại càng thấy rõ
tầm quan trọng của biển đối với đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của loài người.
Các nhà khoa học dự đoán rằng trong một tương lai không xa con người có thể khai
thác được tất cả các loại tài nguyên thiên nhiên của biển như đã từng khai thác được
trên đất liền. Biển chứa đựng một nguồn tài nguyên sinh vật không bao giờ cạn nếu
loài người biết cách khai thác và bảo vệ nó. Theo thống kê của các nhà sinh vật học
trên thế giới, trong biển hiện có khoảng 18 vạn loại động vật và 2 vạn loại thực vật
khác nhau [7, tr. 15]. Nhiều loại sinh vật biển có thể dùng làm thực phẩm, thuốc men
và nguyên liệu công nghiệp với giá trị kinh tế cao. Ước tính rằng sức sản xuất
nguyên khai của biển trên toàn thế giới là 500 tỷ tấn hải sản một nãm, sản lượng
hàng năm của các loại cá biển trên thế giới ước chừng khoảng 600 triệu tấn. Nếu chỉ
khai thác một nửa sàn ỉượng đó thì mỗi năm loài người có thể thu được 300 triệu tấn
hải sản. Hiên nay sản lượng đánh bắt trên toàn thế giới mới chỉ vào khoảng 80 triệu

23


tấn và như vậy tiềm năng khai thác hải sản cho phép ngoài biển còn rất lớn so với
khả năng đánh bát và tiêu thụ [7, tr. 16-17].
Biển chứa đựng tất cả các loại khoáng sản hiện có trên đất liền với một trữ
lượng khổng lồ. Loại khoáng sản đầu tiên phải kể đến là dầu mỏ và khí thiên nhiên
đang được khai thác mạnh mẽ ở khắp mọi nơi trên thế giới với một quy mô lớn.
Theo tính toán của các chuyên gia địa chất, diện tích các vùng trầm lích có triển
vọng chứa dầu khí trên thế giới là 77,463 triệu km2, trong đó diên tích ở ngoài biển
là 26,395 triệukm 2, chiếm 34%. Năm 1984, Viện nghiên cứu dầu mỏ cùa Pháp ước
tính trữ lượng dầu mỏ của thế giới đã được thảm dò là 95 tỷ tấn, trong đó trữ ỉượng

dầu ở các vùng biển chiếm 26%; trữ lượng khí thiên nhiên là 98.484 tỉ m \ trong đó
trữ lượng khí ở cắc vùng biển chiếm 23% [7, tr.17]. Ngoài đầu mỏ và khí đốt, các
loai khoáng sản khác như sắt, lưu huỳnh, silic... cũng đang được nghiên cứu và khai
thác. Tuy nhiên, các loại khoáng sản không phải dầu khi này còn chưa được khai
thác rộng rãi do nhu cầu tiêu thụ còn thấp và giá thành khai thác cao hơn nhiều so
với việc khai thác chúng trên đất liền.
Ngoài các dạng tài nguyên kể trên, biển còn cung cấp cho con người nguổn
tài nguyên khổng lồ khác ỉà nước biển và các năng lượng biển do các quá trình hoạt
động và tính chất [ý hoá của nước biển sản sinh ra như thuỷ triều, sóng, chênh lệch
nhiệt độ của nước biển....
Biển và các hải đảo còn cung cấp một loại tài nguyên vô hình phong phú đó
là tiềm năng du lịch biển. Thực tiễn cho thấy nhiều nước trên thế giới đã phát triển
ngành du lịch biển của mình như một ngành kinh tế chủ chốt mang lại nhiều lợi
nhuận cho nền kinh tế quốc dân.
Biển có một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phát triển chính trị và kinh
tế của thế giới. Biển íà một khâu quan trọng trong cơ cấu địa ]ý - chính trị - kinh tế
thế giới, là con đường giao lưu thỏng suốt về kinh tế, chính trị trên trái đất. Với sự
phát triển lớn về sản xuất, biển lại càng tỏ rõ vai trò quan trọng của mình là đường
thông thương khồng thế thiếu được và là một yếu tố quan trọng đảm bảo cho nền
sản xuất đó phát triển không ngừng. Từ lâu nền kinh tế thế giới đã vượt qua giai
đoạn kinh tế tự nhiên, hoạt động sản xuất của các nước có liên quan chặt chẽ với

24


nhau. Quá trình sản xuấl luôn gắn kết các yếu tố sản xuất lại với nhau mà những yếu
tố này lại nằm ở các khu vực địa lý khác nhau của thế giới. Để phát triển một nển
công nghiệp hiện đại cần phải có một mối quan hệ rộng giữa các nước và giữa các
châu lục. Đặc điểm đặc trưng của một nền công nghiệp hiện đại là có sức sản xuất
lớn trên một địa bàn tập trung hẹp, nên cần có tuyến đường vận tải thuận tiện để

chuyên chở nguyên vật liệu và các sản phẩm trong khu vực rộng lớn. Với sự phát
triển ngày càng cao của nền công nghiệp hiện đạị, tập trung và với một thị trường
liêu thụ sản phẩm rộng lớn, các khu vực trên thế giới cần phải gắn kết chặt chẽ với
nhau bằng các tuyến đường giao thông vận tải thuận lợi và liên tục. Các khu vực này
lại bị ngăn cắt bởi biển cả nên con đường giao thông thuận tiện và rẻ nhất vẫn là
tuyến đường giao thồng bằng đường biển. Vặn chuyển hàng hoá và nguyên vật liệu
bằng đường biển có tính ưu việt hơn hẳn so với các phương thức vận chuyển khác:
có thể vận chuyển liên tục tới tất cả các nơi trên thế giới vì các biển trên thế giới đều
nối liền được với nhau, giá chi phí vận tải thấp và thích hợp cho việc vận tải các loại
hàng hoá cồng kềiìh. Như vậy, trong sự phát triển kinh tế, chính trị của thế giới hiện
đại, và các mối quan hệ đều có tính chất toàn cầu, biển đã trở thành con đường
thòng thương không thể thiếu được trong sự phát triển chính trị, kinh tế thế giới.
Biển c à n g n g à y c à n g c ó m ộ t vai trò q u a n trọ n g s ố n g c ò n c á c q u ố c gia ven

biển, đổng Ihời nó cũng chứa đựng các mầm mốne tranh chấp giữa các quốc gia có
bờ biển tiếp liền hoặc đối diện nhau. Các quốc gia có biển ngày càng ý thức được
tầm quan trọng của các vùng biển đối sự phát triển của dân tộc mình nên tìm mọi
biện pháp dể mở rộng các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền tài phán quốc gia.
Điều này tất yếu sẽ dẫn tới các tranh chấp nẩy sinh giữa các quốc gia, nó đòi hỏi
phải có một cơ chế pháp lý nhất định để giải quyết các tranh chấp này. Song song
với việc phát triển các nguyên tắc pháp lý quốc tế, các quốc gia có liên quan cũng
chủ động đàm phán giải quyết tạo thành các tiền lệ, các thực tiễn quốc tế quan trọng
góp phẩn vào việc phát triển luật biển quốc tế.
1.2.2. L ị c h s ử p h á t t r i ể n c ủ a l u ậ t b iê n

Trong lịch sử, các quốc gia ven biển thực hiện một số quyền tài phán quốc gia
của mình trên các cảng và các vùng biển gần chủ yếu là để kiểm soát tầu thuyền ra

2 5



vào cảng, các hoạt động buổn bán, ngăn ngừa cướp biển, buón ỉậu và đảm bảo an
ninh quốc gia. Khi đó phần lớn không gian biển và đại dương nằm bên ngoài vành
đai hẹp đó là các vùng biển tự do. Chỉ tới khi có sự tranh chấp về khu vực truyền đạo
giữa hai cường quốc hàng hải là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha vào thế kỷ 15 thì mới
bắt đầu xuất hiện mộỉ văn kiện phân chia vùng biển đầu tiên, đó là sắc chỉ "Inter
Coetera" của Giáo hoàng Alexandre VI ngày 4/5/1493. Giáo hoàng đã vạch một
đường phàn chia quyền tài phán trên biển của Tây Ban Nha và Bổ Đào Nha theo
đường kình tuyến cách đảo Cap Vert 100 liên [46, tr.65]. Thực tế đấy cũng chỉ ỉà
một đường chia khu vực ảnh hưởng truyền đạo của hai quốc gia này mà thôi.
Đến nãm 1609, Hugo Grotius, một luật gia người Hà Lan, đã viết cuốn "Mare
Liberum" để biện minh cho các quyền tự do trên biển. Grotius cho rằng quyết định
của Giáo hoàng chỉ nhằm để giải quyết tranh chấp nội bộ giữa Tây Ban Nha và Bồ
Đào Nha và không ảnh hưởng gì tới những người khác trên thế giới [77, tr.5]. Quan
điểm này của Grotius được các quốc gia tư bản mới hoan nghênh vì nó tạo ra sức
mạnh pháp lý để cạnh tranh với các đế quốc già nua đang thống trị trên mặt các đại
dương. Khi đó quan điểm một vành đai lãnh hải hẹp thuộc chủ quyền của quốc gia
ven biển có chiều rộng bằng tầm bắn của súng đại bác và trong nhiều trường hợp
được xác định là 3 hải ỉý đã được thừa nhận một cách rộng rãi. Ngoài vành đai lãnh
hải đó là biển cả, là các vùng biển tự do cho mọi quốc gia trên thế giới. Tự do biển
cả được thừa nhận và được xác định như một tập quán quốc tế, bao gồm quyền tự do
hàng hải, tự do bay, tự do đánh bẳt cá và đặt đường ống và cáp ngầm.
Vấn đề ranh giới ngoài lãnh hải và quyền đánh cá của quốc gia ven biển trong
vùng tiếp giáp được đưa ra thảo luận tại Hội nghị Pháp điển noá Luậi quốc tế Lahay
do Hội quốc liên (League of Nations) triệu tập từ ngày 13/3 đến ngày 12/4/1930.
Mặc dù không có công ước nào dược thông qua nhưng Hội nghị cũng đã công nhận
các quốc gia có một lãnh hải ít nhất 3 hải lý và một vùng tiếp giáp lãnh hải [56,
tr. 103-106].
Khi người ta phát hiện ra tài nguyên dầu khí ở thềm lục địa thì vấn đề quyền
tài phán quốc gia đôí với vùng này lại được đặt ra. Trường hợp đầu tiên là Anh quốc

và Venezuela đã ký kết một thoả thuận vào tháng 2/1942 phân chia khu vực đáy

26


×