Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 57 (07/2019) 01-04
1
MỸ THUẬT ỨNG DỤNG VÀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO
TIẾP CẬN TỪ HỌC LIỆU MỞ
APPLIED FINE ARTS AND TRAINING WORKS APPROACH
FROM OPEN LEARNING MATERIALS
Phạm Lan Oanh *1
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 3/01/2019
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 4/7/2019
Ngày bài báo được duyệt đăng: 25/7/2019
Tóm tắt: Bối cảnh xã hội biến đổi, thông tin đa chiều và xã hội số hóa, sự xuất hiện của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ 4 đang đặt ra nhiều cơ hội và thách thức trong đào tạo Nghệ thuật. Thiết bị học
tập hạn chế và lạc hậu là một trong những rào cản trong việc dạy và học về nghệ thuật. Bài viết đề cập nội
dung mở rộng các tài liệu học tập mở trong đào tạo nghệ thuật như một giải pháp hữu ích của mô hình học
tập suốt đời cho công dân ngày nay.
Từ khóa: Học tập suốt đời, học liệu mở, đào tạo nghệ thuật, giải pháp hữu ích, cách mạng công nghiệp 4.0
Abstract: In a highly changing social context, with multidimensional information and digitized
society, the emergence of the 4th industrial revolution is posing many opportunities and challenges in Art
education. Limited and outdated learning equipment is one of the barriers in Art teaching and learning. This
article mentions the expansion of open learning materials in Art training as a useful solution of a lifelong
learning model for citizens today.
Keywords: Lifelong learning, open learning materials, art training, utility solutions, industrial revolution 4.0
1
* Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam
2
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Đặt vấn đề:
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, giáo dục
được xác định là sự bảo đảm cho tương lai cá nhân
phát triển và là chìa khoá để giải quyết các vấn đề
xã hội và môi trường trong mối quan hệ con người
- môi trường - xã hội theo quan điểm phát triển bền
vững. Đặc biệt giáo dục đại học, đã và đang trở
thành nơi diễn ra quá trình hợp tác, cạnh tranh,
giao lưu và đối thoại văn hóa ở cấp độ thế giới và
khu vực. Nói cách khác, xu hướng quốc tế hoá
giáo dục tất yếu dẫn đến việc hình thành và phát
triển thị trường giáo dục toàn cầu với nội dung mở
rộng tri thức toàn cầu gắn với cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ 4. Bối cảnh thế giới và khu
vực khiến sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam nói
chung, ở các ngành nghề cụ thể nói riêng, trong đó
có ngành mỹ thuật chắc chắn phải tiến hành đổi
mới về công tác đào tạo theo xu hướng học tập
suốt đời (HTSĐ), tiến tới xây dựng xã hội học tập
(XHHT) thì mới mong có cơ hội theo kịp sự phát
triển của thế giới và khu vực.
Từ thực tiễn công tác đào tạo trong ngành mỹ
thuật hiện nay, Việt Nam có trên dưới 40 cơ sở đào
tạo có nội dung đào tạo liên quan tới mỹ thuật ứng
dụng theo những quy mô và mô hình đào tạo khác
nhau. Vì sự đa dạng, chưa thống nhất, chưa đồng
nhất trong công tác quản lý đào tạo, nội dung đào
tạo, loại hình đào tạo.v.v… nên công tác đào tạo ở
bậc cao đẳng, đại học và sau đại học liên quan tới
mỹ thuật tạo hình và mỹ thuật ứng dụng nói chung
còn quá nhiều bất cập. Bức tranh chung về đào tạo
mỹ thuật còn đa sắc, tuy nhiên chúng tôi chỉ đề cập
tới nội dung học liệu mở của ngành.
Chúng ta đều biết để đào tạo hiệu quả, việc
học đi đôi với hành là vô cùng quan trọng. Thực tế,
có thể do quan điểm đào tạo, nên các trang thiết bị,
học liệu dành cho đào tạo mỹ thuật tạo hình, mỹ
thuật ứng dụng còn nhiều hạn chế, mặc dù dòng
thông tin rất mở nhờ sự hỗ trợ của internet và
truyền thông đại chúng. Việc chuyển đổi từ đào tạo
niên chế sang đào tạo tín chỉ, một mặt tạo ra sự
thuận lợi và khách quan hơn trong dạy và học –
nhưng đồng thời, những khó khăn do đào tạo
nhanh, không chú trọng các kỹ năng thực hành
một cách lâu dài (mưa dầm thấm lâu) nên hầu hết
sinh viên khối nghệ thuật, đặc biệt là sinh viên mỹ
thuật ứng dụng đa phần có việc làm ngay từ khi
ngồi trên giảng đường, nhưng khi ra trường, số cử
nhân tương tác tốt với các vị trí đa dạng của các
công ty, doanh nghiệp, các vị trí cao trong sáng tạo
nghề nghiệp thì rất ít. Như vậy, sự bất cập trong
triết lý giáo dục, trong cách quản lý, điều hành,
chất lượng đội ngũ giảng viên hay do nhu cầu thị
trường thay đổi quá nhanh, thị trường quá khó
tính?.v.v….
Bộ GD&ĐT đã có những chỉ đạo rất sát sao
trong quản lý nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
như là tổ chức các cuộc thi giáo viên dạy giỏi, thúc
đẩy nghiên cứu khoa học trong giảng dạy và các
cuộc thi sinh viên nghiên cứu khoa học hằng năm
ở các cấp.
Thực tế, việc tổ chức các cuộc thi nêu trên đã
đem lại những kết quả tốt, là động lực cho sự phát
triển ở mức độ nhất định. Với sinh viên khối nghệ
thuật mỹ thuật ứng dụng, chúng tôi đánh giá cao sự
nỗ lực của các em, nhưng để có thể đi lâu dài trên
con đường nghệ thuật, có tư duy phản biện, tư duy
nghiên cứu, các kiến thức nền tảng về văn
hóa xã hội nói chung, các kiến thức nền tảng
chuyên sâu về nghề thì chắc chắn phải được
đầu tư một cách bài bản và lâu dài mới mong
có kết quả.
Chúng tôi nhận thấy: để học tập suốt đời về
nghệ thuật thành công, bên cạnh thực hành nghệ
thuật, việc giáo dục nghệ thuật, mà cụ thể là đọc
sách phải trở thành một yêu cầu bắt buộc. Muốn
vậy, cần phải có một kế hoạch dài hơi, liên thông
giữa các trường đào tạo về mỹ thuật ở Việt Nam.
Trên quan điểm, dù là trường nghề (trung cấp, cao
đẳng, đã chịu sự quản lý của bộ LĐTBXH), hay
trường Sư phạm (sự quản lý của Bộ GD&ĐT),
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
trường thuộc hệ thống lực lượng vũ trang (Công
an, quân đội), trường thuộc Bộ VHTTDL…thì về
bản chất, yêu cầu kiến thức nền tảng mỹ thuật, kiến
thức nền tảng về văn hóa xã hội vẫn mang các nét
tương đồng. Do vậy, việc biên soạn tài liệu tham
khảo là các sách công cụ về nghiên cứu nghệ
thuật, lý luận nghệ thuật, phương pháp, các lý
thuyết về nghệ thuật đã và đang được tiến
hành trên thế giới và trong nước rất cần được
xuất bản, biên soạn theo logic là tài liệu liên
thông giữa các bậc đào tạo.
Thực tế cho thấy, mỹ thuật ứng dụng là
ngành học khá non trẻ so với các ngành khoa
học xã hội và nhân văn khác đã được đào tạo
ở Việt Nam. Ngành Mỹ thuật ứng dụng đã đạt
được nhiều thành tựu cao (nếu tiếp cận thực
sự từ mô hình trường nghề do người Pháp lập
ra), nhưng những tổng kết, nghiên cứu thì khá
mỏng, thậm chí có thể nói là rất mỏng. Vậy,
rất cần có sự đầu tư cho phần việc này.
Tương tự, việc biên soạn và xuất bản các
giáo trình ở bậc cao đẳng và đại học phải trở
thành phần việc đương nhiên với chất lượng
ngày càng nâng cao.
Bên cạnh đó, với ưu thế đặc thù liên quan
tới cái đẹp, các giáo trình trực tuyến, các slide
sinh động hấp dẫn sẽ khiến nội dung đào tạo
trở nên cập nhật và hấp dẫn hơn. Để đạt được
mức độ hấp dẫn cả về hình thức và nội dung
nêu trên, yêu cầu về ngoại ngữ, khả năng tin
học và các kỹ năng mềm (ví dụ kỹ năng
thuyết trình) bắt buộc phải thành thạo theo xu
hướng bắt kịp thế giới.
Tiếp cận từ học liệu mở cho sinh viên
khối mỹ thuật nói chung, mỹ thuật ứng dụng
nói riêng sẽ cho chúng ta - cả người dạy và
người học có tâm lý sáng tạo và hưởng thụ
nghệ thuật một cách hiện đại, nhanh và hiệu
quả cao.
Để mở rộng học liệu nêu trên, cũng xác
định rất rõ các các chủ thể mới là các doanh
3
nghiệp và các tổ chức xã hội (thuộc về lĩnh
vực giáo dục, các tập đoàn xuyên quốc gia) sẽ
khiến nảy sinh các cơ chế hợp tác mới trong
mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia vào
lĩnh vực giáo dục đào tạo… Bên cạnh đó,
giáo dục đại học sẽ ngày càng trở nên phổ
biến (và phổ cập) là tất yếu và sẽ đòi hỏi ngày
càng cao hơn, đa dạng hơn, phức tạp hơn về
chất lượng đào tạo. Trong xu hướng tự chủ
giáo dục, vai trò của Nhà nước chỉ là định
hướng vĩ mô và vai trò của người đứng đầu
cơ sở đào tạo được giao quyền tự chủ nhiều
hơn, đồng nghĩa với việc liên kết và hội nhập
với xu thế đào tạo của thế giới và khu vực sẽ
có điều kiện để được thực thi nhanh và hiệu
quả hơn.
Kết luận:
Yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền
giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hóa,
hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội
nhập quốc tế đã được thể chế hóa trong Chiến
lược phát triển giáo dục 2011-2020, ban hành
ngày 13/6/2012; chủ trương, quan điểm, mục
tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cho công cuộc đổi
mới này được làm rõ trong NQ29 của Hội
nghị trung ương (Khóa XI), ban hành ngày
04/11/2013 (Luật Giáo dục đại học được ban
hành trong các năm 2012, 2018 và Luật Giáo
dục năm 2014). Đến nay, Luật Giáo dục đại
học đã tạo hành lang pháp lý cho tiến trình
đổi mới giáo dục theo định hướng chuẩn hóa,
hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội
nhập quốc tế. Những công việc liên quan tới
đào tạo mỹ thuật công nghiệp gắn với nhu
cầu của người học, nhu cầu tuyển dụng nguồn
nhân lực này của xã hội là một trong những
thước đo hiệu quả hữu hiệu cho công tác đào
tạo sinh viên mỹ thuật ở các cấp có được thực
sự hiệu quả, đáp ứng được đòi hỏi của xã hội
hay không! Và tiếp theo, công tác đào tạo
nguồn nhân lực mỹ thuật công nghiệp không
4
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
chỉ dừng ở trình độ đại học, mà đào tạo sau
đại học (mới ở trình độ thạc sĩ, chưa có trình
độ tiến sĩ về mỹ thuật ứng dụng ở VN) đòi
hỏi các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý giáo
dục và các cơ sở đào tạo mỹ thuật ứng dụng
phải đầu tư sâu và hiệu quả hơn nữa trong
việc mở rộng và nâng cao chất lượng học
liệu, mà ở trình độ cấp cao chính là những
học liệu mang tính lý luận chuyên ngành.
Việc công khai, minh bạch nguồn học liệu
mở sẽ góp phần thúc đẩy nâng cao chất lượng
đào tạo một cách khách quan, sòng phẳng
giữa các sơ sở đào tạo, tạo động lực hợp tác
và cạnh tranh trong đào tạo theo xu hướng
quốc tế hóa giáo dục hiện nay./.
Tài liệu tham khảo:
1. Quyết định phê duyệt Chiến lược phát triển
giáo dục 2011-2020, số 711/QĐ-TTg của Thủ
tướng chính phủ. Ban hành ngày 13/6/2012
2. Nghị quyết Hội nghị Trung Ương 8 khóa XI
về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo”. Ban chấp hành Trung ương, số
29/NQ-TW, ngày 04/11/2013
3. Luật giáo dục Đại học, số 08/2012/QH13.
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, ký ngày 18/6/2012. Bản Sửa đổi
năm 2018.
Địa chỉ tác giả: Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia
Việt Nam
Email: