Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Con người trong quan niệm của Phật giáo và trong triết học hiện sinh của J. P. Sartre: Cái nhìn đối sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.83 KB, 7 trang )

ng qua
cái vẫn cha hiện diện. Chính vì vậy,
Sartre khẳng định: kẻ hèn nhát làm cho
mình trở thành kẻ hèn nhát, ngời anh
hùng làm cho mình trở thành ngời anh
hùng. Nhng kẻ hèn nhát bao giờ cũng
có khả năng không còn là kẻ hèn nhát
nữa, còn ngời anh hùng không còn là
ngời anh hùng nữa. Điều đó quan trọng
chỉ là sự cải biến hoàn toàn đạt đợc
trong một trờng hợp riêng biệt hay
thông qua một hành vi riêng biệt (xem:
3, tr.20). Nghĩa là con ngời bằng hoạt
động của mình có thể thay đổi bản chất
của mình. Quan niệm của Sartre cho
rằng bản chất của con ngời là không cố
định có sự gần gũi với khái niệm vô ngã

Thông tin Khoa học xã hội, số 12.2010

của Phật giáo. Phật giáo cho rằng không
có cái tôi vĩnh hằng và thực chất là
không có cái tôi. Tuy nhiên, cách giải
thích của Phật giáo thì lại rất khác. Phật
giáo giải thích rằng con ngời cũng nh
mọi sinh vật thuộc thế giới hữu hình
đợc cấu tạo bằng các yếu tố vật chất và
tinh thần. Yếu tố tinh thần gọi là Danh,
yếu tố vật chất gọi là sắc. Theo một cách
phân chia thì con ngời do năm yếu tố
(ngũ uẩn) tạo nên. Đó là sắc (vật chất),


thụ (cảm giác), tởng (ấn tợng, tởng
tợng), hành (t duy), thức (ý thức).
Theo một cách phân chia khác thì con
ngời do sáu yếu tố tạo nên là địa (chất
khoáng), thuỷ (chất nớc), hoả (chất
nhiệt), phong (gió, không khí), không
(khoảng không trống rỗng), thức (ý
thức). Nh vậy, theo cả hai cách phân
chia thì con ngời là sự kết hợp động
của nhiều yếu tố động. Cái tôi của con
ngời cũng do Danh và Sắc tạo nên.
Nhng các yếu tố này chỉ hội tụ tạm
thời trong một khoảng thời gian nào đó
rồi tan đi, do đó không có cái gì là
thờng định, là thực, và cũng không thể
có cái tôi cố định, bất biến.
e. Đề cao tinh thần dám chịu trách
nhiệm của con ngời
Cả đức Phật và Sartre cùng cho
rằng, con ngời phải hoàn toàn chịu
trách nhiệm về t duy và hành động của
chính mình. Tuy nhiên, cách giải thích
của Sartre và đức Phật về vấn đề này thì
lại khác nhau.
Sartre cho rằng: Nếu con ngời đợc
tự do trở thành những gì mà chính mình
làm ra, thì con ngời nhất thiết phải
chịu trách nhiệm về các hành động của
mình. Thiện hay ác, chính con ngời
phải trả lời cho những hậu quả trong

hành động của mình đối với chính mình
và những kẻ khác (2, tr.586). Bởi vì mỗi
cá nhân bị kết án phải tự do, đợc tự do


53

Con ngời trong quan niệm...

đa ra sự lựa chọn của mình nên kết quả
sự lựa chọn đó nh thế nào thì bản thân
cá nhân phải tự chịu trách nhiệm về
quyết định của mình, chứ không thể đổ
lỗi cho bất cứ ai, đổ lỗi cho hoàn cảnh.
Nh vậy, nếu tự do là tuyệt đối thì trách
nhiệm cũng tuyệt đối nh tự do. Trách
nhiệm và tự do luôn luôn đi liền với nhau
và là những phơng diện hiện sinh quan
trọng của con ngời. Nhng trách nhiệm
ở đây là trách nhiệm hiện sinh (trách
nhiệm trớc bản thân mình), chứ hoàn
toàn không phải là trách nhiệm trớc
một ngời nào đó, trớc một cái gì đó
(pháp luật, chuẩn mực xã hội, chuẩn
mực đạo đức...).
Còn đức Phật lại nêu ra luật Nhân
quả, Nghiệp báo để nói lên tinh thần
trách nhiệm của cá nhân và cộng đồng.
Đức Phật dạy rằng: Chính ta là kẻ thừa
kế của hành động của ta, là ngời mang

theo với mình hành động của mình (Tạp
A Hàm, 135). Nghĩa là con ngời phải
hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi hành
vi và suy nghĩ của mình. Hiện nay chúng
ta sinh ra trong hoàn cảnh tốt hay xấu
đều do hành động tốt xấu của chúng ta
từ kiếp trớc chuyển đến mà thôi. Nếu
đời trớc hành động ác thì đời này sinh
ra trong hoàn cảnh xấu xa, không vừa ý.
Nếu đời trớc hành động thiện thì đời
này ta sinh ta gặp hoàn cảnh tốt, mọi
việc đều nh ý. Do đó, dù gặp hoàn cảnh
nào, chúng ta cũng can đảm nhận chịu,
không than thở oán trách ai.
Nh vậy, nếu triết học Hiện sinh của
Sartre nhấn mạnh đến tinh thần tự chịu
trách nhiệm của con ngời trong đời này,
trong hiện tại thì Phật giáo có xu hớng
thiên về đời sau, trong tơng lai.
3. Mặc dù có những cách lý giải,
quan niệm khác nhau nhng khi đặt con

ngời vào trọng tâm nghiên cứu của
mình, cả Sartre và đức Phật đều có sự
gặp gỡ khá thú vị khi nhìn nhận về thân
phận của con ngời cũng nh trong khi
đánh giá cao vai trò của con ngời, con
ngời có khả năng quyết định bản chất
cũng nh vận mệnh của mình, con ngời
là cứu cánh của chính mình, có thể tự

giải thoát cho mình khỏi mọi ràng buộc
của hoàn cảnh... Điều đó chứng tỏ rằng
cả triết học Hiện sinh của Sartre và Phật
giáo đều là những học thuyết nhân bản,
đề cao con ngời, vì con ngời, có mục
đích đem lại một cuộc sống tốt đẹp hơn,
có ý nghĩa hơn cho con ngời. Đây cũng
là những học thuyết triết học nhập thế,
tích cực và năng động vì nó tin tởng vào
hoạt động của con ngời, chứ hoàn toàn
không phải bi quan, chán nản nh nhiều
ngời đã từng nhầm lẫn.
Sự tơng đồng trong quan niệm của
Sartre và đức Phật về con ngời đã nói
lên một vấn đề rất có ý nghĩa rằng: Bất
chấp sự khác biệt về thời đại, về hoàn
cảnh lịch sử xã hội, những t tởng lớn
vẫn luôn tìm thấy mối tơng giao, sự gặp
gỡ nhất định trong khi giải quyết những
vấn đề lớn, có tính muôn thủa của mọi
thời đại vấn đề con ngời.

Tài liệu tham khảo
1. J. P. Sartre. Tồn tại và h vô. M.:
1994.
2. Jay E. Green. 100 great thinker.
Wasington Square Press, 1967.
3. J. P. Sartre. Chủ nghĩa hiện sinh Đó là chủ nghĩa nhân đạo. M.: 2004.
4. J. P. Sartre. Phê phán lý tính biện
chứng. Paris: 1950, tập 1.




×