Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tiểu luận: Vị thế và vai trò của ngôi chùa khmer trong đời sống cộng đồng cư dân người Khmer hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 23 trang )

BỘ THỂ THAO VĂN HÓA VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA TP. HỒ CHÍ MINH
­­­­­­­­­­

TIỂU LUẬN
MÔN VĂN HÓA KHMER
VỊ THẾ VÀ VAI TRÒ CỦA NGÔI CHÙA KHMER TRONG ĐỜI 
SỐNG CỘNG ĐỒNG CƯ DÂN NGƯỜI KHMER HIỆN NAY 

          

1

SINH VIÊN: MAI NỮ HUỲNH ANH
MSSV: D15DT025
LỚP: VĂN HÓA DÂN TỘC THIỂU SÔ 8
NIÊN KHÓA: 2015­2019
GVHD: Th,S HỨA SANI


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019

2


MỤC LỤC
Mở đầu..........................................................................................................3
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG......................................................6
1.1 Một số quan niệm về chùa ..................................................................6
1.1 Đặc điểm văn hóa dân tộc của người Khmer
Chương 2: VỊ THẾ VAI TRÒ CỦA NGÔI CHÙA TRONG ĐỜI SỐNG 


NGƯỜI KHMER..........................................................................................8
2.1 Vai trò của người Khmer......................................................................8
2.2 Ngôi chùa Khmer Nam Bộ hiện nay..................................................13
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN..........................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................17
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH...............................................................................18

3


MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài:

Đất nước ta trải dài từ Nam Quan cho đến Cà Mau, gồm nhiều dân tộc, 
hấp thu nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong lịch sử đã xảy ra nhiều cuộc di 
dân lớn do hoàn cảnh chiến tranh hoặc các biến động lịch sử. Điều đó đã tạo 
nên sự đa dạng phong phú về sắc tộc ở Việt Nam. 
Do đó có thể coi Việt Nam là một mái nhà chung nơi các dân tộc cùng 
chung sống trong tình anh em thân thiết, dù nguồn gốc sắc tộc có thể khác 
nhau. Trong số đó phải kể đến người Khmer, đặc biệt là người Khmer ở 
đồng 
bằng sông Cửu Long, một trong những sắc dân đã góp phần tô điểm thêm 
cho 
bức tranh muôn màu muôn vẻ về con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam. 
Người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long có một nền văn hóa truyền 
thống đặc sắc và phong phú. Phật giáo là tôn giáo gần như độc nhất và có 
ảnh 
hưởng đến đời sống nhiều mặt của người Khmer. 

Mỗi sóc của người Khmer có ít nhất một ngôi chùa. Ngôi chùa là bộ mặt 
xã hội, là trung tâm tôn giáo, văn hóa của cộng đồng cư dân Khmer trong các 
sóc. Các vị sư sãi có một vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, văn hóa 
của 
người Khmer. 
Mặc dù các sư sãi lo việc thực thi tôn giáo, nhưng tiếng nói của các vị 
góp phần vào công việc quản lý của phum sóc. Mỗi người Khmer vừa là 
mộ t  
4


thành viên của phum sóc vừa là một tín đồ Phật giáo. Phật giáo Khmer thuộc 
phái Nam Tông, một số quy tắc tu hành có khác với Phật giáo Bắc tông của 
người Việt, người Hoa. 
Cuộc sống của người Khmer luôn luôn gắn liền với chùa, chùa là không 
gian tâm linh thỏa mãn đời sống tinh thần của người Khmer. 
Chùa Phật giáo Nam tông Khmer đã bám rễ sâu vào tâm khảm của mỗi 
người Khmer, ảnh hưởng và chi phối mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời 
sống xã hội. Bởi lẽ chùa là nơi gieo mầm giác ngộ, giáo dục đức hạnh, phẩm 
chất, trí 
tuệ, quan hệ giữa người với người, giáo dục về chuẩn mực đạo đức xã 
hội… 
Bên cạnh đó, ngôi Chùa cũng là nơi lưu giữ các tri thức, một bảo tàng lý 
tưởng, 
và một thư viện bách khoa: Giữ gìn lưu trữ tất cả những gì thuộc về di sản 
văn 
hoá dân tộc như chữ viết, các tác phẩm văn học nghệ thuật, những phong 
tục, 
tập quán, lễ hội truyền thống…Đặc biệt, Chùa Khmer còn là một “Toà án” 
của 

người dân ở phum sóc. Mỗi khi Phật tử bổn đạo có xích mích, tranh chấp, 
mâu 
thuẫn nội bộ gia đình, làng xóm với nhau, các vị sư cũng góp phần rất lớn 
trong 
việc hoà giải, hàn gắn tình làng nghĩa xóm, đoàn kết thương yêu đùm bọc 
nhau, 

5


ổn định xóm làng. 
Chùa Khmer không chỉ là nơi sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo mà còn là 
nơi giáo dục, đào tạo con người, nơi sinh hoạt văn hóa, nơi bảo tồn chữ 
viết, 
phong tục tập quán, nâng cao dân trí, góp phần phát triển giáo dục vùng đồng 
bào dân tộc thiểu số… Đây cũng chính là lí do tôi chọn đề tài: “Vị thế và vai 
trò của ngôi chùa Khmer hiện nay”.
2.

Mục đích nghiên cứu:

Khẳng định ngôi chùa trong cộng đồng người Khmer được tạo nên từ 
những nét đặc sắc của nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc, thể hiện sự giao thoa 
với văn hóa cộng đồng người Kinh – Hoa Nam Bộ, góp phần làm giàu thêm sự 
phong phú trong kho tàng văn hóa dân tộc Việt Nam. Qua đó, phân tích đánh 
giá quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng quốc phòng toàn dân trong sự 
nghiệp đổi mới nhằm rút ra một số giải pháp để góp phần nâng cao vai trò của 
ngôi chùa trong đời sống của cộng đồng người Khmer. 

6



3.

Đối tượng nghiên cứu:

Do đề tài “vị thế và vai trò của ngôi chùa trong đời sống cộng đồng cư dân 
người Khmer hiện nay”, nên trong luận văn này chỉ nghiên cứu về dân tộc 
Khmer, bên cạnh đó 
cũng có sự so sánh với cộng đồng dân cư khác trong khu vực đồng bằng sông 
Cửu Long nhằm làm nổi bật vai trò của ngôi chùa đối với đời sống tinh thần 
của người Khmer. 
4.

Phạm vi nguyên cứu :

Từ lâu vấn đề tín ngưỡng tôn giáo ( Phật giáo Nam Tông ) đã nằm trong 
tâm thức của mọi lớp người Khmer ở tất cả không gian và thời gian, chúng 
được thể hiện qua nhiều khía cạnh khác nhau trong đời sống văn hóa ở các lĩnh 
vực khác nhau. Do thời gian có hạn tôi chỉ trình bày về “Vị thế và vai trò của 
ngôi chùa Khmer trong đời sống cộng đồng cư dân người Khmer hiện nay”. 
5.

Phương pháp nghiên cứu:

Để thực hiện và hoàn thành đề tài này tôi đã sử dụng phương pháp đọc 
và tổng hợp các tài liệu nghiên cứu về đề tài này.
6.

Bố cục

Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Vị thế vai trò của ngôi chùa trong đời sống người Khmer
Chương 3: Kết  luận

7


CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1

Một số quan niệm về chùa:

Với người Khmer chùa là nơi thiêng liêng, nơi thờ phật, nơi gửi gắm 
niền tin qua những việc làm hiện tại, vừa mong ước hi vọng ở cõi cực lạc Niết 
bàn trong tương lai. 
Chùa là nơi tổ chức các lễ hội truyền thống như : Lễ Chlo – Chnam – 
Thmây, Lễ Seldolta, Okombok, là nơi để mọi người tụ hợp đến vui chơi, giải 
trí, thư giản sau những vụ mùa bội thu. 
Chùa còn là trường học, trước đây khi không có trường ở bên ngoài, 
chùa là môi trường dạy chữ cho người Khmer. 
Chùa Khmer là công trình kiến trúc nghệ thuật đạt đến trình độ tinh xảo, 
việc thiết kế, xây dựng, hoàn thiện, trang trí phần lớn do các sư trực tiếp cùng 
với các tín đồ thực hiện. 
Ngoài ra chùa còn là nơi hợp bàn tổ chức kế hoạch lễ hội hay các công 
việc quan trọng của Phum, Sóc. 
1.2

Đặc điểm văn hóa dân tộc của người Khmer ở Nam Bộ

Về mặt chủng tộc, người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long có cùng nguồn gốc  

với người Khmer  ở  Campuchia. Tuy nhiên, do những diễn biến của lịch sử  nên 
hai khối người này đã là hai tộc người ở hai quốc gia khác nhau và người Khmer  
đồng bằng sông Cửu Long có những nét văn hóa gắn liền với địa bàn cư trú của  
mình. Hiện nay, số dân Khmer có khoảng 1,2 triệu người, sinh sống tập trung chủ 
yếu ở  hai tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng (chiếm gần 60% số  dân Khmer Nam Bộ).  
Người Khmer thường định cư ở nơi đất giồng (vùng đất dài, cao ráo) và tập họp 
thành các phum và sóc (phum là đơn vị  cư  trú của những người trong dòng họ 

8


cùng huyết thống, còn sóc là tập họp nhiều phum, có quy mô tương đương với 
một làng của người Việt, xung quanh sóc có lũy tre bao bọc, trải dài trên các dãy 
giồng).
Người Khmer  Nam  Bộ  có  đời sống tinh thần gắn liền với cuộc sống nông 
nghiệp lúa nước. Trong tín ngưỡng dân gian, ngoài tập tục cúng ông bà, hằng  
năm còn có tục thờ  các vị  thần siêu nhiên như  Neaka Tà,  Arăk và các lễ  nghi 
nông nghiệp khác. Neaka Tà, còn gọi là Ông Tà, là vị thần bảo hộ cho một vùng  
đất có ranh giới cụ  thể và được thờ  trong các miếu đặt  ở  trung tâm của vùng. 
Arăk là vị thần của dòng họ và được dòng họ cúng theo cách riêng.
Trước khi Phật giáo Tiểu thừa trở thành tôn giáo độc tôn của người Khmer (TK  
XIII), khoảng đầu CN, đạo Bàlamôn và Phật giáo Đại thừa đã có mặt  ở  đồng  
bằng sông Cửu Long. Đạo Phật của người Khmer theo phái Tiểu thừa chỉ  thờ 
duy nhất Phật Thích Ca. Tất cả  người dân Khmer, từ  lúc lọt lòng cho đến lúc 
chết, đều là phật tử. Nhưng chính đạo Phật cũng phải chấp nhận sự  dung hòa 
những yếu tố văn hóa bản địa để tồn tại và phát triển.
Tất cả các yếu tố văn hóa được Khmer  hóa ấy đã tác động đến kiến trúc ngôi 
chùa, làm cho nó trở nên độc đáo và mang một sắc thái địa phương rõ nét.

9



CHƯƠNG 2 VỊ THẾ VAI TRÒ CỦA NGÔI CHÙA TRONG ĐỜI SỐNG 
NGƯỜI KHMER
1.1

Vai trò của chùa Khmer
Ngôi chùa Khmer không chỉ có giá trị về vật chất với nghệ thuật kiến trúc, 
điêu khắc… mà nó còn mang đến những giá trị tinh thần to lớn. Chính giá trị 
văn hóa này cùng với Phật giáo Nam tông đã chi phối đời sống và làm nên 
những đặc trưng cơ bản của cộng đồng người Khmer Nam Bộ. Chùa là 
trung tâm sinh hoạt tôn giáo Từ lâu, chùa có vai trò rất quan trọng đối với 
người Khmer Nam Bộ, là một trong những nơi để họ gửi gắm niềm tin về 
mọi điều trong cuộc sống, nhất là tôn giáo. Mặc dù có nhiều tín ngưỡng, tôn 
giáo du nhập và được người Khmer chấp nhận, nhưng với họ, Phật giáo 
Nam tông vẫn giữ vị trí độc tôn. Chùa của người Khmer chỉ thờ duy nhất 
đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đạo Phật đã trở thành lý tưởng sống truyền 
thống của người Khmer Nam Bộ. Hằng năm, có nhiều lễ hội định kỳ được 
diễn ra trong khuôn viên chùa, như: lễ dâng áo cà sa (Kathan Na Tean), được 
tổ chức từ ngày 16 tháng Chín đến ngày 15 tháng Mười (Âm lịch); lễ đặt 
cơm vắt (Phua Chum Bon) diễn ra trong vòng nửa tháng vào cuối tháng Tám, 
hay Lễ Phật đản (Bon Visaka Bochesa, được tổ chức vào rằm tháng Năm 
(Âm lịch) ­ Đây là lễ lớn trong đạo Phật, đã trở thành phong tục, ấn tượng ăn 
sâu vào tâm trí mỗi người dân Khmer. Ngoài các lễ hội tôn giáo định kỳ, còn 
có các lễ hội tôn giáo không định kỳ nhưng vẫn tổ chức tại chùa, như: lễ kết 
giới chính điện, lễ an vị tượng Phật… Bên cạnh đó còn có các lễ hội dân 
gian vừa gắn liền với lễ nghi nông nghiệp vừa gắn với Phật giáo, được 
người Khmer tôn sùng, cũng diễn ra tại khuôn viên chùa, đó là lễ Chol 
Chnam Thmay ­ Lễ Mừng năm mới, lễ Đôlta… Tất cả hoạt động lễ hội tôn 


10


giáo kể trên đều diễn ra tại không gian thiêng của ngôi chùa, điều đó càng 
cho thấy rõ chùa của người Khmer đóng vai trò vô cùng quan trọng được 
xem là trung tâm tôn giáo, một trong những yếu tố làm nên đặc trưng văn hóa 
của cộng đồng Khmer Nam Bộ. Trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng của 
người Khmer Nam Bộ Ngôi chùa Phật giáo Nam tông mang một tình cảm 
hết sức sâu sắc đối với đồng bào Khmer Nam Bộ, không những nơi đây diễn 
ra các lễ nghi tôn giáo mà còn là nơi biểu hiện của sự gắn bó tình cảm, sự 
cố kết cộng đồng, nơi tập trung mọi sinh hoạt cộng đồng trong phum, sóc1. 
Hằng năm, ngoài những lễ hội tôn giáo được người dân chú trọng, các lễ hội 
dân gian cũng được diễn ra trong chùa một cách sôi nổi, tiêu biểu là: lễ cúng 
trăng ­ Ook Om Bok, lễ cúng ông bà ­ Đôlta và lễ đua ghe ngo, bởi lẽ, trong 
những ngày lễ, nhất là ban đêm, chùa đông nghịt người, không chỉ có những 
tín đồ Phật giáo mà còn có sự tham gia của hầu hết người dân nơi đây. 
Không khí lễ hội diễn ra nhộn nhịp và náo nức, nghệ thuật cổ truyền của 
người Khmer được phát huy tác dụng: sân khấu truyền thống Yukê, Rôbăm, 
múa dân gian, như: Sarikakeo, Saravan, Râm vông... Trong các buổi trình diễn 
văn nghệ mang đầy bản sắc văn hoá này, toàn thể đồng bào Khmer quần tụ 
tại chùa để cùng nhau múa hát, tiến hành các nghi lễ truyền thống. Không 
dừng lại ở đó, chùa còn là nơi họp dân trong phum, sóc để bàn những vấn đề 
có liên quan đến tập thể, chẳng hạn như: đào một con kênh, tu sửa chùa, tổ 
chức một ngày hội, thậm chí đến việc giải quyết những bất hòa, mâu thuẫn 
của cá nhân, tập thể trong phum, sóc, thể hiện tính cộng đồng sâu sắc2. 
Chùa là trường học giáo dục đạo đức Do điều kiện xã hội hợp cùng quan 
niệm tâm linh tôn giáo, họ nhận ra rằng, ngôi chùa là nơi tập trung các giá trị 
cao đẹp của cuộc sống, của Phật pháp, gắn liền với việc giáo huấn nghiêm 

11



túc, không gian giáo dục thanh khiết. Vì lẽ đó, ngôi chùa sớm trở thành “ngôi 
trường” quan trọng đầu tiên đảm trách chức năng giáo dục. Nhà chùa là trung 
tâm vận động tổ chức việc đào tạo, truyền thụ những kiến thức và hiểu biết 
về văn hóa ­ nghệ thuật của tộc người cũng như việc bảo tồn và lưu giữ 
chữ viết Khmer. Cũng nhờ vai trò của nhà chùa mà chữ viết của người 
Khmer vẫn thông dụng trong cuộc sống thường nhật và trong sáng tạo nghệ 
thuật. Chùa đối với người Khmer là trường học, là môi trường giáo dục rất 
tích cực. Ngôi chùa là trường học và các vị sư chính là nhà giáo. Các nhà sư 
theo Phật giáo Nam tông đều nhận thức được vị trí đặc biệt của mình với 
việc giáo dục con người, đề cao trách nhiệm chăm lo việc giáo dục học trò ở 
chùa. Vì vậy, vị sư dạy học đều được người dân Khmer gọi bằng một cái 
tên trìu mến là Kru hay Achar Kru, nghĩa là người hiểu biết3. Chùa là trường 
học của người Khmer ngay từ thời còn niên thiếu, đặc biệt là đối với nam 
giới, qua tập tục riêng của tộc mình, đó là tục đi tu. Như đã thành lệ, bất cứ 
người con trai Khmer nào cũng phải vào trường tu một thời gian nhất định. 
Từ góc nhìn giáo dục, tục đi tu đã phát huy hết vai trò của nó trong việc giáo 
dục đạo đức, nhân cách, lối sống cho thanh niên Khmer. Từ đó, giúp họ sớm 
trưởng thành, dễ hòa nhập vào cuộc sống xã hội. Người thanh niên Khmer 
đã đúc kết, xây dựng và góp phần duy trì nếp văn hóa đẹp của dân tộc mình 
bởi họ chính là những trụ cột gia đình sau này và cũng chính họ sẽ giáo dục 
cho con em về những giá trị đạo đức4. Không dừng lại ở đó, chùa còn là nơi 
dạy nghề, thủ công mỹ nghệ, tổ chức các lớp “nữ công gia chính”, nơi tập 
huấn cho một số hoạt động thể thao5. Như vậy, chùa Khmer Nam Bộ không 
chỉ đào tạo cho xã hội những con người có văn hóa mà còn có kiến thức lao 
động ­ một đội ngũ những người thợ lao động kỹ thuật, mỹ thuật, kiến trúc, 

12



điêu khắc. Với vai trò là trường học giáo dục đạo đức con người, những 
ngôi “trường chùa” của người Khmer đã đóng góp tích cực trong việc đào 
tạo cho các con em trong phum, sóc để có đến hơn 68% đồng bào Khmer đã 
biết đọc, biết viết tiếng phổ thông. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng 
đời sống văn hóa ở khu dân cư phát triển khá mạnh mẽ, đem đến những tác 
động tích cực trong việc củng cố cộng đồng, giúp đỡ và hỗ trợ lẫn nhau 
cùng tiến bộ. Mô hình chùa văn hóa được chú trọng xây dựng ở nhiều nơi 
trong các phum, sóc, góp phần nâng cao dân trí, phong trào dạy và học chữ 
Khmer, bảo tồn văn hoá tộc người, khuyến khích tư tưởng công bằng, bác 
ái, nhận được sự hưởng ứng khá nhiệt tình của các tầng lớp nhân dân vùng 
đồng bằng sông Cửu Long6. Các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu 
Long có đồng bào Khmer sinh sống đã triển khai thực hiện việc xóa mù chữ 
và phổ cập giáo dục tiểu học cho trẻ em và người lớn Khmer ở độ tuổi từ 
15 ­ 35, đạt tỷ lệ theo quy định của nhà nước. Chùa là bảo tàng thu nhỏ của 
cư dân Khmer Nam Bộ Bản thân ngôi chùa đã khoác lên mình một giá trị 
nghệ thuật kiến trúc đặc trưng rất riêng của cộng đồng Khmer Nam Bộ. Từ 
cổng chùa đến kiến trúc chính điện, từ kiến trúc sala đến kiến trúc nhà tăng, 
cùng với cách trang trí và hệ thống tượng thờ, mỗi hiện vật, mỗi công trình 
đều là chỉnh thể mỹ thuật hoàn hảo, nó mang triết lý sâu xa với trái tim đầy 
nhiệt huyết và bàn tay điêu luyện, nhất là khả năng sáng tạo của nghệ nhân 
Khmer. Do đó, việc cư dân trong phum, sóc bảo vệ ngôi chùa cũng chính là 
cách họ bảo vệ, lưu giữ những giá trị văn hóa độc đáo, đặc trưng của tộc 
mình. Bên cạnh đó, chùa Khmer còn lưu giữ những hiện vật có giá trị, đó là 
những quyển sách bằng lá buông, hay còn gọi là Slac Treng. Đây là loại sách 
lá đã có từ lâu đời, được các nghệ nhân khắc/viết bằng chữ Phạn (Pali), chữ 

13



Khmer cổ, gồm những bài đọc trong kinh Phật, thành ngữ, tục ngữ, luật giáo 
huấn, tập tục, tử vi, bói toán… Những giá trị văn hóa ẩn chứa trong các bộ 
sách này được nhà chùa bảo quản chu đáo, trải qua mấy trăm năm nhưng 
vẫn lưu giữ được, trở thành những dạng sách cổ quý giá của chính tộc mình. 
Ở các chùa, bộ sách như vậy được bảo tồn lâu dài (hàng trăm năm) và chỉ 
đem ra cho các sư sãi đọc trong những ngày lễ lớn tổ chức trong nhà chùa. 
Cùng với những sách quý viết trên lá buông, chùa Khmer Nam Bộ còn có 
những hiện vật, cổ vật có giá trị cả về vật chất lẫn tinh thần. Trong đó, 
phải kể đến là các tượng Phật, đặc biệt là chiếc ghe ngo. Đây là một hiện 
vật mang giá trị văn hóa độc đáo. Ghe ngo còn gắn nhiều với văn hóa phi vật 
thể, không phải là sản phẩm của một cá nhân hay một tập thể bất kỳ nào. 
Mỗi chiếc ghe ngo là do một ngôi chùa, đại diện cho một hay nhiều phum, 
sóc người Khmer tạo ra, vừa mang tính cộng đồng vừa biểu hiện yếu tố tâm 
linh. Ghe ngo thường là biểu tượng cho các con vật có sức mạnh, hoặc có 
khả năng chạy nhanh,… Biểu tượng ghe ngo ở chùa Bốn Mặt (Sóc Trăng) là 
con chim, chùa Champa (Sóc Trăng) chọn biểu tượng con cọp, chùa Ông Mek 
(Trà Vinh) biểu tượng con cá nược… Người Khmer tin rằng, trong quá trình 
thi đấu, ghe ngo sẽ có khả năng lao đi với tốc độ nhanh và mạnh như con 
vật được chọn làm biểu tượng. Hai bên thân ghe, mũi ghe và đuôi ghe được 
trang trí hoa văn, màu sắc phù hợp với biểu tượng của ghe như để tạo nên 
sức mạnh. Nếu biểu tượng của ghe là rắn thần Naga, thì các họa tiết hai bên 
sườn ghe cũng toát lên được hình ảnh của một con rắn, khi ghe lướt sóng, 
người xem có cảm giác như thấy hình ảnh một con rắn thần đang lượn sóng. 
Chiếc ghe ngo tại các chùa được xem là một hiện vật mang yếu tố văn hóa 
truyền thống của người Khmer Nam Bộ còn lưu giữ đến ngày nay. Bên cạnh 

14


đó, một số chùa, như ở chùa Dơi (Sóc Trăng), còn có dàn nhạc ngũ âm. Đây 

là một bộ gồm năm nhạc cụ, mỗi loại phát ra một âm thanh, hòa với nhau 
tạo nên những giai điệu thánh thoát, âm vang độc đáo. Dàn nhạc này được sử 
dụng trong các dịp lễ hội, vào những ngày thường, trẻ em tu học trong chùa 
vẫn có thể sử dụng dàn ngũ âm rất thành thạo, đó là cách bảo tồn những giá 
trị văn hóa tinh thần của tộc mình. Có thể nói, bên cạnh một số bảo tàng do 
nhà nước xây dựng thì mỗi chùa Khmer còn là bảo tàng lưu giữ những hiện 
vật phản ánh giá trị văn hóa của tộc người Khmer, phản ánh lịch sử của cư 
dân trong phum, sóc, lịch sử của từng ngôi chùa, từng vùng đất. Chùa là “từ 
đường” của cư dân trong phum, sóc Người Khmer Nam Bộ khi sinh ra đã 
được xem là tín đồ của Phật giáo Nam tông. Họ luôn lấy giáo lý nhà Phật để 
làm cơ sở chuẩn mực sống cho riêng mình và ngay cả khi chết họ cũng 
muốn hài cốt được gửi trong chùa. Chính vì thế, lúc sinh thời, người dân 
không tiếc của, tiếc công trong việc xây dựng và thực hiện các lễ nghi. Họ 
mong muốn rằng, khi “chuyển kiếp”, họ sẽ được gửi xương lên chùa, để 
được nghe lời kinh, tiếng kệ, để được về với Phật: “Người Khmer không sợ 
nghèo đói, chỉ sợ khi chết không được hỏa thiêu để đem tro vào chùa ở cạnh 
đức Phật”8. Lễ hỏa táng diễn ra tại khuôn viên chùa. Hầu như ngôi chùa nào 
của phum, sóc cũng xây dựng lò hỏa thiêu dành cho những người đã mất 
trong cộng đồng dân cư của mình. Thường thì sau khi hỏa táng người mất, 
con cháu của họ sẽ nhặt tro xương trán đặt vào mâm có trải khăn trắng rồi 
đội mâm về nhà. Ban đêm họ còn mời ông lục tụng kinh cầu siêu cho người 
mất một lần nữa mới chấm dứt tang lễ. Còn cốt người chết họ đem rửa 
nước dừa cho sạch, đem phơi khô, rồi cho vào thố hoặc tháp nhỏ gọi là cốt 
để gửi trong chùa9. Trong mỗi ngôi chùa, nhất là những ngôi chùa xưa 

15


thường có nhiều ngôi tháp và đó chính là nơi mà các gia đình xây dựng để 
gửi tro cốt những người quá cố của dòng họ mình. Những ngôi tháp này 

thường được xây dựng ở phía Đông và thường là phía trước của chùa, nhưng 
không được xây ngay trước chính điện. Vì lẽ đó, ngôi chùa được người 
Khmer xem như là một từ đường không chỉ của một dòng họ mà chung cho 
cả phum, sóc. 
 1.2  Ngôi chùa Khmer Nam Bộ hiện nay
 Hiện tại và triển vọng Cho đến nay, Phật giáo Nam tông Khmer vẫn giữ 
một vai trò, vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của đồng bào Khmer 
Nam Bộ. Ảnh hưởng to lớn của tư tưởng Phật giáo Nam tông không chỉ tác 
động trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày của đồng bào mà còn như một sợi 
chỉ đỏ xuyên suốt các lễ tết lớn, nhỏ của người Khmer. Hầu hết các sinh 
hoạt tâm linh, sinh hoạt tôn giáo đều xuất phát từ giáo lý, sự tích, những câu 
chuyện răn dạy làm người của đức Phật10. Người Khmer vùng Nam Bộ có 
khoảng 600 ngôi chùa, với khoảng 10.620 sư sãi. Những năm qua, các tỉnh 
đồng bằng sông Cửu Long đã tạo điều kiện cho đồng bào và sư sãi trùng tu, 
xây dựng 108 chùa, chủ yếu là chính điện, sala và các phòng  học. Tuy nhiên, 
vẫn còn một số vùng có người Khmer sinh sống do đời sống còn khó khăn 
nên những ngôi chùa của họ còn nhỏ bé, vấn đề phát huy các giá trị văn hóa 
tinh thần ít được tổ chức. Khác với những ngôi chùa của Phật giáo dòng Đại 
thừa của vùng người Việt, người Hoa chỉ còn thu hút một bộ phận người 
sùng đạo lui tới hoặc vãn cảnh thì chùa Khmer đương đại chưa hề giảm sút 
vai trò của mình đối với cộng đồng, đối với mọi lứa tuổi. Bên cạnh việc tôn 
sùng những lễ tục, tôn giáo, tín ngưỡng mang màu sắc Phật giáo Nam tông 
của mình, người Khmer vẫn có sự giao thoa tín ngưỡng, do quá trình cộng cư 
16


với các tộc Kinh, Chăm, Hoa trên vùng đất đồng bằng sông Cửu Long. Ví dụ 
điển hình nhất là chùa Dơi ở Sóc Trăng, bên cạnh khu điện thờ chính thì 
trong khuôn viên chùa còn có xây dựng một miếu thờ Bà Đen, thu hút đông 
người đến đây dâng hương, cầu nguyện. Tuy vậy, vẫn không làm mai một 

hay giảm sút tầm quan trọng của chùa, nhà chùa vẫn là nơi truyền bá nhân 
sinh quan, thế giới quan, đạo đức, lối sống, chữ viết và nghệ thuật tộc 
người. Ngoài ra, theo truyền thống của Phật giáo Tiểu thừa của người 
Khmer Nam Bộ mà nhiều người khi hoàn tục đều tối thiểu đã học được một 
nghề mang từ chùa về để ứng dụng trong cuộc sống. Thậm chí, ngày nay 
cũng không hiếm những nhà tu luôn vận áo vàng nhà Phật nhưng lại rất 
thành thạo trong việc sử dụng các thiết bị tăng âm, camera,… Điều đó, một 
lần nữa thấy được chùa Khmer và Phật giáo Nam tông không quá bảo thủ 
mà chấp nhận cách tân, thích nghi liên tục với những cái mới, trước mắt là 
không để mất tín đồ, không mất vai trò trung tâm, để nhà chùa vẫn thực hiện 
mục đích lo cho phum, sóc của mình. Và, tất nhiên các cư dân trong phum, 
sóc ấy cũng phải chăm lo để cùng bảo vệ và duy trì những giá trị văn hóa mà 
chùa mang lại. Tuy vậy, hiện nay tại một số chùa, nơi được xem là bảo tàng 
thu nhỏ của phum, sóc có hiện tượng những quyển sách, kinh Phật, các tài 
liệu liên quan đến phong tục tập quán, luật, giáo huấn… được ghi trên lá 
buông có dấu hiệu bị hư hại do công tác bảo quản chưa tốt. Đây cũng là một 
trong những thực trạng đáng quan ngại trong việc duy trì giá trị văn hóa, hiện 
vật văn hóa trong chùa của người Khmer Nam Bộ. Như vậy, sự gắn bó của 
nhà chùa với người dân Khmer đã vượt qua phạm vi tín ngưỡng, mộ đạo 
thuần túy, trở thành một thói quen, thành tập tục tinh thần của người dân. 
Ảnh hưởng của nhà chùa không chỉ gói gọn trong khuôn viên, nơi chùa tọa 

17


lạc mà ảnh hưởng đến toàn xã hội. Vì vậy, nhà chùa còn là một “thiết chế 
xã hội” chứ không dừng ở nghĩa đen cụ thể là một ngôi chùa. Đây có thể coi 
là đặc điểm quan trọng nhất của ngôi chùa Khmer Nam Bộ. Có thể nói, ngôi 
chùa Khmer là một mẫu hình về kiến trúc nghệ thuật độc đáo đạt đến trình 
độ tinh xảo, vừa mang tính tôn giáo vừa mang nhiều yếu tố văn hóa, giáo 

dục truyền thống của tộc người Khmer. Với người Khmer, chùa là nơi 
thiêng liêng, nơi thờ Phật, nơi gửi gắm niềm tin qua những việc làm hiện 
tại, với mong ước trong tương lai được về cõi Niết bàn. Chùa là trường học 
giáo dục đạo đức, phong cách lối sống cho thanh/thiếu niên Khmer, là trung 
tâm hội họp của phum, sóc, là bảo tàng văn hóa, nơi lưu giữ các hiện vật 
độc đáo của người Khmer và còn là nơi diễn ra các hoạt động từ thiện. 
Trong vai trò văn hóa, ngôi chùa thể hiện khá đậm nét sức sống bền vững, 
truyền thống lâu đời của người Khmer, góp phần xây dựng một nền văn hóa 
Việt Nam “thống nhất trong đa dạng”.

18


CHƯƠNG 3 KẾT LUẬN 
Ngôi chùa Khmer Nam Bộ là một trung tâm văn hóa của tộc người này. Nơi đây 
gắn với các sinh hoạt văn hóa và lễ thức đậm tính dân gian, đồng thời là trường 
học truyền thống dạy về kiến thức, đạo làm người, nghề thủ công. Chùa như 
một bảo tàng về Phật giáo và nghệ thuật của phum, sóc, là nơi để người Khmer 
nương tựa tâm hồn khi sống và gửi tro tàn khi chết.
Giải pháp có thể đư một số chùa vào danh mục quản lý của nhà nước để bảo 
vệ chùa. Việc đưa vào danh mục quản lý của nhà nước sẽ bảo tồn được di sản 
văn hóa vật thể lưu giữ tại chùa.
Có thể nói, ngôi chùa Khmẻ là một bảo tàng giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện 
về phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng và bề dày lịch sử văn hóa của dân 
tộc Khmer, không những thế, nó còn là sự kết tinh các giá trị đạo đức, nó còn là 
sự kết tinh các giá trị đạo đức, thẫm mỹ và nghệ thuật. Giu gìn và phát huy các 
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Khmer phải đi từ ngôi chùa. Thúc đẩy 
và phát triển các vấn đề kinh tế xã hội cho đồng bào Khmer có lẽ cũng nên bắt 
đầu từ ngôi chùa. Ngôi chùa đối với người Khmer rất quan trọng, nên hiện nay, 
việc xây dựng chùa trở thành trung tâm sinh hoạt văn hóa, đời sống mới đang 

được Đảng, Nhà nước ta quan tâm đặc biệt. Trong thời gian tới, chúng ta cần 
lập kế hoạch nghiên cứu tổng thể các giá trị ở từng ngôi chùa, trùng tu lại 
những ngôi chùa có giá trị cao về nghệ thuật và lịch sử, đồng thời tiếp tục xây 
dựng chùa thành một trung tâm văn hóa, giáo dục hoàn chỉnh về mọi mặt, đáp 
ứng nhu cầu hưởng thụ tinh thần của bà con người Khmer vùng Tây Nam Bộ.

19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1­ Trần Văn Bổn (1999), Một số lễ tục dân gian người Khmer đồng bằng 
sông Cửu Long, Nxb. Văn hóa dân tộc
2­ Nguyễn Mạnh Cường (2008), Phật giáo Khmer đồng bằng sông Cửu 
Long ­ Những vấn đề nhìn lại, Nxb. Tôn giáo
 3­ Phạm Thị Phương Hạnh (2011, chủ biên), Văn hóa Khmer Nam Bộ nét 
đẹp trong bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia ­ Sự thật
 4­ Hà Lý (2004), Chùa Khmer Nam Bộ với văn hóa đương đại, Nxb. Văn hóa 
dân tộc
 5­ Nguyễn Thanh Quang (2011), Giá trị văn hóa Khmer vùng đồng bằng sông 
Cửu Long, Nxb. Chính trị quốc gia – sự thật.
6­ Viện Văn hóa, Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer đồng bằng sông Cửu 
Long, Bộ phận thường trú tại thành phố Hồ Chí Minh và Nxb. Tổng hợp tỉnh 
Hậu Giang.

20


PHỤ LỤC HÌNH ẢNH

21



(Hình1, ảnh tác giả)

(Hình2, ảnh tác giả)

22


(Hình3, ảnh tác giả)

23



×