DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
TS. Trần Hữu Hà*
Xây dựng dân dụng, công nghiệp và hạ tầng cơ sở tại mỗi quốc gia luôn là lĩnh vực quan trọng, đi trước để hỗ trợ,
kích thích các lĩnh vực khác hoạt động và phát triển thuận lợi. Trong bối cảnh hội nhập, rất nhiều các vấn đề liên quan
đến thực tiễn xây dựng đã nảy sinh như: Vật liệu, công nghệ mới, các quy trình thiết kế hiện đại… đòi hỏi đội ngũ nhân
lực cũng cần phải được chuẩn bị, đào tạo, nâng cao về mọi mặt với nhiều cấp độ khác nhau. Phát triển nguồn nhân lực
ngành Xây dựng từ đó càng trở nên cấp bách. Dựa vào kết quả quy hoạch nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2020, sau khi
tổ chức điều tra chỉ tiêu và đánh giá về nguồn nhân lực xây dựng, đồng thời tham khảo một số kinh nghiệm của các nước
trong khu vực và thế giới, cần đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực ngành Xây dựng, đáp ứng nhu
cầu phát triển của Ngành và đất nước.
CẦN TIẾP TỤC HOÀN THIỆN THỂ CHẾ THỊ TRƯỜNG NHÂN LỰC XÂY DỰNG
Về chính sách, nên coi trọng xuất khẩu lao động thông
phần lớn lao động lại và giao cho một công ty cung ứng
qua nhận thầu xây dựng ở nước ngoài. Đây là kinh nghiệm
nhân lực quản lý và cung ứng cho toàn bộ các công trường
của Hàn Quốc thuở phát triển ban đầu, họ kiếm ngoại tệ
của Tổng công ty (xe máy cũng tương tự); Một số địa
không phải bằng trực tiếp xuất khẩu lao động như nước ta
phương dồi dào lao động nên được xây dựng thành “căn cứ
đang làm mà thông qua nhận thầu xây dựng trên khắp thế
địa” cung ứng nhân lực xây dựng bằng cách khuyến khích
giới. Sau này khi đã phát triển, họ vẫn nhận thầu ở nước
thành lập các công ty cung ứng nhân lực và mở các trường
ngoài nhưng chuyển sang dùng lao động nước sở tại vì lao
đào tạo công nhân xây dựng.
động Hàn Quốc đắt đỏ hơn. Nếu làm theo phương thức này,
Ngành Xây dựng là một ngành công nghiệp dịch vụ
nước ta vừa kiếm được nhiều ngoại tệ, ngành Xây dựng tiến
đặc biệt, sản phẩm xây lắp mang tính đơn chiếc, thời gian
bộ nhanh hơn và lại không có tình trạng lao động trốn ở lại
dài, phải làm việc ngoài trời, phụ thuộc vào thời tiết, địa
do sợ bị thất nghiệp khi trở về.
điểm làm việc biến động nhiều khi phải xa nhà, xa gia đình.
Về thể chế, cần ban hành các quy định pháp luật về
Việc làm không ổn định, lúc làm việc ngày đêm, lúc nhàn
cung ứng nhân lực, trên cơ sở bảo đảm quyền lợi người lao
rỗi… Nhà nước cần có cơ chế chính sách trong đào tạo,
động, thu hẹp rồi xóa bỏ thị trường nhân lực không chính
chế độ đãi ngộ thông qua các chính sách theo cơ chế
thức; Xem xét việc cho các trường đào tạo nghề xây dựng
thị trường, giao quyền cho các nhà thầu trả lương theo
kiêm nhiệm chức năng cung ứng nhân lực hoặc sáp nhập
yêu cầu của công việc nhằm thu hút nguồn nhân lực giỏi
vào công ty cung ứng nhân lực; Theo kinh nghiệm Trung
và hoạt động xây dựng (như ở Mỹ; lương công nhân xây
Quốc, các Tổng công ty xây dựng Nhà nước lớn nên dồn
dựng được xếp hạng I so sới các ngành nghề khác).
6 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
chứ không chỉ là “đối tác”, là người thụ
hưởng sản phẩm đào tạo. Đổi mới
chính sách tài chính về GDNN; thực
hiện cơ chế đặt hàng đào tạo cho các
cơ sở GDNN, không phân biệt hình
thức sở hữu.
XÂY DỰNG CHUẨN ĐẦU RA GẮN
VỚI KHUNG TRÌNH ĐỘ QUỐC GIA
Các cơ sở đào tạo phải xây dựng
và công bố chuẩn đầu ra người học
Ngành Xây dựng là một ngành công nghiệp dịch vụ đặc biệt, sản phẩm xây lắp mang tính đơn chiếc,
thời gian dài, phải làm việc ngoài trời
cần phải đạt, sau khi tốt nghiệp ở mỗi
trình độ và ngành nghề đào tạo theo
Có cơ chế, chính sách tạo điều
khung trình độ quốc gia. Mỗi trình độ
kiện cho các doanh nghiệp thuộc
và mỗi ngành nghề đào tạo cần làm rõ
Ngành, như: Tăng kinh phí cho quỹ
những kỹ năng, năng lực cơ bản, đáp
Đẩy mạnh xã hội hóa, đa dạng
đào tạo, tuyển dụng của doanh
ứng yêu cầu thực tiễn, từ đó liên
hóa các hình thức sở hữu, nhằm huy
nghiệp và khuyến khích doanh
hệ với các mô đun đào tạo hiện có
động tối đa các nguồn lực của các
nghiệp chi hết, chi đủ các khoản chi
trong chương trình. Xây dựng chuẩn
thành phần kinh tế, kể cả thu hút đầu
cho đào tạo nhân lực, đặc biệt là nhân
chương trình đào tạo, chuẩn thiết
tư nước ngoài cho giáo dục Đại học
lực chất lượng cao.
bị dạy học và chuẩn đánh giá theo
CÓ CHÍNH SÁCH THÍCH HỢP
Ở TẦM VĨ MÔ ĐỂ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC
và giáo dục nghề nghiệp; tăng đầu tư
Đổi mới mạnh mẽ về thể chế,
định hướng khung trình độ quốc gia
của Nhà nước cho các cơ sở đào tạo
chính sách. Hoàn thiện hệ thống pháp
tham chiếu khung trình độ khu vực.
trọng điểm, nhằm xây dựng một số
luật về Giáo dục nghề nghiệp (GDNN).
Đánh giá chuẩn đầu ra và bảo đảm
trường có chất lượng đào tạo ngang
Luật GDNN đã được Quốc hội thông
chất lượng sẽ là điều kiện thực hiện
bằng các nước tiên tiến trong khu vực
qua có quy định về cơ chế để cơ sở
việc công nhận văn bằng/trình độ
và thế giới;
GDNN là một chủ thể độc lập, tự chủ;
và kỹ năng, năng lực hành nghề lẫn
Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề
người đứng đầu cơ sở GDNN phải tự
nhau giữa Việt Nam và các nước trong
thông qua những chính sách khuyến
chịu trách nhiệm trước pháp luật và
ASEAN và trên thế giới.
khích và ưu tiên, thậm chí bằng cả các
phải được đào tạo về quản lý GDNN.
chế tài đủ mạnh để thu hút người học
Hoàn thiện cơ chế, chính sách về dạy
vào học nghề, nhằm khắc phục tình
nghề, học nghề.
PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH
ĐÀO TẠO VÀ ĐÁNH GIÁ THEO
NĂNG LỰC
trạng tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo
Có chính sách đãi ngộ, thu hút
tại các doanh nghiệp thuộc Ngành với
giáo viên GDNN; chính sách đối với
Một chương trình khung áp dụng
tỷ lệ không nhỏ như hiện nay;
người lao động qua đào tạo nghề
trong toàn quốc có thể làm giảm tính
Hoàn thiện các chế độ, chính
nghiệp; chính sách đào tạo liên thông,
linh hoạt, chủ động của cơ sở đào tạo
sách, tiền lương và tiền công đối với
hỗ trợ người học nghề. Xây dựng cơ
trong việc thực thi phù hợp với tính
những người làm công tác dạy nghề
chế để doanh nghiệp, cơ sở sử dụng
đặc thù và những thay đổi kỹ thuật -
có kỹ năng tay nghề cao và đặc biệt là
lao động tham gia xây dựng, đánh
công nghệ, với những đặc điểm vùng
đối với học sinh học các nghề có nhu
giá, điều chỉnh chương trình đào tạo,
miền. Mặt khác, khung thời gian và
cầu lớn nhưng khó tuyển sinh như
hướng dẫn thực hành, thực tập và
thời lượng cần phải mềm dẻo hơn,
nghề nề - hoàn thiện, cốp pha - giàn
đánh giá năng lực người học, hướng
giành thời lượng thích đáng cho thực
giáo, cốt thép - hàn… để thu hút người
tới doanh nghiệp phải là một trong
hành kỹ năng nghề phù hợp với trình
vào học nghề;
những chủ thể đào tạo nghề nghiệp
độ công nghệ và tổ chức dịch vụ. Từ
Số 64.2019
XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
7
DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
đó, tăng cường tính tự chủ chương
trình của nhà trường theo khung
chương trình do cơ quan quản lý Nhà
nước về giáo dục hoặc dạy nghề ban
hành.
Các mô đun đào tạo cần phải xác
định rõ ràng đầu ra tương ứng với đơn
vị tiêu chuẩn năng lực (TCNL). Các tiêu
chuẩn kỹ năng nghề quốc gia trong
lĩnh vực xây dựng hiện nay thường
gắn với từng công việc đơn lẻ của
nghề cần phải được gia công sư phạm
để tổ hợp thành các đơn vị TCNL và
Cần gắn kết giữa đào tạo với thị trường lao động và sự tham gia của doanh nghiệp
được khai triển đào tạo trong phạm vi
các mô đun. Về lâu dài, hệ thống tiêu
làm và trình độ. Những mô hình này sẽ
chuẩn với khung trình độ quốc gia
cần được thử nghiệm, đánh giá hiệu
nên chuyển đổi thành hệ thống TCNL,
quả - chi phí để triển khai nhân rộng
từ đó hình thành sản phẩm trung gian
trong thời gian tới.
ĐỔI MỚI MẠNH MẼ VẤN ĐỀ
SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
Cần thay đổi cách tuyển dụng
lao động, tuyển dụng công chức,
viên chức theo năng lực thực tế, khả
hay “ngôn ngữ chung” giữa đào tạo
và sử dụng lao động. Việc quản lý sẽ
GẮN KẾT GIỮA ĐÀO TẠO VỚI
năng hoàn thành nhiệm vụ hơn là chỉ
tập trung vào kiểm định chất lượng
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VÀ SỰ
dựa vào bằng cấp. Cải cách hệ thống
chương trình đào tạo, kiểm định trình
THAM GIA CỦA DOANH NGHIỆP
trả lương, trả công lao động, trên cơ
sở kỹ năng nghề nghiệp và hiệu quả
độ và chuẩn đầu ra gắn với khung
Trong bối cảnh trong nước và
của công việc, nhằm tạo động lực cho
quốc tế hiện nay, để góp phần nâng
người lao động làm việc với năng suất
cao chất lượng và sức cạnh tranh của
và chất lượng cao hơn. Phấn đấu xây
nhân lực Việt Nam trên thị trường lao
dựng một nguồn nhân lực đủ mạnh,
động trong nước và quốc tế, nhất là
đáp ứng nhu cầu cả về số lượng và
khi Việt Nam trở thành thành viên của
chất lượng; có cơ cấu hợp lý về ngành
AEC (Cộng đồng kinh tế ASEAN), cần
nghề chuyên môn; chú trọng trẻ hoá
Một với khung trình độ quốc gia,
phải đổi mới mạnh mẽ hệ thống giáo
đội ngũ kết hợp với thái độ coi trọng
về cơ bản, sẽ bao hàm cả 3 hình thức
dục - đào tạo. Trong đó, cần gắn kết
kinh nghiệm và thâm niên công tác.
học tập chính quy, phi chính quy và
giữa đào tạo với thị trường lao động
không chính quy. Cho đến nay, đào
và sự tham gia của doanh nghiệp.
trình độ quốc gia tham chiếu khung
trình độ ASEAN.
THIẾT KẾ MÔ HÌNH ĐÀO TẠO NGOÀI
CHÍNH QUY PHÙ HỢP VỚI BỐI CẢNH
VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA VIỆT NAM
- Đối với trường dạy nghề: Cần
có cơ chế chính sách kể cả nguồn
tạo không chính quy và phi chính quy
Doanh nghiệp trực tiếp tham gia
kinh phí để tăng cường cơ sở vật chất
chưa thực sự được quan tâm đầu tư
vào các hoạt động đào tạo nghề như
phục vụ cho giảng dạy sát với yêu cầu
mang tính chiến lược khi mà lao động
xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề,
thực tế, đặc biệt cơ chế chính sách đãi
khu vực kinh tế phi chính thức chiếm
xác định danh mục nghề, xây dựng
ngộ với các thợ bậc cao, thợ cả truyền
vị trí và vai trò hết sức quan trọng ở
chương trình đào tạo, đánh giá kết quả
nghề cho lớp trẻ.
Việt Nam. Các phương thức đào tạo
học tập của người học nghề… Phát
- Cần ban hành quy định chức
cần được nghiên cứu và triển khai
triển hệ thống thông tin thị trường lao
danh cũng như bổ sung các chức danh
mang tính hệ thống dựa trên quy
động để gắn kết đào tạo và sử dụng
nhằm phân loại, khuyến khích đào tạo
hoạch phát triển nhân lực xây dựng
lao động. Hướng tới thành lập các Hội
cán bộ quản lý, công nhân giỏi ngành
Việt Nam có xác định rõ cơ cấu việc
đồng kỹ năng Ngành.
Xây dựng như: Giám đốc Công ty,
8 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
Tổng Giám đốc Tổng Công ty, Chỉ huy
trưởng dự án đặc biệt, nhóm A,B, chức
danh Tổng Công trình sư, kỹ sư trưởng,
kỹ sư chính… Đối với công nhân là
nghệ nhân, thợ cả, thợ chính.
- Cần bổ sung và khuyến khích
phát triển loại hình Công ty cung ứng
nguồn nhân lực. Do đặc điểm của thi
công công trình xây dựng làm biến
động về nhân lực, loại nghề trong
từng giai đoạn, một nhà thầu không
Gắn đào tạo với bố trí, sử dụng nhân lực
thể khép kín đầy đủ nguồn nhân lực
(hoặc có khép kín toàn bộ thì lại bị
và ngành, lĩnh vực có tính đặc thù.
quốc tế, phát triển nhân lực được
mất cân đối dư thừa từng loại cán bộ
Việc quy hoạch nguồn nhân lực theo
coi là một trong ba khâu đột phá của
theo từng thời gian gây lãng phí công
ngành, lĩnh vực sẽ tạo cơ sở, căn
chiến lược chuyển đổi mô hình phát
nhân). Vì vậy, nếu áp dụng cơ chế
cứ cho công tác đào tạo, phát triển
triển kinh tế - xã hội của đất nước;
cung cấp nguồn nhân lực theo hợp
nguồn nhân lực có tính định hướng và
đồng thời, phát triển nhân lực trở
đồng theo từng giai đoạn sẽ chuyên
ổn định. Công tác quy hoạch nguồn
thành nền tảng phát triển bền vững
môn hóa công việc, luân chuyển bổ
nhân lực được thực hiện tốt sẽ tạo
và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia.
sung cho các công trường xây dựng
được nguồn nhân lực có chất lượng
Phát triển nguồn nhân lực là một
theo tiến độ và công việc từ đó sẽ
đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công
trong những yếu tố cơ bản để thực
tiết kiệm chi phí, giảm thời gian chờ
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
hiện thành công chiến lược đi tắt đón
việc hoặc làm công việc không đúng
chuyên môn.
GẮN ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG VỚI
QUY HOẠCH VÀ BỐ TRÍ, SỬ DỤNG
Các Bộ, Ngành và địa phương
cần xây dựng đề án nguồn nhân lực
đầu trong công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
cụ thể, rõ ràng, từ đó có chính sách
TÀI LIỆU THAM KHẢO
đào tạo cho phù hợp tránh tình trạng
thiếu hụt nhân lực ở lĩnh vực này và
1. Ban Chấp hành Trung ương
Phải có quy hoạch đào tạo,
thừa ở lĩnh vực khác. Một số ngành
khóa XI (2013), Nghị quyết số 29-NQ/
không đào tạo tràn lan, đào tạo không
chiếm tỉ trọng thấp (như nông, lâm,
TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
có địa chỉ. Cán bộ được quy hoạch vào
ngư nghiệp), trong khi đó khối các
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
chức danh nào, ngạch nào thì ĐTBD
ngành chiếm tỉ trọng cao tập trung
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
theo chuyên môn của chức danh đó,
vào các lĩnh vực (tài chính, ngân hàng,
kiện kinh tế thị trường định hướng xã
ngạch đó và sau khi ĐTBD chỉ bố trí
công nghệ thông tin…) Do vậy, quy
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Hội
vào những công việc phù hợp với
hoạch phải phù hợp với quy hoạch
nghị lần thứ 8.
chuyên môn được ĐTBD. Đồng thời, rà
phát triển kinh tế xã hội nhằm mục
2. Quyết định số 1216/QĐ-TTg
soát lại đội ngũ cán bộ hiện có, điều
tiêu cuối cùng là phát triển kinh tế xã
ngày 22/7/2011 của Thủ tướng Chính
chuyển, bố trí lại những cán bộ đang
hội bền vững. Chú trọng công tác đào
phủ về Quy hoạch phát triển nhân lực
làm việc không đúng chuyên ngành
tạo ngành nghề mới, đặc thù để tránh
Việt Nam thời kỳ 2011-2020.
chuyển sang các ngành nghề, chức
tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực
danh phù hợp với chuyên môn được
cục bộ.
đào tạo. Cần quy hoạch, phát triển
Hiện nay, trong điều kiện đẩy
nguồn nhân lực theo ngành, lĩnh vực
mạnh công nghiệp hoá và hội nhập
3. Nguyễn Quang Việt (2014), Tiếp
cận chuẩn đầu ra trong đào tạo nghề,
Bài giảng Bồi dưỡng cán bộ quản lý cơ
sở dạy nghề, Tổng cục Dạy nghề.
Số 64.2019
XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
9