Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tìm hiểu những tiến bộ của công nghệ khí hóa ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.22 MB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

Tiểu luận

Tìm hiểu những tiến bộ của công nghệ khí hóa ứng dụng
trong sản xuất nhiên liệu . Phân tích những thách thức và
tiềm năng của khí hóa trong nhiên liệu sinh học

Học viên: Lê Quang Tiến
Ngành: Kỹ thuật Môi trường
Lớp: 19BKTMT
Mã HV: CB190140


Contents
Chương 1 : Tổng quan về công nghệ khí hóa..............................................................................................2
I.1.Những tiến bộ của công nghệ khí hóa trong lịch sử.........................................................................3
I.1.1 Công nghệ khí hóa phát triển theo lịch sử thế giới....................................................................3
I.1.2 Công nghệ khí hóa ở Việt Nam....................................................................................................4
Chương 2 : Nguyên lý cơ bản của công nghệ khí hóa ứng dụng..............................................................5
II.1 Nguyên lý cơ bản của khí hóa ứng dụng.........................................................................................5
1 Lò có dòng khí đi từ duới lên.............................................................................................................6
2 Lò có dòng khí đi từ trên xuống........................................................................................................7
3. Lò có hai vùng cháy, dòng khí đi ngang..........................................................................................8
4. Lò hóa khí tầng sôi (Fluidized bed gasifier)....................................................................................8
II.2 Một số công nghệ khí hóa.................................................................................................................10
II.2.1 Công nghệ khí hóa than............................................................................................................10
II.2.2 Công nghệ khí hóa sử dụng phụ phẩm nông, lâm nghiệp để phát điện công suất nhỏ
(Năng lượng sinh khối ).......................................................................................................................12
Chương 3 : Những thách thức và tiềm năng của khí hoá trong nhiên liệu sinh học............................15
III.1 Cơ hội và Tiềm năng.......................................................................................................................15


III.2 thách thức về công nghệ khí hóa ở Việt nam................................................................................16
Chương 4 : Kết luận.....................................................................................................................................18


Chương 1 : Tổng quan về công nghệ khí hóa
Năng lượng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế chiếm 70% của nền kinh tế . Nền
kinh tế càng phát triển thì nhu cầu về năng lượng càng lớn dẫn đến sự gia tăng về khai thác nguồn
tài nguyên như dầu mỏ, than đá và khí tự nhiên gây suy giảm nhanh chóng nguồn nhiên liệu hóa
thạch, đẩy giá nhiên liệu (xăng dầu, than, khí…) lên cao và gia tăng lượng khí CO2 thải vào khí
quyển, gây nên hiệu ứng nhà kính, biến đổi khí hậu toàn cầu. Do đó, ngoài những nghiên cứu giải
pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả thì nghiên cứu, ứng dụng những công nghệ mới
nhằm phát triển, tạo ra nguồn năng lượng thay thế, bổ sung cho các nguồn năng lượng hoá thạch
cần được quan tâm. Nguồn năng lượng từ phụ phẩm nông, lâm nghiệp (rơm, trấu, phoi bào, gỗ,
xơ dừa, vỏ cà phê, bã mía, thân và lõi ngô, lạc…) bằng công nghệ khí hóa là một trong những
nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo cần được quan tâm nghiên cứu khai thác.
Công nghệ khí hóa từ nhiên liệu rắn và ứng dụng chúng để phục vụ cho đời sống, sản xuất công
nghiệp có từ thế kỷ 17. Kỹ thuật này hoá khí này giảm dần và ngừng ngay sau Chiến Tranh Thế
Giới II, vào thời điểm khi mà nhiên liệu lỏng từ nguồn dầu mỏ được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên
trước những cuộc khủng hoảng của thế giới về dầu mỏ (năm 1970), công nghệ khí hóa lại được
phục hồi và phát triển mạnh mẽ, từng bước thay thế nhiên liệu hóa thạch, kỹ thuật hóa khí trở nên
hiện đại hơn, phục vụ được nhiều nhu cầu đời sống dân sinh, phục vụ sản xuất công nghiệp dưới
nhiều dạng năng lượng phức tạp hơn.
Hiện nay sinh khối vẫn là nguồn nhiên liệu đun nấu chính tại vùng nông thôn Việt Nam, tuy
nhiên việc sử dụng sinh khối cho đun nấu tạo ra nhiều khói thải, bụi, bồ hóng... .. Để hạn chế các
nhược điểm của quá trình đun nấu sử dụng sinh khối, các bếp khí hóa sinh khối quy mô hộ gia
đình đã được áp dụng và đem lại hiệu quả thiết thực. Việc ứng dụng quy trình khí hóa sinh khối ở
quy mô công nghiệp vẫn chưa được triển khai vì những khó khăn về công nghệ, nguồn cung cấp
và thiếu vốn... Ở Việt Nam, các nhà máy sản xuất mía đường do có ưu thế nguồn phụ phẩm tập
trung nên đã áp dụng kỹ thuật đốt sinh khối để sản xuất hơi nước thay thế cho đốt than và đốt
dầu. Giải pháp này đã đem lại hiệu quả kinh tế lớn cho doanh nghiệp do việc tiết kiệm nhiên liệu

và giảm thiểu phát thải. Phụ phẩm từ ngành sản xuất lúa gạo là rất lớn và tập trung, tuy nhiên


ngoài nhà máy nhiệt điện Đình Hải và Công ty Gốm Tân Mai đang trong quá trình vận hành sản
xuất, đến nay ứng dụng nhiên liệu sinh khối cho các ngành công nghiệp vẫn còn hạn chế.
Hệ thống thiết bị khí hóa cho phép biến đổi năng lượng dạng rắn thành nhiên liệu khí . Thành
phần chính của dây chuyền thiết bị gồm: bộ khí hóa, bộ làm mát khí;bộ lọc, làm sạch khí và các
tải sử dụng nhiên liệu khí. Khí tổng hợp được hình thành bằng cách cho đốt cháy nhiên liệu rắn
trong buồng đốt dưới dạng cấp oxi không đủ (thường bằng cách kiểm soát dòng không khí vào bộ
khí hóa) để chuyển đổi nguyên liệu rắn thành trạng thái nhiên liệu khí có thể cháy được. Kết quả
của sự khí hóa là gas được tạo ra có chứa các thành phần chính là CO, H2, CH4 và một vài loại
khí trơ khác.

I.1.Những tiến bộ của công nghệ khí hóa trong lịch sử
I.1.1 Công nghệ khí hóa phát triển theo lịch sử thế giới
Năm 1669 Thomas Shirley đã thành công trong việc thực hiện các thí nghiệm hoá khí từ
carbonate hydrogen
Năm1699 Dean Clayton công bố kế quả thành công trong việc hóa khí gas từ nhiên liệu than đá.
Năm 1788 Robert Gardner được cấp bằng sáng chế đầu tiên liên quan đến sự hóa khí
Năm 1792 Báo cáo chứng thực đầu tiên về gas, Murdock đã dùng gas tạo ra từ than đá để thắp
sáng đèn trong nhà của ông ta. Kể từ đó, gas từ than đá được dùng để nấu nướng và cho các ứng
dụng nhiệt.
Năm 1801 Lampodium đã chứng minh khả năng tạo gas từ rác nhờ đặc tính hóa than của gỗ
Năm1804 Fourcroy đã tìm ra phản ứng gas – nước bằng phản ứng của nước với carbon nóng
Năm 1812 Phát minh đầu tiên về động cơ sử dụng nhiên liệu gas làm nhiên liệu
Năm 1840 Chế tạo Lò hóa khí từ nhiên liệu sinh khối quy mô thương mại đầu tiên ở Pháp.
Năm 1861 Siemens giới thiệu kỹ thuật về lò hóa khí và lò hóa khí này được nhiều người quan
tâm.
Năm 1878 Bắt đầu sử dụng các lò hóa khí kết hợp với động cơ nổ để phát điện 1900 Lò hóa khí
công suất 600 HP đầu tiên được triễn lãmtại Paris.Kế tiếp các động cơ công suất 5400 HP bắt

đầu được thử nghiệm kết nối vào thiết bị này
Năm 1901 J.W. Parker công bố thành công trong việc chạy xe từ nhiên liệu khí hoá từ lò hóa khí
Sau năm 1901 Giai đoạn 1901-1920, nhiều hệ thống động cơ sử dụng nhiên liệu hoá khí để phát
điện.
Năm1930 Nazi Germany thực hiện chuyển đổi các động cơ trên các xe có khả năng chạy bằng
nhiên liệu gas như là một dự án an ninh quốc gia và độc lập với sự nhập khẩu dầu


Năm1930 Bắt đầu phát triển các ô tô nhỏ và di động chạy bằng gas. Chính phủ Anh và Pháp đã
nhận thấy rằng các ô tô chạy bằng gas sinh ra từ than đá có thể phù hợp cho các thuộc địa của họ,
nơi mà xăng khan hiếm và gỗ biến thành than củi thì lại rất dồi dào
Năm 1939 Khoảng 250 000 xe ô tô được đăng kí ở Thụy Điển. Ngoài con số đó, 90% đã chuyển
đổi sang dạng dùng gas. Gần như tất cả 20 000 máy kéo dùng gas làm nhiên liệu. 40 % nhiên liệu
được dùng là gỗ và phần còn lại là than đá.
Sau 1945 Sau khi kết thúc Chiến Tranh Thê Giới II, với sự dồi dào về xăng và nhiên liệu diesel
với giá rẻ, kỹ thuật hóa khí dần mất đi vị trí và tầm quan trọng
Giai đoạn 1950 - 1970 Trong suốt những năm này, kỹ thuật hóa khí bị bỏ quên. Nhiều chính phủ
ở Châu Âu đã cảm thấy rằng tốc độ tiêu thụ gỗ ngày càng nhanh sẽ dẫn đến nạn phá rừng, sẽ tạo
ra các vấn đề về môi trường
Trong những năm 1970 đã có những kỹ thuật mới trong việc phát điện ở quy mô nhỏ. Từ đó,
người ta đã dùng các nhiên liệu khác thay cho gỗ và than đá

I.1.2 Công nghệ khí hóa ở Việt Nam
Đối với trong nước, công nghệ hóa khí từ nhiên liệu rắn đã có mặt ở Việt Nam từ những năm
trước 1975, đặc biệt trong hơn 10 năm đất nước vừa giải phóng, cả nước khan hiếm xăng, dầu.
Trong thời gian này hầu hết trên các tuyến đường giao thông, các xe tải chở khách đã ứng dụng
công nghệ hóa khí từ than củi (đây là loại nhiên liệu được đánh giá có nhiều ưu điểm nhất khi
ứng dụng công nghệ hóa khí) để làm nhiên liệu cho các động cơ xe cải biên từ động cơ xăng. Do
kỹ thuật hóa khí còn sơ khai, đặc biệt là công nghệ lọc và xử lý khí gas còn rất thô sô, nên công
nghệ hóa khí sử dụng cho xe hơi và xe tải chấm dứt vào những năm 1991-1994.

Công nghệ hoá khí từ trấu cũng đã có một số tác giả nghiên cứu và đưa ra một số mô hình buồng
đốt, tuy nhiên các mô hình buồng đốt mới chỉ ở dạng pilot, công suất bé, hóa khí dưới dạng mẻ.
Nổi bật trong những năm 1993 ÷ 1996, có tác giả, Bùi Trung Thành, Trung tâm Nghiên cứu Cơ
điện - Bộ Nông nghiệp công bố kết quả nghiên cứu và chuyển giao 10 buồng đốt trấu hoá khí với
năng suất nhiệt là 160 ÷ 200.000 kcal/giờ ,cung cấp nhiệt trực tiếp cho các máy sấy nông sản
dạng máy sấy tháp, năng suất sấy 5 tấn/mẻ cho Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Đồng Tháp
Mười, Nông trường Cơ đỏ tỉnh, Nông trường Sông Hậu tỉnh Cần Thơ. Các buồng đốt trấu hoá khí
này hoạt động liên tục được nhiều năm nhưng đến năm 2003 thì các ghi lò và vật liệu cách nhiệt
bị hỏng, các nhà máy sấy ngưng bảo dưỡng và không còn được bảo trì để sử dụng tiếp.


Hình Buồng đốt trấu hoá khí cấp cho máy sấy lúa liên tục kiểu tháp Năng suất 5 tấn/giờ của tác
giả Bùi Trung Thành
công bố 9.1993 Tháng 5/2010 một đề tài nghiên cứu thiết kế bếp đun gas trấu sử dụng cho hộ gia
đình nông thôn khu vực ngoại thành Tp. Cần Thơ của Trung tâm R&D Tech - Trường Đại học
Công nghiệp Tp. Hồ Chí Minh được Sở Khoa học & Công nghệ Tp. Cần Thơ xét duyệt cấp kinh
phí thực hiện, hiện đề tài đã được nghiệm thu, tuy nhiên đề tài này chỉ nẳm ở mức độ hoá khí
dạng thô, quy mô nhỏ sử dụng trong gia đình.

Bếp khí hóa từ phụ phẩm nông nghiệp


Chương 2 : Nguyên lý cơ bản của công nghệ khí hóa ứng dụng
II.1 Nguyên lý cơ bản của khí hóa ứng dụng
- Khí hóa – Gasification: là quá trình đốt cháy nguồn nguyên liệu biomass trong môi trường
thiếu ôxi để sản sinh ra các chất khí dễ cháy bao gồm Carbon monoxide (CO), hydro (H2) và một
phần khí metan (CH4). Hỗn hợp này được gọi là hỗn hợp khí cháy (tài liệu nước ngoài thường
viết là producer gas - sinh khí). Hỗn hợp khí cháy có thể được sử dụng để chạy động cơ đốt trong
(cả loại động cơ nén cao áp và loại động cơ đánh lửa), cũng có thể được sử dụng để sản xuất
methanol (CH3OH) - nhiên liệu cho động cơ nhiệt cũng như là nguyên liệu cho ngành công

nghiệp hóa chất và quan trọng là nguyên liệu cho hệ thống máy phát điện thông qua động cơ đốt
trong để tạo công cơ học làm quay máy phát tạo ra nguồn điện.
Nguyên liệu sinh khối ban đầu (viên nén mùn cưa, củi trấu, gỗ vụn, dăm mảnh cây keo, vỏ cà
phê, vỏ hạt điều.....) được xử lý sơ bộ và được hệ thống băng tải đưa vào thiết bị khí hóa
.Nguyên liệu lần lượt trải qua 4 giai đoạn trong thiết bị khí hóa gồm: sấy khô, nhiệt phân, đốt
cháy, khí hóa.
Quá trình làm khô – Drying: Đây là quá trình làm khô nguyên liệu biomass thô dưới tác dụng của
nhiệt. Nhiệt cung cấp ở đây được thực hiện trong một chu trình nhiệt động học khép kín của hệ
thống lò khí hóa diễn ra trong quy trình đốt khí hóa. Tầng làm khô đặt trên tầng nhiệt phân
(Pyrolysis). Thành phần hóa học tổng quát của nguyên liệu biomass là CxHyOz:
CxHyOz.nH2O →CxHyOz + nH2O (xúc tác nhiệt độ )
Quá trình nhiệt phân – Pyrolysis: Đây là quá trình oxi hóa không có ôxi không khí dưới tác dụng
của nhiệt độ cao. Nhiệt được cung cấp ở tầng đốt cháy trong lò khí hóa. Tầng nhiệt phân đặt giữa
tầng đốt cháy (Combustion) và tầng làm khô:
CxHyOz → C + CO + H2 + CO2 + H2O + tạp chất ( xúc tác nhiệt độ )
Sau quá trình nhiệt phân thành phần chủ yếu là than (C) và hệ thống khí và hơi (CO + H2 + CO2
+ H2O) và những tạp chất với thành phần nguyên tố hóa học khác như H2S.
Quá trình đốt cháy – Combustion: Quá trình đốt cháy được thực hiện ở tầng đốt có đường ống
dẫn không khí chứa ôxy vào và đốt cháy hỗn hợp C + CO + H2 + CO2 + H2O. Sản phẩm khí sau
khi đốt sẽ chỉ còn lại là CO2 + H2O và một phần khí N2 trong không khí có thể được coi là khí
tạp chất (sẽ được làm sạch trong hệ thống làm nguội và lọc sau hệ thống lò khí hóa Gasifer):


C + CO + H2 + CO2 + H2O → CO2 + H2O ( xúc tác O2 )
Một phần C rắn nóng không cháy hết được chuyển sang tầng nén phía dưới.
Quá trình sinh khí – Reduction: Đây là quá trình thực hiện trong tầng sinh khí của lò khí hóa. Các
khí CO2 + H2O sau quá trình đốt được dẫn qua than nóng (của quá trình nhiệt phân lắng xuống)
để thực hiện quy trình phản ứng hóa học tạo ra khí đốt cháy CO và H2:
CO2 + H2O + 2C → 3CO + H2
Như vậy sau khi qua lò khí hóa, hệ thống khí thu được gồm các khí đốt CO + H2 và một phần khí

tạp chất. Hỗn hợp khí này sau khi qua hệ thống lọc và làm nguội sẽ chỉ còn khí CO + H2 và được
chuyển tới máy phát điện tuabin khí đốt và sinh điện. Quá trình sinh khí này là hoàn toàn tự động.
Theo tiến trình có 4 nguyên lý :
1 Lò có dòng khí đi từ duới lên
- Đây là loại lò cổ điển và đơn giản nhất. Không khí được đưa vào buồng hoá khí từ đáy của lò và
đi ngược chiều với dòng nhiên liệu trong lò. Các hạt nguyên liệu cháy chủ yếu ở phần đáy buồng
đốt. Lò loại này được phân định rõ ràng từng vùng: vùng cháy, vùng khử và vùng nhiệt phân. Gas
được đưa ra ngoài ở vị trí cao hơn. Tro hình thành từ quá trình cháy nhiên liệu rắn sẽ được lấy ra
ngoài từ đáy của buồng đốt hóa khí.


2 Lò có dòng khí đi từ trên xuống
- Đối với loại lò đốt loại này nhiên liệu rắn được nạp tại đỉnh buồng đốt, không khí được đưa từ
trên xuống còn gas được lấy ra ở đáy lò. Loại lò đốt khí hoá này có hạn chế với các loại nhiên
liệu rắn có độ ẩm cao, hàm lượng tro cao. Gas sẽ được lấy từ phía đáy buồng đốt, như vậy
nguyên liệu sinh khí và dòng gas hình thành từ quá trình cháy không hoàn toàn sẽ di chuyển cùng
hướng.

3. Lò có hai vùng cháy, dòng khí đi ngang
- Loại lò này còn gọi là (lò dòng chéo) bao gồm hai vùng phản ứng.
Vùng sấy khô nguyên liệu, vùng carbon hóa nhiệt độ thấp và cracking gas xảy ra ở vùng cao hơn
trong khi đó phản ứng hóa khí ở vùng thấp hơn. Loại buồng đốt này có nhiệt độ khí hóa rất cao
(khoảng 15000C và có thể cao hơn nữa). Do nhiệt độ vùng oxy hóa cao nên loại lò này phải lưu ý
đến vấn đề vật liệu chế tạo buồng đốt.


4. Lò hóa khí tầng sôi (Fluidized bed gasifier)
- Nguyên lý hoạt động của cả loại buồng đốt có dòng khí đi từ trên xuống hoặc từ dưới đi lên
chịu ảnh hưởng của các vấn đề về hóa học, đặc tính vật lý của nhiên liệu rắn. Các vấn đề thường
gặp cho hai loại lò này là đường di chuyển của nhiên liệu, đường thoát của than xỉ, đặc biệt là vấn

đề tổn áp trong lò. Buồng đốt hóa khí nguyên lý tầng sôi (hình 5) được xem là một phương pháp
thiết kế mới cho phép hạn chế lại các nhược điểm của hai lò đốt nói trên. Nguyên lý làm việc của
lò bao gồm: Không khí được thổi qua các lớp nguyên liệu với vận tốc đủ lớn để làm cho các hạt
nguyên liệu ở trạng thái lơ lửng. Do tác nhân khí được gia nhiệt ngay từ bên ngoài, nên nhiên liệu
rắn nhanh chóng đạt được nhiệt độ của phản ứng sinh khí. Các hạt nguyên liệu ở dưới cùng của
buồng đốt hóa khí sẽ nhanh chóng được trộn với nguyên liệu của tầng sôi, làm cho chúng nóng
lên nhanh chóng để cân bằng với nhiệt độ của tầng sôi. Kết quả là nguyên liệu bị nhiệt phân rất
nhanh, dẫn đến sự pha trộn các thành phần của khí sinh ra rất nhanh làm tăng tốc độ khí hóa.


- Đối với loại lò đốt này, khí hóa và các phản ứng chuyển đổi keo-nhựa được xảy ra trong pha
khí. Điểm lưu ý là tất cả các thiết bị khí hoá nguyên lý tầng sôi đều phải được trang bị một hệ
thống cyclone để tách, lắng và thu hồi tro cuốn theo dòng khí. (nguồn tro, bụi này được hình
thành từ quá trình cháy nhiên liệu). Nếu dòng khí hoá được dùng làm nhiên liệu khí cấp cho động
cơ nổ thì yêu cầu thành phần tro, bụi còn sót lại phải nằm trong phạm vi yêu cầu cho phép. Dựa
trên các tải sử dụng nhiên liệu khí hoá, người ta có thể phân thành 3 loại lò hóa khí khác nhau: Lò hóa khí di động được dùng cấp nhiện liệu cho xe hơi, máy kéo, … - Lò hóa khí cố định được
dùng cấp nhiên liệu cho động cơ nổ (loại lò này được sử dụng rộng rãi ở vùng nông thôn của các
nước đang phát triển cho nhiều mục đích khác nhau như: chạy máy phát điện để cấp điện cho
sinh hoạt, bơm nước tưới ruộng đồng, kéo tổ hợp xay xát lúa gạo, ép mía…
- Lò hóa khí cố định cấp nhiên liệu đốt bao gồm cấp trực tiếp cho các lò nung gạch, gốm sứ, máy
sấy, lò hơi Thiết bị hóa khí còn được phân theo loại môi chất sử dụng: - Thiết bị khí hóa sử dụng
không khí làm môi chất. Loại hình thiết bị khí hóa này sử dụng không khí để cung cấp cho quá
trình khí hóa. Do không khí chứa tới 79% Nitơ nên sản phẩm khí tạo thành có nhiệt trị thấp.
Thường khoảng 4-6 MJ/Nm3 - Thiết bị khí hóa sử dụng ôxy làm môi chất. Với thiết bị khí hóa
loại này, do không tồn tại một lượng lớn Nitơ trong sản phẩm khí nên sản phẩm khí có thể có chất


lượng cao hơn với nhiệt trị lớn hơn (12-15 MJ/Nm3) - Thiết bị khí hóa sử dụng hơi nước làm
môi chất. Thiết bị khí hóa dạng này sử dụng nguồn nhiệt bên ngoài để cung cấp cho quá trình khí
hóa hoặc có thể có vùng cháy riêng biệt với vùng khí hóa. Hơi nước làm môi chất sẽ giúp tăng

hàm lượng H2 trong sản phẩm khí và cho sản phẩm khí chất lượng cao (1215 MJ/Nm3). Trong
thực tế, thiết bị khí hóa sử dụng không khí làm môi chất được sử dụng rộng rãi nhất do những
tiện lợi và tính đơn giản của nó. Để cải thiện chất lượng (tăng nhiệt trị) của khí sản phẩm, ta có
thể đồng thời phun hơi nước vào.
5 .Lò ứng dụng Phương pháp khí hóa plasma
• Sinh khối đi vào buồng khí hóa, tương tác với plasma tạo ra bằng điện, ở áp suất khí quyển và
nhiệt độ 1.500-5.000°C. Chất hữu cơ được chuyển đổi thành khí tổng hợp chất lượng cao, và các
chất vô cơ chuyển thành xỉ.

Lò ứng dụng khí hóa plasma

II.2 Một số công nghệ khí hóa
II.2.1 Công nghệ khí hóa than
Khí hóa than là phương pháp toàn diện và sạch nhất để chuyển hóa than, một nguồn nguyên liệu
rẻ tiền và sẵn có với trữ lượng khổng lồ ở nhiều nơi trên thế giới, hoặc các vật liệu có chứa
cacbon (kể cả sinh khối, rác thải sinh hoạt và phế thải công nghiệp) thành các nguyên liệu hoá
chất quan trọng như CO, H2, và các dạng năng lượng như nhiệt năng, điện năng.


Sơ đồ công nghệ khí hóa than
Khác với việc đốt than trực tiếp, công nghệ khí hóa chuyển hóa than - thực tế là nguyên liệu
cacbon - thành các thành phần hoá chất cơ bản. Trong thiết bị khí hóa hiện đại, than được tiếp
xúc với không khí (hoặc oxy) và hơi nước ở áp suất và nhiệt độ cao được kiểm soát chặt chẽ.
Trong những điều kiện đó, các phân tử cacbon trong than sẽ tham gia các phản ứng hoá học tạo ra
hỗn hợp CO, H2 và các khí thành phần khác.
Hydro và các loại khí khác có trong khí than có thể được sử dụng làm nguyên liệu để sản xuất
nhiều sản phẩm hoá chất quan trọng như amoniăc, phân urê, các sản phẩm hữu cơ,... hoặc dùng
làm nhiên liệu cho các tuabin phát điện. Khí hóa than cũng là phương pháp tốt nhất để sản xuất
nhiên liệu hydro sạch cho xe ôtô của tương lai và cho pin nhiên liệu dùng để phát điện.
Công nghệ khí hóa than còn mang lại ích lợi lớn về mặt môi trường trong việc sử dụng than, nhờ

khả năng làm sạch đến 99% các tạp chất gây ô nhiễm trong khí than. Ví dụ, lưu huỳnh trong than
có thể được chuyển thành dạng H2ÂS và được thu giữ hoặc chuyển hóa thành lưu huỳnh thương
phẩm. Tương tự, nitơ có trong khí than sẽ được chuyển hóa thành amoniăc và chất này có thể
được dùng để sản xuất phân bón hoặc các hoá chất khác.
Nhìn chung, khả năng sản xuất một cách hiệu quả điện năng, hyđro và các nguyên liệu hoá chất
khác, cũng như khả năng cắt giảm khí gây ô nhiễm, đang làm cho công nghệ khí hóa than trở
thành một trong những công nghệ hứa hẹn nhất cho các ngành năng lượng và hoá chất của tương


lai, nhất là khi giá các nguồn nguyên liệu dầu khí có xu hướng dao động mạnh trước những biến
động kinh tế, chính trị trên thế giới và ngày càng trở nên khan hiếm hơn.
Bằng cách khí hoá than có thể chuyển hoá được các loại nhiên liệu rắn chất lượng thấp, chứa
nhiều ẩm, tro, nhiệt cháy thấp thành nhiên liệu thể khí có chất lượng cao hoặc tạo thành khí tổng
hợp dùng trong công nghệ hoá học. Do có thể sử dụng các loại than có chất lượng thấp để sản
xuất khí than có giá trị công nghiệp nên khí hóa than sẽ mở ra một triển vọng tốt cho các vùng
than chất lượng thấp để phát triển công nghiệp. đặc biệt ở các tỉnh phía Bắc nơi có nhiều than
cám, than bụi (than Quảng Ninh) cũng như tại các vùng than nhỏ khác ở Tây Bắc chúng ta cũng
cần nghiên cứu trữ lượng để có thể đưa vào sản xuất.
II.2.2 Công nghệ khí hóa sử dụng phụ phẩm nông, lâm nghiệp để phát điện công suất nhỏ
(Năng lượng sinh khối )
1. công nghệ khí hóa từ trấu
Công ty cổ phần Vina Silic, công bố kết quả thử nghiệm loại bếp gas đun bằng trấu và than đá
cho người nghèo, đặc biệt là vùng nông thôn ĐBSCL. Bếp được áp dung công nghệ hóa khí bao
gồm hai loại nhiên liệu trấu và than đá kết hợp, cho kết quả khả quan.

Các mẫu bếp đun trấu hóa khí của Công ty cổ phần Vina Silic
Nguyên lý, kết cấu của thiết bị lò khí hóa lõi ngô, vỏ trấu.
Đây là lò khí hóa theo theo nguyên lý xuôi chiều liên tục quy mô công nghiệp. Nguyên liệu được
nạp vào từ phía trên đỉnh lò nhờ thiết bị cấp liệu (gầu tải). Ôxy sơ cấp (có trong không khí) được
cấp vào lò cho quá trình khí hóa nhờ quạt gió cũng theo chiều nạp liệu từ trên xuống, quá trình

khí hóa được diễn ra tới lúc khí tổng hợp syngas sinh ra sẽ được lấy mẫu để phân tích tỷ lệ các
thành phần khí và đo trực tiếp bằng thiết bị đo quan trắc điện tử hiện số. Khí tổng hợp syngas liên
tục được sinh ra và được dẫn đưa ra ngoài lò nhờ hệ thống ống dẫn khí gas để đưa đến buồng đốt.


Tại buồng đốt khí tổng hợp syngas được đốt cháy khi có lượng oxy thứ cấp có trong không khí
khi được cấp cưỡng bức vào để đốt cháy thành ngọn lửa. Đối với tro sẽ được thải ra theo đường
dưới đáy lò. Quá trình cấp ôxy (có trong không khí) nạp liệu, xả tro, và sinh khí syngas được diễn
ra liên tục từ khi bắt đầu hoạt động cho đến khi có nhu cầu dừng lò

Lò khí hóa trấu
2. Công nghệ khí hóa từ sinh khối
Sinh khối dạng rắn có thể được chuyển thành dạng khí, được gọi là khí tổng hợp (syngas). Khí
này có thể cung cấp cho các turbine chu kỳ liên hợp CCGT hoặc các kỹ thuật chuyển đổi khác
nhưng các nhà máy nhiệt chạy than.
Nhiều chuyên gia hy vọng rằng khí hóa sinh khối sẽ có hiệu suất cao hơn nhà máy điện sinh khối
thông thường. Tuy nhiên, cho đến nay, quá trình khí hóa vẫn chưa được ứng dụng rộng trong thực
tế mà chỉ vẫn đang ở giai đoạn thử nghiệm kỹ thuật[xvi]. Các lò chuyển đổi sinh khối rắn thành
khí đốt nóng sinh khối ở một môi trường mà tại đó sinh khối rắn phân hủy chuyển thành khí dễ
cháy. Quá trình này có thuận lợi hơn so với việc đốt trực tiếp. Khí sinh học có thể được làm sạch
và lọc để phân loại và tách các hợp chất hóa học có thể có hại. Sản phẩm khí có thể được dùng ở
các máy phát điện hiệu suất cao (dạng CCGT) – như liên hợp turbine khí và hơi – để sản xuất
điện năng. Hiệu suất của những hệ thống dạng này có thể lên đến 60%.

Công nghệ khí hóa sinh khối


3. Công nghệ khí hóa sinh khối từ tiêu hóa yếm khí
Đây là quá trình sinh học trong đó khí methane được thải ra từ sự phân hủy các vật chất hữu cơ
của các vi sinh vật trong môi trường không có oxy. Khí methane này có thể được thu hồi và sử

dụng để tạo ra năng lượng. Quá trình tiêu hóa yếm khí sử dụng các chất thải sinh học như phân
hữu cơ và các chất thải rắn đô thị. Phân hoặc chất thải được đóng gói và phân hủy bởi vi sinh vật
và nước. Quá trình này thải ra khí mê tan trong gói, và khí này được dẫn vào một gói chứa khí
khác. Từ đó, khí methane đươc dùng để cung cấp năng lượng cho turbine và tạo ra điện.
Ở mức độ phân tử, thủy phân chuyển hóa các chất hửu cơ thành đường và amino acid. Quá trình
lên men các vật chất này sinh ra các acid chất béo dễ bay hơi. Các acid chất béo này sau đó tạo
thành hydrogen, CO2, và acetate trong quá trình Acidogenesis. Cuối cùng, quá trình
methanogenesis sản xuất các khí sinh học, hỗn hợp này gồm có 55-70% khí methane, 25-35 %
CO2 và các chất vi lượng như nitrogen và hydrogen sulfide. Trong môi trường yếm khí, khí mê
tan có thể được thu hồi và sử dụng nhằm cung cấp năng lượng cho turbine khí hoặc thậm chí các
pin nhiên liệu.
Sự sinh trưởng của vi sinh vật và sản xuất khí sinh học là rất chậm ở nhiệt độ bình thường. Quá
trình phân hủy yếm khí thường xảy ra một cách tự nhiên khi nồng độ của các vất chất hữu cơ ẩm
cao trong môi trường không có oxy, thường là ở đáy ao hồ, đầm lầy, bãi than bùn, ruột động vật
và các khu vực yếm khí của các bãi chôn lấp. Năng suất cúa quá trình này phụ thuộc vào thành
phần và khả năng có thề phân hủy được của các nguyên liêu chất thải. Tuy nhiên, tốc độ của quá
trình này phụ thuộc vào mật độ của các vi sinh vật, các điều kiện sinh trưởng của chúng và nhiệt
độ của quá trình lên men.


Sơ đồ Công nghệ khí hóa sinh khối từ tiêu hóa yếm khí

Khi được sử dùng như một quá trình xử lý chất thải, tốc độ phân hủy tăng khá cao trong khoảng
nhiệt độ 20-40 độ C. Đối với các chất thải rắn đô thị, tốc độ phân hủy có thể được tăng cao ở
nhiệt độ cao hơn như 50-60 độ C.
4. Công nghệ biến rác thải đô thị thành nhiên liệu nung clanhke xi măng của Kawasaki:
Nguyên tắc của phương pháp là: khí hóa rác thải đô thị, có thể khí hóa bùn của quá trình xử lý
nước thải, khí này được cung cấp cho lò xi măng như một dạng nhiên liệu; phần tro của quá trình
khí hóa có thể dùng làm nguyên liệu cho sản xuất xi măng



Quy trình xử lý rác thải đô thị và bùn từ xử lý nước thải

Trong quy trình trên, hệ thống ZEET làm nhiệm vụ: khí hóa rác và bùn ở nhiệt độ 500 ÷ 600oC.
Khí thu được là nhiên liệu đốt trong lò xi măng nên không gây độc hại và ô nhiễm về mùi; phần
tro thu được là nguyên liệu cho xi măng (dạng phụ gia khoáng); hợp chất không cháy và kim loại
nặng được tách riêng và có thể tái chế.

Nguyên lý hoạt động của hệ thống ZEET

Ưu điểm của hệ thống này là:
- Do rác được khí hóa trong lò khí hóa nên tránh được việc lẫn tạp chất của chất không cháy
trong xi măng;
- Nước thải hữu cơ (nước có nguồn gốc từ rác) được phun trực tiếp vào lò xi măng nên không cần
qua khâu xử lý;


- Chỉ cần sử dụng chất trợ nhiệt ở quá trình đầu khởi động, không cần sử dụng nhiên liệu trợ
nhiệt (đốt kèm dầu) trong quá trình vận hành.
- Sau quá trình khí hóa: hợp chất dioxin, các chất gây mùi hôi… được tiếp tục đốt và phân hủy
trong buồng đốt calciner của lò nung xi măng ở nhiệt độ 900 ÷ 1000oC. Quá trình từ vận chuyển
từ điểm tập kết rác đến khí hóa và cấp khí gas cho lò quay là khép kín; do đó không gây nên
những ô nhiễm về mùi cho nhà máy xi măng.

Chương 3 : Những thách thức và tiềm năng của khí hoá trong nhiên liệu sinh
học
III.1 Cơ hội và Tiềm năng
Tại hội thảo “Công nghệ khí hóa và ứng dụng” do Trung tâm Nghiên cứu và phát triển về năng
lượng tiết kiệm (ENERREAM) tổ chức, các chuyên gia cho biết các tỉnh ĐBSCL có hàng ngàn lò
gạch gốm, trong đó hơn 80% vẫn nung đốt trực tiếp truyền thống. Nếu được ứng dụng công nghệ

khí hóa vào sản xuất thì sẽ tiết kiệm nhiên liệu, hiệu quả năng lượng cao hơn; cải thiện chất lượng
sản phẩm, môi trường. Ngoài ra, công nghệ khí hóa còn có thể ứng dụng trong việc sấy nông sản
(lâu nay người dân thường dùng điện, gas, sấy cao su, lúa, trái cây...).
Ưu điểm của phương pháp khí hóa là sử dụng khí tổng hợp hiệu quả hơn nhiều so với việc đốt
trực tiếp các nguồnnhiên liệu ban đầu do có thể đốt ở nhiệt độ cao hơn. Khí tổng hợp có thể đốt
trực tiếp trong các động cơ đốt trong, sử dụng để sản xuất methanol và hydro hoặc chuyển hóa
thành nhiên liệu tổng hợp nhờ phương pháp Fischer-Tropsch. Phương pháp khí hóa cũng có thể
áp dụng với các loại nhiên liệu không có ích khác như các phế thải hữu cơ hay sinh khối. Quá
trình đốt ở nhiệt độ cao giúploại bỏ các thành phần tro ăn mòn như clorua, kali tạo thành sản
phẩm khí sạch.
Công nghệ khí hóa biogas đã được áp dụng trong hoạt động sản xuất, nhưng chưa phổ biến. Một
vài doanh nghiệp ứng dụng công nghệ này có thể kể đến như Công ty Mía đường Tuy Hòa (Phú
Yên) dùng khí biogas lò đốt hơi thay thế cho dầu FO hay Nhà máy Chế biến tinh bột mỳ Tịnh
Phong và Sơn Hải (thuộc Công ty cổ phần Nông sản thực phẩm Quảng Ngãi) với dự án tận dụng
khí biogas trong sản xuất…
+ Tiềm năng lớn chưa được khai thác
Việt Nam là một nước nhiệt đới nhiều nắng và mưa nên sinh khối phát triển nhanh. Ba phần tư
lãnh thổ là đất rừng nên tiềm năng phát triển gỗ lớn. Là một nước nông nghiệp nên nguồn phụ


phẩm nông nghiệp phong phú. Nguồn này ngày càng tăng trưởng cùng với việc phát triển nông
nghiệp và lâm nghiệp.
+ Nhu cầu ngày càng phát triển
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế - xã hội của đất nước, nhu cầu ứng dụng các công nghệ NLSK
ngày càng phát triển. Thí dụ việc phát triển trồng lúa làm nảy sinh nhu cầu xử lý trấu ở các nhà
máy xay xát, nhu cầu sấy thóc sau thu hoạch. Chính những nhu cầu này đã kích thích việc phát
triển các nhà máy sấy và công nghệ đồng phát sử dụng sinh khối. Việc phát triển chăn nuôi đã tạo
ra nhu cầu xử lý chất thải vật nuôi, thúc đẩy công nghệ khí sinh học phát triển mạnh mẽ.
Các chính sách và thể chế đang từng bước hình thành tạo thuận lợi cho phát triển năng lượng tái
tạo nói chung và năng lượng sinh khối nói riêng

Mặc dù chưa có chính sách năng lượng nói chung và năng lượng tái tạo nói riêng nhưng từng
bước năng lượng tái tạo đã được đề cập đến trong các văn bản nhà nước. Gần đây nhất là Quyết
định của Thủ tướng chính phủ số 176/2004/QĐ-TTG ban hành ngày 05 tháng 12 năm 2004 về
việc phê duyệt chiến lược phát triển ngành điện Việt Nam giai đoạn 2004-2010, định hướng đến
năm 2020 và Luật Điện lực được Quốc hội thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004 đều có ghi sử
dụng nguồn năng lượng mới, tái tạo để cung cấp điện cho vùng nông thôn, miền núi hay hải đảo.
Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ số 35/2005/CT-TTG ban hành ngày 17 tháng 10 năm 2005 về
việc tổ chức thực hiện nghị định thư Kyoto thuộc công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến
đổi khí hậu cũng là một cơ sở pháp lý thuận lợi cho năng lượng tái tạo.
+ Môi trường quốc tế thuận lợi
- Năng lượng tái tạo bằng công nghệ khí hóa, ngày càng được quan tâm và đầu tư phát triển. Đến
cuối năm 2005, ít nhất đã có 43 nước (trong đó có 25 nước Cộng đồng Châu Âu và 10 nước đang
phát triển: Ai Cập, Ấn Độ, Bra-xin, Cộng hoà Đô-mi-nic, Ma-lai-xia, Mali, Nam Phi, Phi-lip-pin,
Thái Lan, Trung Quốc) có mục tiêu quốc gia về năng lượng tái tạo, 48 nước (34 nước phát triển
và có nền kinh tế đang chuyển đổi, 14 nước đang phát triển) có chính sách khuyến khích phát
triển điện tái tạo.
- Kế hoạch hành động năng lượng giai đoạn 2005-2010 của các nước ASEAN trong đó có đề ra
mục tiêu đạt ít nhất 10% điện tái tạo trong cơ cấu sản xuất điện.
- Nhiều tổ chức quốc tế đang quan tâm phát triển công nghệ năng lượng từ sinh khối ở Việt Nam:
họ tổ chức nhiều hội thảo, tài trợ nhiều dự án phát triển năng lượng sinh khối ở nước ta. Các dự
án năng lượng sinh khối có cơ hội tận dụng cơ chế phát triển sạch (CDM) để thu hút vốn đầu tư.


- Nhiều công nghệ dã được hoàn thiên, ứng dụng thương mại nên Việt Nam có thể nhập và ứng
dụng, tránh được rủi ro về công nghệ.

III.2 Thách thức về công nghệ khí hóa ở Việt nam
Nghiên cứu về thị trường Việt Nam, ông Kimmo Tuppurainen, đồng sáng lập và là Giám đốc
Kinh doanh của Watrec - một doanh nghiệp chuyên về xử lý chất thải hữu cơ bằng công nghệ
biogas của Phần Lan cho rằng : “ với nền nông nghiệp và khí hậu tốt, nguồn chất thải hữu cơ dồi

dào từ quá trình chăn nuôi, từ rác thải đô thị, nhà máy chế biến thực phẩm (chiếm 40-60% trong
rác thải hiện nay)..., Việt Nam có nhiều cơ hội để tái tạo, phát triển nguồn năng lượng sạch. Tuy
nhiên, công nghệ xử lý chất thải hữu cơ đang áp dụng hầu hết là công nghệ lạc hậu (chủ yếu sử
dụng công nghệ composite). Đây chưa phải là giải pháp tối ưu nhất cho doanh nghiệp Việt.”
Các công trình sử dụng khí sinh học cần vốn đầu tư lớn và thời gian hoàn vốn khá lâu, đây là
những lý do chính khiến nhiều doanh nghiệp ngại triển khai. Bên cạnh đó, Chính phủ hiện vẫn
chưa có cơ chế cụ thể về giá bán điện cũng như sản xuất biogas để khuyến khích các nhà đầu tư,
trong khi tiềm năng thị trường lớn, cạnh tranh chưa nhiều.
Cơ chế giá rõ ràng, minh mạch sẽ tạo động lực thu hút các nhà đầu tư tham gia sâu hơn vào thị
trường năng lượng sạch tại Việt Nam. Với tiềm năng lớn, cộng thêm chính sách hỗ trợ phù hợp,
thị trường này sẽ bùng nổ trong tương lai không xa", lãnh đạo Watrec nhìn nhận.
+ Sự cạnh tranh về nhu cầu nguyên liệu sinh khối
Một trong những điều không biết chắc được khi phát triển NLSK là sự cạnh tranh về nguyên liệu.
Thí dụ rơm rạ còn làm thức ăn cho trâu bò, giấy phế liệu có thể tái chế, gỗ phế liệu và mùn cưa
có thể làm gỗ ép. Ngô, khoai, sắn để sản xuất etanol; đậu tương, lạc, vừng, dừa,...để sản xuất
biodiezen còn dùng làm lương thực, thực phẩm cho người và gia súc.
+ Sự cạnh tranh về chi phí của các công nghệ
Hiện nay nhiều công nghệ sinh khối còn đắt hơn công nghệ truyền thống sử dụng nhiên liệu hoá
thạch cả về trang thiết bị lẫn nhiên liệu nên việc đưa công nghệ mới vào Việt Nam còn gặp trở
ngại lớn.
Việt Nam còn là một nước nghèo nên thiếu kinh phí đầu tư phát triển công nghệ mới là một rào
cản rất lớn. Thí dụ bếp đun cổ truyền hiệu suất thấp nhưng đầu tư không đáng kể, đôi khi bằng
không, trong khi đầu tư để có một bếp cải tiến phải tốn vài chục nghìn đồng. Đây là một khoản
đầu tư lớn đối với người dân ở nông thôn khi mà một ngày công của họ chỉ được vài nghìn đồng.
+ Trở ngại về môi trường
Năng lượng sinh khối có một số tác động môi trường


Khi đốt, các nguồn sinh khối phát thải vào không khí bụi và khí sunfurơ (SO2). Mức độ phát thải
tuỳ thuộc vào nguyên liệu sinh khối, công nghệ và biện pháp kiểm soát ô nhiễm.


Việc phát triển quy mô lớn các cây năng lượng để sản xuất nhiên liệu sinh học (biofuel) có thể
dẫn tới gia tăng sử dụng thuốc trừ sâu và phân bón, gây tác hại đối với động vật hoang dã và môi
trường sống.
Sản xuất năng lượng từ gỗ có thể gây thêm áp lực cho rừng....Đây là tất cả những vấn đề cần xem
xét kĩ lưỡng khi phát triển năng lượng sinh khối. Thiếu nhận thức của xã hội về năng lượng sinh
khối
Hiện nay khi nói tới năng lượng người ta chỉ nghĩ tới điện, than, dầu khí. Các nhà hoạch định
chính sách thường không quan tâm tới NLSK. Một thí dụ điển hình là ngành điện có dự án Năng
lượng nông thôn nhưng thực ra đây chỉ là dự án điện khí hoá nông thôn.
Do thiếu nhận thức nên hầu như không có các doanh nhân kinh doanh trong lĩnh vực NLSK.
Người ứng dụng các công nghệ mới gặp rất nhiều khó khăn trong việc mua sắm trang thiết bị, tìm
kiếm dịch vụ hậu mãi. Thí dụ Dự án Khí sinh học xây dựng 18000 công trình nhưng không có
mạng lưới cung cấp các dụng cụ sử dụng khí như bếp, đèn....Thị trường mới phát triển phía nhu
cầu, còn phía cung cấp chưa được quan tâm.
Thiếu các chính sách và thể chế cụ thể của chính phủ
Hiện nay Việt Nam chưa có chính sách năng lượng nói chung và chính sách năng lượng tái tạo
nói riêng. Năng lượng tái tạo không có các mục tiêu cụ thể trong kế hoạch phát triển của nhà
nước trung ương và địa phương. Hiện cũng chưa có một cơ quan nhà nước nào chịu trách nhiệm
quản lý lĩnh vực này.
Tuy đã có nhiều biến chuyển tích cực trong việc nghiên cứu và phát triển kỹ thuật khí hoá trong
nước, nhưng chúng ta cần phải tiếp tục thực hiện nhiều nghiên cứu khác nhau nhằm nắm thật
vững công nghệ và đưa ra các sản phẩm cụ thể để có thể phát triển rộng trong cả nước một cách
có hiệu quả nhất.


Chương 4 : Kết luận
Rất nhiều các Nhà khoa học , các Viện , Trường quan tâm đến việc nghiên cứu và ứng dụng công
nghệ khí hóa vào thực tế tại Việt nam trong khoảng 5 năm trở lại đây. Nhưng hầu hết đều dừng lại
ở mức độ nghiên cứu và thử nghiệm . Các kết quả nghiên cứu cho thấy với đội ngũ làm công tác

kỹ thuật công nghệ và năng lực chế tạo trong nước hoàn toàn có thể làm chủ và ứng dụng rộng rãi
công nghệ này trong công nghiệp và đời sống .
Công nghệ khí hóa của sinh khối hiện chiếm một tỉ lệ lớn trong tiêu thụ năng lượng toàn quốc
nhưng lâu nay không được quan tâm. Việc khai thác sử dụng còn theo lối cổ truyền nên hiệu quả
thấp: hiệu suất thấp và gây ô nhiễm môi trường. Vấn đề cấp bách để phát triển năng lượng sinh
khối nói riêng và năng lượng tái tạo nói chung hiện nay là cần có chiến lược phát triển, những
chính sách, thể chế và quy hoạch cụ thể của nhà nược. Trên cơ sở đó có biện pháp huy động vốn
đầu tư từ các nguồn nhà nước, tư nhân, quốc tế…cho nghiên cứu triển khai và phát triển ứng
dụng.
Trong các công nghệ khí hóa sinh khối tạo năng lượng hiện nay, cần tập trung vào một số công
nghệ: bếp cải tiến, sấy và phát điện dung sinh khối, khí sinh học. Đặc biệt với tỷ lệ sinh khối sử
dụng trong đun nấu hiện lớn nhất nên việc xây dựng một dự án quốc gia về bếp cải tiến sẽ mang
lại hiệu quả rất lớn về tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường.

Tài liệu tham khảo
1: Nhiên liệu sạch. PGS. TS Đinh Thị Ngọ . Nhà xuất bản khoa học kĩ thuật 2009
2: World Energy Council, 2001, Survey of Enery Resources – Biomass (Other than Wood)
/>3: Nguyễn Đình Tùng, cs. (2014), Nghiên cứu thiết kế, chế tạo lò khí hóa liên tục phụ phẩm nông
nghiệp (vỏ trấu, lõi ngô) quy mô công nghiệp, Báo cáo tổng kết Đề tài nghiên cứu cấp Nhà Nước,
Bộ Công thương.
4: Trung tâm Thông tin Khoa học & Công nghệ; Xu hướng ứng dụng công


nghệ khí hóa từ phụ phẩm nông nghiệp trên cơ sở số liệu sáng chế quốc tế



×