Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Đặc trưng cung đình của thơ ca các chúa Trịnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.39 KB, 9 trang )

Đặc trưng cung đình của thơ ca các chúa Trịnh
Nguyễn Mạnh Hoàng1
1

Viện Thông tin Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Email:
Nhận ngày 15 tháng 1 năm 2019. Chấp nhận đăng ngày 30 tháng 3 năm 2019.

Tóm tắt: Trong sự phát triển văn học thời Lê - Trịnh, các thi nhân chúa Trịnh đã để lại dấu ấn đậm
nét thơ ca. Dòng thơ ca các chúa Trịnh mang đậm tính chất cung đình, nội dung tư tưởng thường
tập trung vào các vấn đề cơ bản như: ca ngợi xã hội, triều đại thái bình, thịnh trị; tỏ rõ khẩu khí của
các đấng minh quân trong các công việc trị sự; giáo huấn các phạm trù đạo đức, nhân luân cũng
như chức phận của quan, dân trong vương triều; phủ dụ, giáo huấn các bề tôi. Ngôn ngữ, bút pháp
thơ ca các chúa Trịnh mang đậm tính chất kinh viện, đài các, bác học, khuôn thức.
Từ khóa: Thơ ca, chúa Trịnh, cung đình, văn học, thời Lê - Trịnh.
Phân loại ngành: Văn học
Abstract: In the development of the literature under the Le-Trinh period, poets, who were Trinh
Lords, left their profound imprints. Their poetry line is imbued with the royal court character, with
the contents focused on basic issues such as praising the peacefulness and prosperity of the society
and the dynasty, and demonstrating clearly the ambitions of the Lords, who were the de facto rulers
in governing the country. The issues also include educating the subjects of morality and the ethical
relationships among them, and the functions and obligations of mandarins and the grassroots... The
language and composition styles in the Trinh Lords' poems were highly academic, aristocratic,
scholarly and following patterns.
Keywords: Poetry, Trinh Lords, royal court, literature, Le-Trinh period.
Subject classification: Literature

1. Mở đầu
Họ Trịnh là một vọng tộc phong kiến đã
kiểm soát quyền lực nhà nước Đại Việt


94

trong hầu suốt cả thời Lê - Trịnh (15331788), khi nhà Lê tuy không có thực quyền
nhưng vẫn duy trì được ngôi vị. Các chúa
Trịnh ý thức rằng, sự nghiệp “trung hưng”


Nguyễn Mạnh Hoàng

đất nước muốn thành công vẫn phải dựa
trên ảnh hưởng và uy tín của nhà Lê nên đã
áp dụng một định chế mà ở đó vua Lê vẫn
được duy trì ngôi vị trên danh nghĩa, nhưng
thực quyền lại nằm trong tay chúa Trịnh.
Mô hình chính trị này là một thiết chế hết
sức đặc biệt trong lịch sử phong kiến Việt
Nam - thiết chế “lưỡng đầu” vua Lê - chúa
Trịnh. Các chúa Trịnh về cơ bản giữ thái độ
hòa kính với vua Lê; còn các vua Lê cũng
cơ bản chấp nhận tình thế của mình (dù có
thể mang tính hình thức, và đôi khi cũng
xảy ra những xung đột nhất định giữa vua
Lê và chúa Trịnh, nhưng chưa đến mức đổ
vỡ). Trước chính sách đó, cộng với thực tế
hiển hiện là các vua Lê tài năng hạn chế,
các chúa Trịnh mới có khả năng điều hành
đất nước, dân chúng Đại Việt (đặc biệt là
giới trí thức Nho học) cũng chấp nhận thể
chế đó như một lựa chọn không thể khác.
Theo ghi chép của các bộ sử sách như

Đại Việt sử ký tục biên, Đại Việt thông sử,
Lịch triều hiến chương loại chí, Lịch triều
tạp kỷ… có thể thấy đa số các chúa Trịnh là
những người tài và cũng rất trọng dụng
nhân tài để trị vì đất nước. Dù luôn phải
đương đầu với những thách thức chính trị
xã hội phức tạp như việc đối phó với nhà
Mạc cùng sức ép chính trị từ phương Bắc,
các cuộc bạo loạn khởi nghĩa nông dân, sự
trỗi dậy của thế lực họ Nguycủa nội dung này là việc các chúa
Trịnh làm thơ ban cho quần thần, hoặc quần
thần làm thơ dâng tiến lên chúa Trịnh; hoặc
có khi các văn thần làm văn, viết thơ trao
tặng cho nhau chốn cung đình; hay thơ văn
tập hợp các văn thần để xướng họa, nối vần,
thử tài thơ văn, ca công tụng đức, hô ứng
với nhau; hoặc có khi đó là những chuyến
công cán (tuần thú, chinh phạt,...) hay du
lãm, vi hành của chúa Trịnh, có đem theo
quần thần cùng du ngoạn, thưởng lãm và ca
tụng cảnh đẹp non sông đất nước,... Thời
Lê - Trịnh, tiếp nối thời Lê sơ, đặc biệt là
triều Hồng Đức, nổi tiếng với các tác phẩm
thơ văn thù phụng, tặng tống của chúa
Trịnh và quần thần. Nhiều tác phẩm có quy
mô đã ra đời trong không gian cung đình
yến tiệc, giao đãi hay những chuyến du
hành của chúa tôi họ Trịnh, như: Khâm
định thăng bình bách vịnh (Trịnh Căn), Lê
triều ngự chế quốc âm thi (Trịnh Cương),

Càn Nguyên ngự chế thi tập (Trịnh Doanh),
Tâm thanh tồn dụy tập (Trịnh Sâm), Phụng
thị cung kỷ thi tập (Phạm Nguyễn Du), Tây
hộ mạn hứng (Ninh Tốn),... Nội dung của
các thi tập này cũng không ra ngoài sự tụng
ca công đức, sự nghiệp của vua chúa, sự
trung thành, tận tụy của bề tôi hay sự
98

thưởng ngoạn những thú vui tao nhã của
đời sống vương giả, quý tộc.
Loại thơ ca cung đình mang tính thù
phụng, tụng ca trong cung đình triều Lê Trịnh thường tìm đến những mĩ từ trang
nhã, những điển cố sang trọng để làm hài
lòng người nghe. Vì vậy loại hình thơ ca
này khó tránh khỏi sự khuôn sáo, nghi thức;
tuy nó thể hiện được sự uyên bác, tao nhã
nhưng lại thường công thức, gò bó, ít cảm
xúc, ít nội dung thực sự có giá trị văn
chương và nhân sinh. Tuy nhiên, với việc
nhiều bài thơ của chúa Trịnh thể hiện ước
vọng xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị,
chăm lo cho dân chúng… về cơ bản, nó
cũng phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc ở
những mức độ nhất định, chúng hoàn toàn
không có giá trị. Đó là chưa kể, trong
những tác phẩm mang tính chất thù phụng,
ngợi ca ấy có không ít những tác phẩm viết
rất hay về thiên nhiên đất nước, về phong
cảnh trữ tình, rất có giá trị thẩm mĩ.

Dòng thơ ca Trịnh phủ còn có nhiều bài
thơ vịnh vật, vịnh phong cảnh. Thơ đề vịnh
các chúa Trịnh thực chất là loại thơ nói chí,
thơ tải đạo. Đó là những bài thơ đề vịnh về
thiên nhiên, khí hậu, danh lam thắng tích,
người và cảnh vật nơi cung vua phủ chúa,
nhưng nhiều hơn cả là thơ vịnh các vật như
Vịnh Thủy Tạ thi (Thơ vịnh nhà Thủy Tạ),
Vịnh quỳnh cái thi (Thơ vịnh chiếc tán ngọc
quỳnh), Vịnh tân lâu Diệu Hải thi (Thơ
vịnh lầu mới Diệu Hải), Vịnh long kiệu thi
(Thơ vịnh kiệu rồng), Vịnh loan xa thi (Thơ
vịnh xe loan), Vịnh thị kiệu thi (Thơ vịnh
võng chầu), Vịnh tượng thi (Thơ vịnh voi),
Vịnh mã thi (Thơ vịnh ngựa), Vịnh thuyền
thi (Thơ vịnh thuyền), Vịnh súng thi (Thơ
vịnh súng), Vịnh cung thi (Thơ vịnh cung),
Vịnh nỗ thi (Thơ vịnh nỏ), Vịnh kiếm thi
(Thơ vịnh kiếm), Vịnh bút thi (Thơ vịnh


Nguyễn Mạnh Hoàng

bút), Vịnh nghiên thi (Thơ vịnh nghiên),
Vịnh phiến thi (Thơ vịnh quạt), Quản giáp
(Người kép hát), Vịnh tam hữu Thông,
Trúc, Mai (Vịnh ba người bạn Thông, Trúc,
Mai), Đào nương, Đàn trạch v.v.. Qua vịnh
những vật cụ thể như cái cung, cái quạt, cái
nỏ, cái đàn, cái kiếm, cái bút… tác giả thể

hiện tư tưởng, bày tỏ tình cảm, triết lý.
Thậm chí, trước nhiều bài thơ còn có kèm
lời dẫn bằng Hán văn bộc lộ lý tưởng đức
trị, nhân trị. Các bài thơ đề vịnh của chúa
Trịnh đều ngụ ý ngợi ca xã hội thái bình,
triều đại thịnh trị, công đức tổ tông mở nền
cơ nghiệp và thể hiện niềm tự hào của tác
giả về đất nước.
Còn thơ đề vịnh thiên nhiên, phong
cảnh, thời tiết của các chúa Trịnh thì khá
chải chuốt, điêu luyện. Riêng trong Khâm
định thăng bình bách vịnh có 11 bài tả
phong cảnh chùa chiền, 2 bài viết về 12
tháng trong năm, 4 bài viết về bốn mùa…
Trong Càn Nguyên ngự chế thi tập có các
chùm thơ: Đông chinh kỷ thắng (Vịnh
thắng cảnh miền Đông) gồm 3 bài, Tỉnh
phương kỷ thắng (Vịnh phong cảnh các nơi)
gồm 14 bài, Kỳ điện kỷ thắng (Vịnh phong
cảnh kinh thành) gồm 4 bài… Đặc biệt
nhất, phải kể đến thơ vịnh phong cảnh thiên
nhiên của chúa Trịnh Sâm. Thơ của ông có
cái nhìn khám phá, lối miêu tả tinh vi, biểu
hiện những rung cảm chân thực của một trí
tưởng tượng phong phú, như khi nhà thơ
miêu tả vẻ đẹp rực rỡ của hoa mẫu đơn
(trong Vịnh mẫu đơn thịnh khai):
“Nền đức vun trồng trải mấy sương/
Việc lành sớm ứng bách hoa vương/Màu
phô gấm kết đua muôn đóa/Vẻ sánh sao bày

rỡ mấy hàng/Rủ thềm lan, trăng rãi bóng/
Kề toàn ngọc, gió đưa hương/Nhà xuân dễ
bỏ điềm phồn thịnh/Chu nhã lần xoang chữ
lộng chương”.

Bài thơ thất ngôn xen lục ngôn, nhịp 3/3
với hai vế đối biểu hiện rõ đối tượng miêu
tả. Tác giả không chỉ đơn thuần miêu tả vẻ
đẹp tuyệt vời của hoa mà còn thể hiện được
tình cảm mến yêu loài hoa thanh tao đó...
Nhìn chung, thiên nhiên trong thơ ca các
chúa Trịnh thường được lựa chọn theo
những khuôn mẫu nghệ thuật ước lệ của
văn chương Nho giáo, của thơ Đường luật,
như: Vịnh Xuân Hạ Thu Đông, vịnh thời
tiết, vịnh mười hai tháng, vịnh sơn thủy,
vịnh phong hoa tuyết nguyệt, vịnh các loài
cây hoa... theo cái lẽ tuần hoàn của vũ trụ lẽ tuần hoàn của triết lý cổ phương Đông và
bộc lộ cái thú thưởng ngoạn của bậc quân
vương. Thơ về phong cảnh thiên nhiên các
vị chúa tuy vẫn là những cái “khuôn” đề tài
thiên nhiên ước lệ, mang tính phổ biến của
thơ ca cổ trung đại và dù có một số bài thơ
có sự lặp lại đề tài, tư tưởng, nhưng mảng
thơ này vẫn bộc lộ tài năng và bản lĩnh của
thi nhân - chúa Trịnh.

3. Đặc trưng thơ ca về ngôn ngữ
Do mang phong cách sáng tác cung đình
nên dòng thơ ca chúa Trịnh mặc dù là thơ

Nôm (tiếng Việt) nhưng lại thường sử dụng
các lớp từ Hán Việt, các điển tích, điển cố
thi liệu Hán học, ngữ pháp Hán cổ với tần
suất cao (có lẽ cao hơn các tác phẩm thơ
Nôm trước đó hoặc gần như đồng thời là
thơ Nôm Nguyễn Trãi, thơ Nôm thời Hồng
Đức, thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bùi
Xương Tự v.v.). Những từ Hán Việt dễ
nhận thấy nhất là những từ đa tiết có nguồn
gốc từ chữ Hán (đọc theo âm Hán Việt),
như: giang sơn, tùng lâm, ngũ phúc, ngũ
thường, ngũ luân, gia môn. Ngoài ra, những
99


Khoa học xã hội Việt Nam, số 5 - 2019

từ đơn tiết có nguồn gốc Hán (đọc theo âm
Hán Việt với nghĩa Hán) chưa “hòa nhập”
vào kho từ vựng tiếng Việt, và sau này
ít được dùng độc lập, cũng được xem là từ
Hán Việt, như: nguyệt - trăng; trì - ao,
thiên - trời, địa - đất, tư - riêng, quốc nước, gia - nhà, quy - về v.v.. Từ Hán Việt
nhiều nhất là lớp khái niệm về các lĩnh vực
chính trị, như: quân thần, dân, đại thống,
đạo thống, triều cương, thần cơ, phong
giáo, chế độ, cử thố, trí trị, quyền cương,
thiên cương, ngũ chính, điều lí, phủ trị; luân
lý (trung, hiếu, tiết, nghĩa, nhân, lễ, trí, tín,
tam cương, ngũ thường, trung hậu, trinh

chính, chí nhân, cương luân…); triết học
(tam diệu, tâm, trung đạo, khí, lí, dục, càn
tạo, thiên chân, huyền cơ, âm dương, cách
vật, trí tri, bĩ thái); thiên văn (thất diệu, Thọ
tinh, Đẩu bính, Phúc tinh, nhật, nguyệt,
tinh, thần, Bích Hán); tôn giáo (tam thiên
thế giới, diệu sắc, Tịnh giới, Tịnh xá, trần
duyên, vân tiêu, ưu bát, từ vân, ngũ phúc,
thập giới, tam đồ, cửu thiên, độ duyên, Dao
Kinh, Bồng Lai…) v.v..
Việc sử dụng nhiều từ Hán Việt có thể
do vấn đề vần điệu, khuôn thức bài thơ
Đường luật yêu cầu, do thực trạng kho từ
vựng tiếng Việt lúc bấy giờ (nhất là trong
cung đình, trong môi trường trí thức là
những người biết chữ Hán không đòi hỏi
bức thiết phải “Việt hóa” triệt để), nhưng
cũng có thể do tâm lý, thói quen chuộng sử
dụng từ Hán còn phổ biến hoặc do yêu cầu
làm trang trọng hóa câu thơ, bài thơ (trong
nhiều hoàn cảnh khá quan phương như tiểu
dẫn hoặc tiêu đề các bài thơ cho thấy).
Ngoài ra, cũng có thể nói đến cá tính, thị
hiếu của từng tác giả cũng có ảnh hưởng
đến việc sử dụng từ Hán Việt. Tuy nhiên,
cũng không thể không nói đến một nguyên
100

nhân rất thực tế và cũng rất quan trọng là sự
tương hợp giữa việc sử dụng lớp từ Hán

Việt với nội dung tư tưởng, mục đích sáng
tác mà các chúa Trịnh muốn thể hiện.
Nói về mục đích ý nghĩa từ Hán Việt
được dùng trong thơ ca, Lã Nhâm Thìn đã
khái quát một số trường hợp sau: “Có nội
dung xưng tụng” (tức ca ngợi triều đại, ca
ngợi các nhà cầm quyền… bằng ngôn từ
trang trọng, bác học); “thi vị hóa hiện thực”
(dùng để miêu tả thiên nhiên, miêu tả đời
sống hiện thực một cách bóng bảy, hoa
mỹ); “tư duy mang tính chất khái niệm, triết
học” (biểu đạt những khái niệm trừu tượng,
những quy luật mang tính triết học) [6]. Tất
cả những trường hợp này đều phù hợp với
mục đích sáng tác thơ Nôm của các chúa
Trịnh: tự ca tụng cảnh thái bình thịnh trị
của triều đại mình; thi vị hóa thiên nhiên và
đời sống đương thời, bộc lộ bản thân; biểu
dương, khuyến khích các lý tưởng triết học,
xã hội của Nho giáo (Tống Nho), và của
Tam giáo (Nho, Phật, Đạo) v.v.. Nó cũng
phù hợp với thị hiếu về hình thức của dòng
thơ ca cung đình, bác học mà các chúa
Trịnh là những tác giả tiêu biểu.
Bên cạnh đó, dòng thơ ca Trịnh phủ
cũng rất ưa thích sử dụng điển tích, điển cố.
Điều này cũng dễ hiểu bởi các thi nhân
chúa Trịnh vốn được đào tạo bài bản về
Hán học, thi văn ngay từ khi còn nhỏ, lại
được các văn thần tán trợ ngay cả trong

việc làm thơ (như chọn vần sẵn, dạy cho
các từ chương, điển cố, thi liệu…). Đối
tượng hướng tới của thơ ca các chúa Trịnh
lại chủ yếu là tầng lớp trí thức cung đình có
học (các nhà nho, các văn thần, tướng lĩnh,
cung nhân, các nhà tu hành...) nên họ dùng
khá nhiều điển cố, thi liệu Hán học với nội
dung biểu đạt rất phong phú: chính trị, xã


Nguyễn Mạnh Hoàng

hội, con người, thiên nhiên, triết học, văn
học, nghệ thuật v.v.. Hơn thế, thơ chúa
Trịnh còn thiên về sử dụng nhiều điển tích,
điển cố uyên thâm, hóc hiểm, điều này càng
cho thấy các chúa Trịnh là những chính trị
gia có học thức, trình độ cao; là những nhà
Hán học uyên thâm, quảng bác. Có lẽ đây
cũng là một trong những nguyên nhân
khiến họ chinh phục được sự phò tá của
giới trí thức Nho học vốn khá khắt khe
trong việc đòi hỏi trình độ văn học ở đấng
quân vương dù công khai hay ngấm ngầm.
Và như vậy, việc sử dụng điển tích, thi liệu
Hán học ở đây cũng có những mục đích khá
thực tiễn.

4. Đặc trưng thơ ca về bút pháp
Dòng thơ ca các chúa Trịnh sử dụng phổ

biến bút pháp tượng trưng ước lệ. Họ
thường sử dụng những hình tượng có tính
ước lệ, tượng trưng để thể hiện các lý tưởng
xã hội, các phẩm chất đạo đức, các quan
niệm nhân sinh mang màu sắc của Tam
giáo trong đó đậm nét nhất vẫn là quan
niệm Nho giáo, cũng như các chiêm nghiệm
nhân sinh khác. Các hình ảnh tượng trưng,
ước lệ cũng được sử dụng để thi vị hóa đối
tượng, đặc biệt là phong cảnh thiên nhiên.
Thơ ca chúa Trịnh sử dụng rất nhiều sáo
ngữ, hình ảnh quen thuộc (mang tính ẩn dụ)
để miêu tả các địa danh khác nhau. Những
bài thơ vịnh cảnh, vịnh địa danh trong thơ
Nôm các chúa Trịnh (mặc dù là những bức
“nhãn tiền cảnh trí”) không cụ thể mà na ná
như nhau, nghĩa là cùng đẹp vẻ đẹp lung
linh, đài các, thanh nhã (dù đó là đền đài,
miếu mạo, chùa chiền hay thành quách, đạo
lộ, sông ngòi, khe suối… qua đó thể hiện

tâm hồn “thi nhân” nghệ sĩ của các chúa) và
cùng biểu hiện một ý chung là tái hiện cảnh
thái bình, thịnh trị dưới triều đại của các vị
chúa giỏi văn chương này, hoặc thể hiện sự
am hiểu, thẩm thấu các triết lý mầu nhiệm
(Phật giáo, Đạo giáo) của họ.
Ngoài ra, thơ ca các chúa Trịnh cũng kế
thừa các tác giả trung đại khác trong việc sử
dụng các hình tượng mới (lấy từ thực tiễn

đời sống) nhưng nâng lên thành các biểu
trưng cho cùng nội dung trên. Tiêu biểu là
các bài thơ “vịnh vật” chiếm một số lượng
không hề nhỏ. Đó là những bài vịnh đủ các
loại đồ vật, sự vật, hiện tượng, từ những sự
vật quan trọng, kỳ vĩ đến sự vật hàng ngày,
nhỏ bé: Cung miếu, Đàn Nam giao, Bia
Văn Miếu, Cơn mưa, Nhà thủy tạ, Cái kiệu
rồng, Xe loan, Cái võng chầu, Cái tán ngọc
quỳnh, Cá cờ, Con voi, Con ngựa, Con
thuyền, Khẩu súng, Cây cung, Cái nỏ,
Thanh kiếm, Cái bút, Cái nghiên mực, Cái
quạt, Câu cá, Chọi gà v.v.. Những vật dụng
đó đều được sử dụng vào một mục đích
chung: ngầm chỉ phẩm chất của người quân
tử (ngũ thường), lý tưởng xã hội (tam
cương, có vua sáng, chúa giỏi, tôi hiền, dân
thuần). Căn cứ vào một vài đặc điểm nổi
trội của đối tượng được vịnh, các tác giả
liên tưởng, nâng nó lên thành các phẩm chất
đạo đức, năng lực cống hiến của bề tôi. Các
hình tượng trên được các tác giả tạo ra dựa
trên những quan sát thực tế và liên tưởng,
kết nối với các phạm trù tư tưởng, triết học.
Do đó, chúng là những hình tượng ẩn dụ
nằm ở điểm giao thoa giữa tư tưởng và hiện
thực tạo thành cách nói lưỡng nghĩa, đa
nghĩa rất độc đáo trong thơ Nôm các chúa
Trịnh nói riêng và thơ Nôm Đường luật
trước và đương thời nói chung.

101


Khoa học xã hội Việt Nam, số 5 - 2019

5. Kết luận
Dòng thi ca các chúa Trịnh mang phong
cách sáng tác cung đình và đã có đóng góp
quan trọng cho sự phát triển thi ca dân tộc.
Đặc biệt, dòng thi ca này lại sáng tác chủ
yếu bằng chữ Nôm (loại văn tự mang đậm
bản sắc dân tộc), nên nó chính là minh
chứng sinh động cho quan điểm: vua chúa
phong kiến Việt Nam thời trung đại cũng
chú ý đề cao việc sáng tác, phổ biến văn
học viết bằng chữ Nôm và tự thân chữ Nôm
cũng chứng tỏ được vị thế cung đình, chính
thức tham gia vào hoạt động văn hóa văn
nghệ chính thống quan phương trong triều
đình phong kiến Đại Việt. Có thể nói, chúa
Trịnh cũng như nhiều vị quân vương phong
kiến phương Đông khác đã luôn ý thức rõ
về vai trò của văn chương đối với sự khẳng
định tài năng và quyền lực của mình, họ sử
dụng sức mạnh của văn học nghệ thuật để
giáo huấn, phủ dụ, khuyến giới. Các chúa
như Trịnh Căn, Trịnh Cương, Trịnh
Doanh… đều yêu thích thơ văn, có ý thức
dùng văn học để “nói chí”, “chở đạo” và tô


102

điểm cho ngôi vị, triều đại. Chính vì vậy,
thơ ca các chúa Trịnh là một sản phẩm điển
hình cho quan niệm sáng tác đầy tính “công
lợi chủ nghĩa” và cho loại hình văn học
cung đình thời trung đại ở phương Đông.

Tài liệu tham khảo
[1]

Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương
loại chí, t.2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[2]

Nguyễn Mạnh Hoàng (2018), “Thơ ca các
chúa Trịnh - một sản phẩm điển hình của dòng
văn học cung đình Việt Nam thời trung đại”,
Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 9.

[3]

Ngô Cao Lãng, Xiển Trai (1995), Lịch triều
tạp kỷ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

[4]

Quốc sử quán triều Lê (2012), Đại Việt sử kí
tục biên [1676-1789], Nxb Hồng Bàng - Trung

tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

[5]

Nguyễn Tá Nhí (Chủ biên) (2008), Tổng
tập văn học Nôm, t.2, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.

[6]

Lã Nhâm Thìn (1998), Thơ Nôm Đường luật,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.



×