Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Skkn một số giải pháp giáo dục học sinh nói không với nói tục, chửi thề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.24 KB, 30 trang )

MỤC LỤC
I. Đặt vấn đề...........................................................................................................3
1.1. Lí do chọn đề tài.............................................................................................3
1.1.1. Cơ sở lí luận.................................................................................................3
1.1.2. Cơ sở thực tiễn.............................................................................................5
1.2. Xác định mục đích nghiên cứu......................................................................6
1.3. Đối tượng nghiên cứu.....................................................................................7
1.4. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm..................................................................7
1.5. Phướng pháp nghiên cứu...............................................................................7
1.6. Phạm vi và thời gian nghiên cứu...................................................................8
1.6.1. Phạm vi nghiên cứu.....................................................................................8
1.6.2. Thời gian nghiên cứu...................................................................................8
II. Nội dung............................................................................................................9
2.1. Những nội dung lí luận có liên quan trực tiếp.............................................9
2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.......................................................................9
2.3. Mô tả, phân tích các giải pháp......................................................................9
2.3.1. Đưa nói tục, chửi thề vào thang điểm chấm thi đua.................................9
2.3.2. Lồng ghép vào các tiết Hoạt động ngoài giờ lên lớp...............................13
2.3.3. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.........................................................13
2.3.4. Phối hợp giữa nhà trường và gia đình.....................................................21
2.4. Kết quả thực hiên.........................................................................................21
III. Kết luận và kiến nghị....................................................................................26
3.1. Những kết luận đánh giá cơ bản nhất về sáng kiến...................................26
3.1.1. Nội dung.....................................................................................................26
3.1.2. Ý nghĩa........................................................................................................26
3.1.3. Hiệu quả.....................................................................................................26
3.2. Các đề xuất, kiến nghị..................................................................................27

2



I.

ĐẶT VẤN ĐỀ

1.1. Lí do chọn đề tài
1.1.1.Cơ sở lí luận:
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định giáo dục có vai trò hết sức
to lớn trong việc cải tạo con người cũ, xây dựng con người mới, bởi:
“Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
( Nửa đêm- Nhật kí trong tù).
Vì vậy, Bác luôn quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất và đời sống tinh
thần của nhân dân, Người rất chú trọng việc giáo dục nâng cao trình độ văn hoá
cho dân để dân “làm ăn có ngăn nắp”, “bớt mê tín nhảm”, “bớt đau ốm”, “nâng
cao lòng yêu nước” và “để thành người công dân đứng đắn”. Người chỉ rõ:
“Trình độ văn hoá của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc
khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân
cũng là một việc làm cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ, văn minh và giàu mạnh”.
Thật vậy, nhiệm vụ của giáo dục là “ươm mầm” để tạo ra những con người
“vừa có đức, vừa có tài”. Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã đặc
biệt quan tâm đến việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục ở hầu hết các cấp
học, bậc học; trong đó mục tiêu cơ bản là bồi dưỡng lý tưởng đúng đắn và tình cảm
cao đẹp; mở mang dân trí; bồi dưỡng những phẩm chất và phong cách tốt đẹp cho
con người. Giáo dục để đào tạo con người có ích cho xã hội. ‟Học để biết, học để
làm, học để khẳng định, học để chung sống”. Giáo dục nhằm đào tạo lớp người có
đức, có tài, kế tục sự nghiệp cách mạng, làm cho nước ta sánh vai cùng với các
cường quốc năm châu.
Ngày nay, bên cạnh việc dạy học hướng học sinh vào quá trình tự chủ động,
sáng tạo, tìm tòi chiếm lĩnh tri thức, có khả năng vận dụng kiến thức vào giải quyết

những tình huống xảy ra của thực tiễn cuộc sống thì một vấn đề cũng cần đặt ra
trong quá trình giáo dục là rèn luyện, hình thành cho các em học sinh năng lực và
phẩm chất đạo đức; việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống cũng
như việc xây dựng hệ giá trị đạo đức mới ở nước ta đã và đang đặt ra nhiều vấn đề
cần phải được giải quyết. Thực tế cho thấy, trong đời sống xã hội hiện nay đã có
những biểu hiện xem nhẹ những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, chạy
theo thị hiếu không lành mạnh. Cuộc đấu tranh giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa
lối sống lành mạnh trung thực, có lý tưởng…với lối sống ích kỉ, thực dụng…đang
diễn ra hàng ngày. Bên cạnh những hệ giá trị mới được hình thành trong quá trình
hội nhập, những cái tiêu cực cũng đang xâm nhập vào đạo đức, lối sống của nhiều
tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đối với mọi lứa tuổi học sinh trong các nhà trường
phổ thông.
3


Để thực hiện những yêu cầu cơ bản nêu trên của giáo dục nhằm đáp ứng
được những yêu cầu của xã hội trong xu hướng thời kì hội nhập và phát triển của
thời đại mới, người giáo viên ngoài nhiệm vụ truyền đạt kiến thức cho học sinh,
còn có trách nhiệm giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách cho các em. Điều này
đòi hỏi rất lớn đối với những giáo viên được phân công làm công tác chủ nhiệm
lớp.
Xã hội ngày càng phát triển, loài người càng hiện đại thì lại càng cần một lối
ứng xử văn minh, có văn hóa, giao tiếp giữa con người dù ở thời đại 4.0 vẫn cần
ngôn ngữ, trong đó ngôn ngữ nói vẫn rất cần thiết. Nhưng đi ngược với xu hướng
văn minh, hiện đại đó thì xu hướng “nói tục, chửi thề” trong một số lớn bộ phận
giới trẻ không có dấu hiệu suy giảm, thậm chí ngày càng lan rộng. “Nói tục, chửi
thề” trong xã hội ngày nay đang trở thành một vấn nạn, đặc biệt là ở giới trẻ. Chỉ
cần ngồi trong năm mười phút một quán cóc ven đường, ta không khó để nghe
những lời chửi thề như “quen miệng”, người nói không ngại ngùng nhưng lại khiến
người nghe “đỏ mặt”. “Nói tục ,chửi thề” mang lại nhiều hệ lụy xấu cho xã hội.

Thạc sĩ tâm lí Nguyễn Văn Công đã từng viết trên báo Giáo dục Online rằng :“
Nói tục chửi thề” có liên quan chặt chẽ đến những hành động có dấu hiệu vi phạm
pháp luật, là tiền đề cho những cãi vã, xô xát,… nhiều vụ việc đã dẫn đến án mạng
đau lòng mà khởi nguyên là do nói tục, chửi bậy…”.
Trong trường học, vấn đề nói tục, chửi thề cũng không ngoại lệ. ‟Nói tục,
chủi thề” còn trở nên khá phổ biến. Đó là một thói hư, tật xấu cần phải lên án và
cần được chú trọng để giáo dục thế hệ trẻ nói ‟không” với “nói tục, chửi thề”.
Nhiều biện pháp đưa ra để học sinh hạn chế nói tục, chửi thề nhưng chưa
được thực hiện đến nơi đến chốn,chưa mang lại hiệu quả cao. Nếu không có biện
pháp phù hợp, không thực hiện dứt khoát thì rất nguy hại. Từ chỗ một người “nói
tục, chửi thề” kéo theo cả một gia đình, một nhóm người “nói tục, chửi thề”, một
nhóm người “nói tục, chửi thề” kéo theo một lớp học, một thôn xóm, phường xã
“nói tục, chửi thề”, … Hệ lụy cuối cùng là mất đi sự trong sáng của Tiếng Việt,
mất đi bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
*Nguyên nhân dẫn đến học sinh nói tục, chửi thề gồm:
Do sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin. Nhiều clip tràn lan trên
mạng thiếu chuẩn mực của nền văn hóa ngoại lai tràn lan trên các trang mạng xã
hội. Nhiều em nghiện mạng xã hội, những lời nói tốt xấu lẫn lộn, khiến trẻ học
theo, bắt chước rất nhanh mà thiếu sự quản lí của phụ huynh. Bên cạnh đó, một bộ
phận không nhỏ các truyện tranh thiếu nhi, phim hoạt hình… chỉ chú trọng ở hình
thức mà thiếu sự quản lí về nội dung nên có những định hướng sai lệch về ngôn
ngữ của các nhà xuất bản. Hiện trạng này khiến cho một bộ phận giới trẻ thiếu
nhận thức lệch lạc về ngôn ngữ giao tiếp, văn hóa và đạo đức.
Trẻ nói tục, chửi thề từ lúc “lên ba”, từ khi bắt đầu học nói đã bắt chước các
thành viên trong gia đình nói tục, chửi thề. Nguyên nhân là vô tình nghe thấy từ
người lớn trong gia đình, lúc này trẻ chỉ bắt chước nói theo, với mục đích “thử
4


nghiệm” mà chưa biết lời mình nói là xấu, là bậy. Khi trẻ lớn dần, nói tục, chửi bậy

thành thói quen. Một vài ông bố, bà mẹ chỉ “thỉnh thoảng” nói tục, chửi thề khi
gặp cơn tức giận, khi sự việc không như ý muốn. Nhiều gia đình, có cha mẹ làm
nghề buôn bán tự do, nhất là buôn bán ngoài chợ thì khả năng sẽ nói tục, chửi bậy
sẽ cao hơn những gia đình có bố mẹ làm những công việc khác. Điều này cho thấy,
bố mẹ là tấm gương cho con trẻ, con trẻ là tấm gương phản chiếu cách giao tiếp
của bố mẹ rõ nét nhất. Nhiều gia đình không quan tâm đến ngôn ngữ và văn hóa
giao tiếp của con em mình. Một số gia đình khi phát hiện con mình nảy sinh nói
tục, chửi thề lại không nghiêm khắc chấn chỉnh. Những lần đầu còn chỉnh sửa
nhưng khi thấy cường độ nói của trẻ ngày càng nhiều thì “chán”, phó mặc trẻ cho
giáo dục trong nhà trường, có thầy cô lo.
Do lối sống đua đòi, thực dụng, dễ dãi trong một số học sinh dẫn đến sự suy
thoái nhân cách và đạo đức. Từ một vài cá nhân nói tục, chửi thề trở thành hiện
tượng tràn lan trong học đường. Nhiều học sinh nói tục, chửi thề cho “bằng bạn,
bằng bè”, thích thể hiện cái “tôi” riêng, cái “chất” riêng của mình trước đám đông.
Mặt khác do bản thân học sinh thiếu ý thức về tác hại của việc nói tục, chửi thề.
Từ đó, không biết chọn lọc, thiếu tự điều chỉnh ngôn ngữ giao tiếp của mình.
Nhà trường buông lỏng giáo dục đạo đức nhân cách, ngôn ngữ giao tiếp của
học sinh. Trong thực tế, nhiều thầy cô vẫn phớt lờ khi nghe học sinh nói tục, chửi
thề. Nền giáo dục ở nước ta vẫn chưa có chương trình giáo dục ngôn ngữ cho học
sinh, việc giáo dục đạo đức học sinh vẫn chỉ dừng lại ở lồng ghép các môn học
khác. Các lớp kĩ năng sống về giao tiếp, về chọn lọc ngôn ngữ vẫn chưa phổ biến
trong học đường, nhất là ở các trường nông thôn thì càng hạn chế. Vì thế, để giáo
dục ngôn ngữ giao tiếp cho học sinh đạt hiệu quả vẫn là vấn đề nan giải.
*Hậu quả của việc nói tục, chửi thề:
-Học sinh nói tục, chửi thề không chỉ lệch lạc trong việc phát triển ngôn ngữ, hình
thành nhân cách của học sinh mà còn làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt, làm
mất đi bản sắc văn hóa của dân tộc khi nói tục, chửi thề trở thành “căn bệnh” trong
trường học.
-Đa số các cuộc bạo lực học đường, thậm chí các vụ xô xát, ẩu đã dẫn đến án
mạng đều xuất phát từ mâu thuẫn cá nhân rồi dẫn đến cãi vã, xúc phạm danh dự,

nhân phẩm lẫn nhau bằng những lời nói tục, chửi thề.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn:
Bác Hồ từng nói:
“Có đức mà không có tài thì vô dụng,
Có tài mà không có đức thì làm việc gì cũng khó”
Người “nói tục, chửi thề” là người kém văn minh. “Nói tục, chửi thề” còn đi
đôi với những hành động bạo lực, côn đồ, thiếu lễ độ. Ấn tượng trong giao tiếp
giữa người với người đặc biệt quan trọng. Nên những người giỏi giang đến mấy
mà ăn nói thô tục thì không nhận được sự yêu mến từ bạn bè, đồng nghiệp, đối
5


tác,... thậm chí còn xa lánh, dẫn đến “làm việc gì cũng khó”, làm việc nào cũng
khó thành công...Trong thời đại hội nhập quốc tế, thời đại của “công dân toàn cầu”,
nhiệm vụ của giáo dục không chỉ là giáo dục tri thức mà còn đào tạo nên những
con người vừa có đức vừa có tài, “vừa có tâm vừa có tầm” cho đất nước.
Ông bà ta có câu “Lời nói không mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng
nhau”. Nhiều vụ bạo lực học đường mâu thuẫn xuất phát từ “nói tục,chửi thề”, đau
lòng và nghiêm trọng hơn là nhiều cuộc mâu thuẫn dẫn đến án mạng đau lòng, làm
cho người bị đánh và cả người đánh để lại hậu quả khôn lường cho việc hình thành
nhân cách của các em, ảnh hưởng đến thế hệ tương lai của đất nước. Một hiện
tượng đang lan rộng trong học đường, trở thành nỗi lo lắng của nhiều bậc phụ
huynh và thầy cô giáo là hiện tượng “văng tục”. Trong giới học sinh, còn có hiện
tượng viết, khắc những dòng chữ mang hàm ý thô tục ngay lên bàn học, trên
tường, trên thân cây ở khuôn viên nhà trường, ở nhà xe,... mà người bắt gặp phải
“đỏ mặt”. Các em chửi thề trong mọi hoàn cảnh, trên mọi lý do. Bị giáo viên phê
sổ đầu bài, chửi thề. Bị điểm kém, chửi thề. Vui mừng, chửi thề. Buồn bực vì lý do
nào đấy, chửi thề. Thậm chí, câu chào xã giao hàng ngày cũng chửi thề, gặp nhau
mở miệng đã chửi thề: ĐM dạo này xinh thế? Đ.M dạo này khỏe không?v.v. và v.v.
Không chỉ học sinh nam nói tục, học sinh nữ cũng không kém buông lời đến không

“ngại miệng”. Không chỉ các em học sinh từ Trung phổ phổ thông trở xuống mà
đối tượng sinh viên, đối tượng được coi là “tri thức” bây giờ xu thế “nói tục, chửi
thề” cũng đang phát triển rầm rộ. Chỉ cần dăm ba phút nghe các bạn chém gió ở
vỉa hè cũng bắt gặp các bạn nói tục chửi thề một cách khá thân mật, vui vẻ.
1.2.

Xác định mục đích nghiên cứu:

Với nội dung của đề tài: “Một số giải pháp giáo dục học sinh nói “không”
với nói tục, chửi thề” giúp giáo viên xác định được mục tiêu và nhiệm vụ của
người giáo viên trong công tác chủ nhiệm lớp một cách có hệ thống. Các biện pháp
giáo dục học sinh nhất là những học sinh có thói quen ‟nói tục, chửi thề” và mối
quan hệ giữa ba môi trường giáo dục: Nhà trường – Gia đình – Xã hội trong việc
giáo dục, hình thành nhân cách học sinh, hướng các em đến với cái đẹp: Chân –
Thiện – Mỹ theo quan niệm thẫm mỹ phương Đông, phấn đấu thành người hoàn
thiện để trở thành công dân có ích cho xã hội sau này.
Trang bị cho học sinh những hiểu biết cần thiết, cơ bản về những giá trị đạo
đức khi còn ngồi trên ghế nhà trường nhất là ở cấp THCS, trên cơ sở đó, các em có
được nhận thức, thái độ và hành vi tích cực theo những chuẩn mực về đạo đức đã
được quy định trong “Điều lệ trường THCS, trường THPT và trường THPT có
nhiều cấp học” yêu cầu về nhiệm vụ và quyền hạn của học sinh; qua đó, giáo dục
các em ý thức quan tâm đến việc rèn luyện và tu dưỡng đạo đức bản thân trong lời
ăn tiếng nói hàng ngày, giúp các em có ý thức giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt
và góp phần giảm bạo lực học đường ở trường Trung học Cơ sở.
Phát triển kỹ năng thực hành, kỹ năng phát hiện và ứng xử tích cực trong các
mối quan hệ của đời sống xã hội. Việc giáo dục đạo đức học sinh nói không với
6


‟nói tục, chửi thề ” qua tiết sinh hoạt lớp, tiết Hoạt động ngoài giờ lên lớp góp

phần giáo dục cho học sinh trở thành công dân tốt, biết sống, học tập và làm theo
tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong quá trình thực hiện, nghiên cứu, người giáo viên chủ nhiệm lớp cần
hình thành và định hướng cho học sinh mạnh dạn phê bình những bạn thường
xuyên nói tục, chửi thề, khuyến khích học sinh nói ‟không” với nói tục, chửi bậy,
tránh tình trạng giáo viên chủ nhiệm áp đặt các em, hoặc ra yêu cầu, mệnh lệnh,
điều này càng gây áp lực, ức chế cho các em và dễ nảy sinh những phản kháng khó
lường trước ở các em.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng khoa học mà nội dung đề tài sáng kiến đề cập đến là vận dụng
một số biện pháp giáo dục học sinh của giáo viên làm công tác chủ nhiệm sao cho
những em học sinh thường xuyên nói tục, chửi thề ở cấp Trung học cơ sở nhận
thức được tác hại của việc nói tục, chửi thề, biết được tầm quan trọng của việc giữ
gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, nhận thức được những hành vi sai trái của mình
để kịp thời sửa chữa hoặc được uốn nắn kịp thời từ nhà trường, gia đình hoặc xã
hội, nhất là giáo viên chủ nhiệm lớp để phấn đấu học tập tốt trở thành “con ngoan,
trò giỏi” , ‟nói lời hay, làm việc tốt” khi còn ngồi trên ghế nhà trường THCS.
1.4. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm
- Đối tượng học sinh thường xuyên nói tục, chửi thề trong lớp học.
- Những học sinh có xếp loại đạo đức từ trung bình trở xuống.
- Những học sinh có biểu hiện: hành động ‟côn đồ”, thường thích thể hiện mình là
“đàn anh, đàn chị” ,v.v. trong lớp chủ nhiệm.
- Những học sinh đã từng tham gia bạo lực học đường: đánh nhau, xô xát, văng
tục,…
- Học sinh có tính nóng nảy, khó kiềm chế được bản thân.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
- Tổng hợp các phương pháp: Phương pháp điều tra; Phương pháp nghiên cứu;
Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp thống kê, phân loại. Đồng thời, kết
hợp song song với các kỹ năng khác trong quá trình giáo dục đạo đức các em như:
Kỹ năng phân tích, giải quyết các tình huống khó khăn; Kỹ năng giao tiếp và

thuyết phục; Kỹ năng lựa chọn và quyết định; Kỹ năng hợp tác và tìm kiếm sự giúp
đỡ.
- Qua thực tiễn giảng dạy và kiêm công tác chủ nhiệm lớp của bản thân trong
nhiều năm qua.
7


- Tham khảo ý kiến của các đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường (thông qua
các kênh thông tin).
- Điều tra, khảo sát, cập nhật thông tin học sinh vào đầu năm học, tìm hiểu thật kĩ
các đối tượng học sinh học yếu, học sinh cá biệt.
- Nghiên cứu các tài liệu có liên quan.
1.6. Phạm vi và thời gian nghiên cứu của đề tài
1.6.1. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trên các cơ sở lí luận, thực tiễn và nhiệm vụ của đề tài, tôi đã chọn phạm vi
nghiên cứu của đề tài là:
- Nghiên cứu tài liệu về “Các biện pháp giáo dục đạo đức học sinh”.
- Học sinh các lớp cấp THCS ở các lớp chủ nhiệm 7A7, 7A1, 7A2, qua các năm
tại đơn vị bản thân đang công tác.
- Các tiết sinh hoạt trên lớp, bản thân đã trực tiếp thực hiện trong nhiều năm qua
tại nơi đang công tác.
- Qua các tiết dự giờ, thao giảng của đồng nghiệp ở trường, trao đổi rút kinh
nghiệm qua từng tiết sinh hoạt tập thể.
- Qua trao đổi với học sinh: Điều tra bằng phiếu, bài thu hoạch qua các đợt vận
động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; “Học sinh tích
cực, chủ động sáng tạo trong học tập”; “Mỗi Thầy (Cô) giáo là một tấm gương
sáng về tinh thần tự học, tự sáng tạo”.
- Khảo sát thực tế.
1.6.2. Thời gian nghiên cứu của đề tài
Đề tài “Giáo dục học sinh nói “không” với nói tục, chửi thề” được áp dụng thử

nghiệm từ năm học 2015 – 2016 cho đến nay, được xây dựng, bổ sung và hoàn
thiện dần qua các lần dự giờ của đồng nghiệp; các lần thao giảng tổ chuyên môn và
nhà trường tổ chức.

II.NỘI DUNG
2.1. Những nội dung lý luận có liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu
8


Bác Hồ từng nói :
“Hiền dữ đâu phải là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Nhưng môi trường giáo dục để tạo nên nhân cách của học sinh không chỉ có
nhà trường mà còn chịu tác động bởi môi trường giáo dục ở gia đình và tác động
của xã hội. Sống trong môi trường giáo dục lành mạnh thì các em sẽ phát triển
nhân cách tốt. Ngược lại, sống trong môi trường không lành mạnh thì các em cũng
bị ảnh hưởng đến thói quen và dần dần hình thành nhân cách lệch lạc. Nói tục, chửi
thề trong gia đình và ngoài xã hội cũng không ngoại lệ. Sống trong môi trường ba
mẹ, người thân trong gia đình nói tục, chửi thề thì các em cũng có thói quen này.
Khi các em nói tục, chửi thề vô tư như một thói quen ở nhà thì dĩ nhiên sẽ nói tục,
chửi thề ở lớp, ở trường, ngoài xã hội. Khi trên lớp các em nói tục, chửi thề thì các
bạn khác sẽ dần dần hình thành thói quen như bạn. Hệ lụy là cả một lớp có nhiều
học sinh nói bậy, cả xã hội sẽ nhiều người, nhiều thế hệ nói tục, chửi thề. Thế mới
thấy tác hại của việc dùng ngôn ngữ lệch lạc sẽ có tác hại to lớn như thế nào.Đây là
vấn đề đáng báo động trong việc làm mất đi sự trong sáng của Tiếng Việt trong
giới trẻ.
Với vai trò là một giáo viên chủ nhiệm lớp trong nhiều năm liền, tôi thấy
“nói tục, chủi thề” còn là một trong những nguyên nhân dẫn đến bạo lực học
đường. Vì vậy, tôi đã thu thập “Một số kinh nghiệm giáo dục học sinh hạn chế nói
tục, chửi thề”, đã ứng dụng trong nhiều năm học và mang lại hiệu quả cao .

2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Trong nhà trường hiện nay, nói tục, chửi thề là một hiện tượng khá phổ biến.
Học sinh thường dùng lời lẽ thô lỗ, thiếu lễ độ khi nói chuyện với nhau, thiếu
chuẩn mực sư phạm. Nhất là các em nhất thời nóng giận thì càng nói tục, chửi thề,
dùng lời lẽ thiếu tế nhị để xúc phạm danh dự của các bạn đồng trang lứa, của người
khác. Nhiều học sinh còn dùng cả tiếng lóng, tiến nước ngoài có hàm nghĩa xấu
trong giao tiếp hàng ngày, còn in cả trên áo, trên mũ, viết bậy lên tường, lên bàn
học ngay chính chỗ mình ngồi… để thể hiện “đẳng cấp” của mình. Càng nguy
hiểm hơn nữa khi những điều đó được coi là chuyện rất bình thường.Vì vậy, trong
giai đoạn đầu khi các em mới có biểu hiện về nói tục, chửi thề, nếu giáo viên chủ
nhiệm lớp biết khéo léo kết hợp giữa gia đình-nhà trường-xã hội để giáo dục và
giúp đỡ thì tỉ lệ các em “nói không” với nói tục, chủi thề sẽ giảm đi đáng kể, góp
phần nâng cao chất lượng hai mặt giáo dục của lớp, trường.
2.3. Mô tả, phân tích các giải pháp
2.3.1.

Đưa “Nói tục chửi thề” vào thang điểm chấm thi đua của
lớp

Nhiều năm liền tôi áp dụng phương pháp này mang lại hiệu quả cao. Học
sinh nào nói tục, chửi thề nhiều lần sẽ bị trừ vào thang điểm thi đua cá nhân, thi
đua của tổ. Đây là căn cứ để xếp loại hạnh kiểm hàng tuần, cuối học kì và cuối
9


năm học. Phương pháp này đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm lớp cần xây dựng một đội
ngũ cán bộ lớp công minh, theo dõi sát quá trình các em chấm điểm thi đua chéo
nhau giữa các tổ, giữa tổ trưởng và các thành viên trong tổ của mình,có trách
nhiệm, có năng lực, là “cánh tay đắc lực” của giáo viên chủ nhiệm trong việc quản
lí các hoạt động của lớp, nắm bắt kịp thời những bạn mắc lỗi, những bạn chậm sửa

sai, những bạn tiến bộ để phê bình và khen ngợi kịp thời, công tâm. Nhờ kết quả
thi đua của các cá nhân, vị thứ của các tổ mà các em quyết tâm sửa sai, bỏ thói
quen nói tục, chửi thề.
Sau một thời gian khoảng 3 tuần các em đã vào nếp thì sẽ hạn chế nói tục,
chửi thề. Từ hạn chế được nói tục, chửi thề trong lớp các em sẽ dần dần bỏ được
thói quen. Thực tế, sau một học kì, nhiều em còn “dị ứng” khi nghe bạn khác nói
tục, chửi thề. Thực hiện được điều này thì giáo viên chủ nhiệm phải cùng cán bộ
lớp xây dựng một Bảng quy định thi đua của tập thể lớp trên tinh thần dân chủ,
giáo viên đóng vai trò là người định hướng cho cán bộ lớp từ đầu năm học mới.
Bên cạnh đó, trong các giờ sinh hoạt lớp, giáo viên chủ nhiệm không nên chỉ phê
bình, cảnh cáo, đưa ra hình phạt với các em vi phạm lỗi nói tục, chủi thề mà còn
phải thường xuyên tuyên dương những em nói lời hay làm việc tốt, động viên,
khích lệ những em đã tiến bộ, hạn chế được hành vi nói tục, chửi thề để các em
tiến bộnhiều hơn.

TRƯỜNG THCS CÁT MINH

BẢNG QUY ĐỊNH THI ĐUA LỚP 7A1
NĂM HỌC: 2018- 2019
10


HỌC TẬP

ĐIỂM/ MỨC
KỈ LUẬT

1 Không học bài, không làm bài tập, không
soạn bài đầy đủ


-2 điểm/ lần

2. Phát biểu xây dựng bài, đạt điểm cao khi
kiểm tra miệng ( từ 8 điểm trở lên)

+ 1 điểm/ lần

3.Nói chuyện, mất tập trung trong giờ học thầy
cô giáo nhắc nhở, làm việc riêng trong giờ học

-2 điểm/ lần

-2 điểm/ lần, <2 lần cảnh cáo
4. Vi phạm nội quy học tập có tên trong sổ đầu trước lớp, 3 lần phạt cảnh cáo
bài
trước lớp đồng thời trực nhật
1 tuần, >3 lần mời PHHS
Cảnh cáo trước lớp, mời phụ
5. Gian lận trong kiểm tra, thi cử: xem tài liệu,
huynh đồng thời xếp hạnh
trao đổi bài,….
kiểm yếu (học kì)
II. CHUYÊN CẦN, TÁC PHONG, NỀ NẾP

ĐIỂM/ MỨC
KỈ LUẬT

1. Đi học trễ, vắng học không phép, vô lễ với
thầy cô giáo, cán bộ, nhân viên nhà trường


-2 điểm/lần

2. Tự ý chuyển chỗ ngồi, mặc sai đồng phục
theo quy định của nhà trường

-2 điểm/lần

3. Ăn quà vặt, xả rác bừa bãi, bẻ cành, hái hoa
trong khuôn viên trường

-3 điểm/lần

4. Thành viên trong tổ trực nhật muộn, bẩn;
không khóa cửa, tắt quạt, tắt điện khi ra khỏi Cả tổ trực nhật lại 1 tuần
phòng
5. Dựng xe không đúng nơi quy định
6. Không bỏ áo trong quần, không thắt lưng,
không khăn quàng, mang dép lê, không phù
hiệu, mặc sai đồng phục

Vi phạm lần 1-2 phê bình
trước lớp, >3 lần mời phụ
huynh
-3 điểm/lần

7.Gây gổ, đánh nhau, vi phạm luật An toàn giao Xếp hạnh kiểm yếu trong học

thông
11



8. Mang điện thoại tới trường, sử dụng điện
thoại trong giờ học

Thu điện thoại, mời PHHS
đến trao đổi mới trả lại

9. Đánh bài, uống rượu bia, sử dụng các chất
kích thích khác trong giờ học

Mời PHHS, xếp hạnh kiểm
yếu (học kì)
Lần 1-2 phê bình trước lớp
Lần 3 gọi điện thông báo cho
PHHS

10. Nói tục, chửi thề

Lần 4 trừ 10 điểm, thông báo
PHHS
Lần 5 trở lên xếp hạnh kiểm
Trung bình cuối học kì

III. CÁC VẤN ĐỀ KHÁC

ĐIỂM/ MỨC
KỈ LUẬT

1.Nộp các tài liệu, giấy tờ muộn theo thời gian
quy đinh


-2 điểm/lần

2. Nộp tiền quỹ, các khoản khác chậm theo
thời gian quy định

-2 điểm/làn

3. Không tham gia các hoạt động tập thể của
trường, lớp

- 3 điểm/lần

* Lưu ý:
1. Cách xếp loại hạnh kiểm trong tuần:
- Trong tuần đạt 85 điểm trở lên, không vi phạm xếp loại hạnh kiểm Tốt
- Trong tuần đạt 70 - 84 điểm hoặc đạt 85 điểm trở lên nhưng vi phạm ít nhất 1 lỗi,
xếp loại hạnh kiểm Khá.
- Trong tuần đạt 50 -69 điểm, hoặc đạt 70 -84 điểm nhưng còn vi phạm ít nhất 1
lỗi, xếp loại Trung bình.
-Dưới 50 điểm hoặc vi phạm 2 lỗi trong tuần, xếp loại Yếu.
2. Cách xếp loại hạnh kiểm trong tháng:
- 4 tuần xếp lọai Tốt hoặc 3 tuần xếp loại Tốt, 1 tuần xếp loại Khá, thì xếp loại
hạnh kiểm trong tháng Tốt
- 2 tuần đạt loại Khá, các tuần còn lại Tốt, xếp loại Khá
- 2 tuần đạt trung bình, xếp loại Trung Bình
- 2 tuần đạt loại Yếu, xếp loại Yếu.
3. Cách xếp loại hạnh kiểm trong học kì, năm học:
- Vi phạm các lỗi: sử dụng điện thọai trong giờ học, gian lận trong kiểm tra, thi cử,
gây gỗ đánh nhau, đi xe máy, hút thuốc, sử dụng rượu bia và các chất kích thích

khác, nói tục chửi thề quá 5 lần xếp loại Trung bình. Vi phạm từ 2 lần trở lên, nói
tục chửi thề từ lần 6 trở lên xếp loại hạnh kiểm Yếu.
12


- Căn cứ vào xếp loại hạnh kiểm của các tuần trong học kì để xếp loại học kì.
- Căn cứ vào xếp loại hạnh kiểm ở học kì 2 và sự phấn đấu vươn lên trong học tập,
rèn luyện hạnh kiểm để xếp loại hạnh kiểm năm học.
Cát Minh, ngày 20 tháng 8 năm 2018
GVCN

Lê Thị Thùy Trang

Lớp trưởng

Phạm Thị Mai Thi

Thư kí

Hoàng Phạm Thu Trinh

2.3.2. Đưa việc giáo dục học sinh “Nói không với nói tục, chửi thề” lồng
ghép vào các tiết Hoạt động Ngoài giờ lên lớp.
Mục tiêu của các Tiết Hoạt động ngoài giờ lên lớp là giáo dục cho học sinh
có những hiểu biết và có thái độ đúng đắn về các giá trị văn hóa, xã hội của dân
tộc nói riêng và nhân loại nói chung, như những giá trị truyền thống về tình yêu
quê hương đất nước, biết ơn các anh hùng liệt sĩ, tìm hiểu truyền thống cách mạng
của quê hương, truyền thống của nhà trường, các ngày lễ lớn của dân tộc…Thông
qua các hoạt động như thi tìm hiểu kiến thức; thi sáng tác thơ ca; thi tìm hiểu, sưu
tầm ca dao, tục ngữ…. để giáo dục các em các chuẩn mực đạo đức trong ngôn ngữ

giao tiếp hằng ngày, giúp các em có ý thức về tầm quan trọng về sự giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt. Bắt đầu từ năm học 2017-2018, Phòng giáo dục đã chỉ
đạo việc lồng ghép “Học tập, tư tưởng đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh” vào
môn Giáo dục công dân và tiết Hoạt động Ngoài giờ lên lớp ở trường THCS. Ở lớp
7, nội dung này được lông ghép vào các chủ điểm ở tháng 2 và tháng 5. Vì vậy,
giáo viên có thể linh hoạt để lồng ghép nội dung

CHỦ ĐIỂM THÁNG 5
BÁC HỒ KÍNH YÊU
Tiết 2:
13


Ngày soạn : 28/04/2018
Ngày thực hiện :
TRAO ĐỔI NỘI DUNG 5 ĐIỀU BÁC HỒ DẠY,
HỌC TẬP ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CỦA BÁC HỒ
I.Mục tiêu:
1. Nhận thức:
- Phân tích nội dung của 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên nhi đồng, biết liên hệ với
thực tế để hiểu rõ hơn nhiệm vụ của thiếu nhi.
-Cảm nhận được sự linh hoạt biết mình, biết người trong các hoàn cảnh khác nhau
của Bác Hồ.
-Biết được những điể mạnh và điểm yếu của bản thân trong học tập và trong cuộc
sống.
2. Tình cảm, thái độ:
- Có thói quen thực hành 5 điều Bác Hồ dạy trong cuộc sống hàng ngày ở gia đình,
nhà trường và ở cộng đồng xã hội.
3. Kĩ năng, hành vi:
- Biết phê phán những thái độ, hành vi trái với lời dạy của Bác, ủng hộ và tán thành

đối với những hành vi thực hiện tốt 5 điều Bác dạy.
-Phát huy những điểm mạnh, hạn chế những điểm yếu của bản thân để thành công
trong học tập và cuộc sống.
-Biết sử dụng lời nói đúng lúc, đúng nơi, đặc biệt nói “không” với nói tục, chửi
thề.
II. Nội dung và hình thức:
1.

Nội dung:

a, Nội dung 1:
- Xuất xứ của 5 điều Bác dạy.
- Những nội dung cơ bản trong 5 điều Bác dạy.
- Những ví dụ thực tế về thực hiện 5 điều Bác dạy.
b, Nội dung 2:
- Đọc hiểu câu chuyện “Dù mưa hay nắng”
- Cá nhân trả lời câu hỏi trên phiếu học tập, hoạt động nhóm trả lời câu hỏi trên
bảng phụ.

14


- Kể lại câu chuyện của bản thân hoặc người thân về việc sử dụng lời nói chưa
đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng và hậu quả của lời nói đó.
- Nêu cách rèn luyện để sử dụng lời nói cho phù hợp với từng hoàn cảnh và đối
tượng.
2. Hình thức:
a, Nội dung 1:
- Hái hoa dân chủ, trả lời câu hỏi.
- Biểu diễn văn nghệ.

b, Nội dung 2:
- Hoạt động nhóm, kể câu chuyện của cá nhân về sử dụng lời nói chưa đúng lúc,
chưa đúng chỗ, đúng đối tượng và hậu quả của lời nói đó.
- Cách rèn luyện để sử dụng lời nói cho phù hợp với từng hoàn cảnh và đối tượng.
III. Chuẩn bị:
1. Phương tiện:
- Ảnh Bác, lọ hoa, khăn bàn.
- Tờ tranh 5 điều Bác dạy.
- Cây xanh gắn câu hỏi về 5 điều Bác dạy.
-Phiếu học tập:
PHIẾU HỌC TẬP
Khoanh vào chữ cái trước câu trả lời đúng:
1.
Trong suốt thời kì kháng chiến chông thực dân Pháp, cơ quan Bác
đóng ở:
a)
Chỉ một điểm duy nhất.
b)
Hai đên ba địa điểm.
c)
Nhiều địa điểm khác nhau.
2.
Khi cơ quan Bác đóng ở xã Hợp Thành, mọi người hay qua lại:
a)
Đèo Cổ Yểng
b)
Đèo De
c)
Đèo Nàng
3. Khi gặp thời tiết nắng to, Bác thường nói vui:

a) Chà chán quá, trời hôm nay nắng thật gay gắt.
b) Chà, trời nắng thế này thì mệt lắm đây.
c) Chà may quá, hôm nay trời không mưa.
4. Nghe Bác nói mọi người đều so sánh với điều gì?
a) So với ngày trời nắng khác
15


b)So với ngày trời mưa
c) So với ngày trời râm
5. Khi gặp thời tiết mưa, Bác lại nói:
a) Hay thật, trời mưa đi trơn và khó quá. Các chú có vất vả lắm không?
b) Hay thật, trời mưa to quá đi sẽ mệt lắm đây.
c) Hay thật, trời mưa đi mát quá. Các chú nhớ không, trời nắng đi qua
quãng đường này đến là mệt.
-

Bảng phụ:
THẢO LUẬN NHÓM
6. Những lời nói phù hợp với đối tượng và hoàn cảnh của Bác đã có tác
dụng gì?
7. Qua câu chuyện trên, các em rút ra bài học gì?
8. Nhiều bạn có thói quen “nói tục, chửi thề” ngay trong lớp học. Theo
em, hành động này có tốt không?
9. Các tổ hãy tìm hiểu hậu quả của việc “nói tục, chửi thề”. Qua đó,
nêu các nguyên nhân, hậu quả và biện pháp khắc phục thói quen
không tốt này.

2. Tổ chức:
- Yêu cầu HS thuộc 5 điều Bác Hồ dạy suy nghĩ nội dung của từng điều, tìm những

ví dụ thực tế của việc thực hiện tốt 5 điều Bác dạy để chứng minh.
- HS tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của 5 điều bác dạy Cán bộ lớp phân công chuẩn bị
cây hoa,cắt cánh hoa để ghi câu hỏi
- GV giúp HS ban tổ chức soạn câu hỏi xung quanh 5 điều Bác dạy.
- Đọc câu chuyện “Dù mưa hay nắng”, trả lời các câu hỏi hướng dẫn tìm hiều, kể
câu chuyện của cá nhân về sử dụng lời nói chưa đúng lúc, chưa đúng chỗ, đúng đối
tượng và hậu quả của lời nói đó.
-Nêu cách rèn luyện để sử dụng lời nói cho phù hợp với từng hoàn cảnh và đối
tượng.
IV. Tiến hành hoạt động:
Người
thực
hiện

Nội dung công việc

Thời
gian

16


A.
Người
điều
khiển

NỘI DUNG 1:

-Hát tập thể bài hát “Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên

nhi đồng”.

10’

- Người điều khiển chương trình nêu lý do hoạt động và giới
thiệu BGK .

- Mời đại diện ban chỉ huy chi đội lên hái hoa đầu tiên và trả
Đại diện lời câu hỏi, cử đại diện lên hái hoa.
BCH
Nếu trả lời không đúng hoặc thiếu có thể yêu cầu bổ sung.
chi đội - Xen kẽ chương trình l tiết mục văn nghệ.
B. NỘI DUNG 2:

15’

*Hoạt động 1:
Cá nhân -Đọc và tìm hiểu câu chuyện “Dù mưa hay nắng”.
-Phát phiếu học tập và treo bảng phụ đã chuẩn bị:

5’

PHIẾU HỌC TẬP
Khoanh vào chữ cái trước câu trả lời đúng:
1.Trong suốt thời kì kháng chiến chông thực dân Pháp, cơ
quan Bác đóng ở:
d)
Chỉ một điểm duy nhất.
e)
Hai đên ba địa điểm.

f)
Nhiều địa điểm khác nhau.
2.
Khi cơ quan Bác đóng ở xã Hợp Thành, mọi người
hay qua lại:
d)
Đèo Cổ Yểng
e)
Đèo De
f)
Đèo Nàng
3.
Khi gặp thời tiết nắng to, Bác thường nói vui:
a) Chà chán quá, trời hôm nay nắng thật gay gắt.
b) Chà, trời nắng thế này thì mệt lắm đây.
c) Chà may quá, hôm nay trời không mưa.
4.Nghe Bác nói mọi người đều so sánh với điều gì?
a) So với ngày trời nắng khác
b)So với ngày trời mưa
c) So với ngày trời râm
17


5. Khi gặp thời tiết mưa, Bác lại nói:
a) Hay thật, trời mưa đi trơn và khó quá. Các chú có vất vả
lắm không?
b) Hay thật, trời mưa to quá đi sẽ mệt lắm đây.
c) Hay thật, trời mưa đi mát quá. Các chú nhớ không, trời
nắng đi qua quãng đường này đến là mệt.


+Hoạt động các nhân: Đọc hiểu và khoanh vào chữ cái các câu
trả lời đúng ( Sách huơng dẫn)
+Thảo luận nhóm:

THẢO LUẬN NHÓM
Cá nhân

6. Những lời nói phù hợp với đối tượng và hoàn cảnh
của Bác đã có tác dụng gì?

Nhó

7. Qua câu chuyện trên, các em rút ra bài học gì?

Đại diện
nhóm

GVCN

8. Nhiều bạn có thói quen “nói tục, chửi thề” ngay
trong lớp học. Theo em, hành động này có tốt không?
9. Các tổ hãy tìm hiểu hậu quả của việc “nói tục, chửi
thề”. Qua đó, nêu các nguyên nhân, hậu quả và biện
pháp khắc phục thói quen không tốt.

9’

2’

7’


*Hoạt động 2:
-Kể lại một câu chuyện của bản thân hoặc người thân về việc sử
dụng chưa đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng và hậu quả của
lời nói, thời gian kể dành cho mỗi tổ 3 phút
*Hoạt động 3:
- Lựa chọn và chia sẻ câu chuyện của nhóm ý nghĩa nhất.
*Hoạt động 4:
-Các tổ thảo luận: Nêu cách rèn luyện để sử dụng lời nói cho
phù hợp với từng hoàn cảnh và đối tượng.
- Mời đại diện các tổ nêu ý kiến của tổ mình
18


- Mời GVCN nhận xét:
+ Nhắc lại các điều cần lưu ý khi sử dụng lời nói.
+Nêu các biểu hiện của “nói tục, chửi thề”, nguyên nhân,
hậu quả và các biện pháp khắc phục.

Ban
giám
khảo

C. TỔNG KẾT:

1’

GVCN

- Phát biểu ý kiến động viên ,nhắc nhở lớp thực hiện


- BGK công bố kết quả thi đua giữa các tổ, tuyên dương thành
tích và phát thưởng.

Tập thể - Toàn lớp hát bài “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”
lớp
V. Kết thúc hoạt động (1 phút ):
- Nhận xét chung về tình hình tham gia của lớp.
- Nhận xét đội ngũ cán bộ lớp điều khiển buổi sinh hoạt.
* ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG THEO CHỦ ĐIỂM :
Sĩ số

Tốt

32

28

Khá
4

TB
0

Yếu
0

RÚT KINH NGHIỆM, BỔ SUNG:
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................

.................................................................................................................................
2.3.3. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh: Kiềm chế sự nóng giận của
bản thân, Không đua đòi “nói tục, chửi thề” cho bằng bạn bằng bè, Cần tôn
trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, không lăng mạ, xúc phạm người
khác
Theo bà Lê Thị Minh Châu- chuyên gia về Phát triển Thanh thiếu niên của
Unicef tại Việt Nam- Người đã tham gia dự án Thúc đẩy sự phát triển của Trẻ em
và Thanh thiếu niên (2006-2010) chia sẻ: “Hiện có ít nhất 70 quốc gia đang phát
triển đưa Kĩ năng sống vào chương trình giáo dục chính khóa dưới hình thức môn
học riêng hoạc lồng ghép, tích hợp vào các môn học khác”. Nhưng tại Việt Nam,
các lớp Kĩ năng sống thường chỉ được mở ở các trung tâm, các trường tại các thành
phố lớn như Hà nội, Thành phố Chí Minh, Đà Nẵng,.. Đây là một điều rất thiệt thòi
19


cho Thanh thiếu niên ở các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa. Thầy cô lên lớp chỉ
chú trọng đến những kiến thức ở nội dung chương trình là chủ yếu mà chưa chú
trọng đến những kĩ năng mà các em gặp phải và cần phải vượt qua trong thực tế
cuộc sống. Nắm bắt được nhược điểm này, tôi đã lồng ghép các nội dung giáo dục
kĩ năng sống vào các tiết Hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Ở các ngôi trường lớn, nhất là những trường cấp 2, 3 thì việc mời giáo viên
dạy kĩ năng sống trực tiếp cho học sinh ngày càng trở nên phổ biến và được khá
chú trọng. Nhưng ở các trường ở vùng sâu, vùng xa khó khăn thì không có điều
kiện về tài chính để thực hiện. Tuy nhiên, công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ.
Thầy cô giáo nào cũng có thể khai thác thông tin dạy học, và kể cả thông tin về dạy
kĩ năng sống cho học sinh mình một cách khoa học, hiệu quả và tiết kiệm chi phí
hơn. Nhiều năm gần đây, tôi quan tâm đến thầy giáo dạy kĩ năng sống Tiến sĩ
Nguyễn Thành Nhân. Cách dạy của thầy đơn giản, dễ hiểu, các tình huống gần gũi
với thực tế, phù hợp với tâm sinh lí của học sinh cấp 2, cấp 3. Nhiều bài nói
chuyện của thầy ở các trường có đến hàng trăm ngàn lượt tải, hàng triệu lượt người

xem. Đây chính là nguồn tài liệu quý giá và hoàn toàn miễn phí cho thấy cô để dạy
kĩ năng sống cho học sinh, trong đó có kĩ năng hạn chế nói tục, chửi thề.
Link một số bài dạy kĩ năng sống của thầy Nguyễn Thành Nhân- Trung tâm
giáo dục Kĩ năng sống ATY
Chủ đề: Xin Ba mẹ hãy lắng nghe con
/>redir_token=Z1pUSOdrM55o35DVO41HEhWFKiF8MTU0MzIyODczM0AxNT
QzMTQyMzMz&v=np-ffZIaURw&q=http%3A%2F%2Fbit.ly
%2Flhbentertainment&event=video_description
Chủ đề: Tôi là người hiếu thảo
/>t=5
Chủ đề: Hãy biết ơn cha mẹ, thầy cô
/>t=17
Chủ đề:Bạn có thể từ bỏ nhiều thứ nhưng lòng biết ơn nên giữ lại
/>t=1
Chủ đề: Xin quý trọng những gì mình đang có
/>t=1
Chủ đề: Ráng thêm chút nữa
/>t=103
20


Chủ đề: Trên thế gian có hai loại người: Người gục xuống và người đứng lên
/>t=9

Hình 1. Thầy Nguyễn Thành Nhân tại buổi dạy kĩ năng sống tại Bà Rịa-Vũng Tàu
Ngoài ra, giáo viên chủ nhiệm còn có thể giáo dục kĩ năng sống bằng lồng
ghép vào các tiết NGLL
2.3.3.1. Kiềm chế sự nóng giận của bản thân
Hều hết trẻ em nói tục, chửi thề khi trẻ bực tực, khi cơn nóng giận của bản
thân lên đỉnh điểm khiến trẻ khó kiềm chế. Nói tục, chửi thể trong lúc này giúp cho

trẻ cảm thấy đỡ bức rức, để giải tỏa một vấn đề nào đó mà mình đang giận.
Trong thực tế ở trường THCS, theo kinh nghiệm quan sát và phân tích dưới
vai trò là người giáo viên chủ nhiệm lớp, tôi thấy răng: Nhiều cuộc gây gỗ đánh
nhau đều có liên quan đến sự nóng giận, thiếu kế các em. Đầu tiên là cãi nhau, tiếp
đến là nói tục, chửi thể và cuối cùng vấn đề được giải quyết bằng gây gổ, đánh
nhau. Kĩ năng giúp các em kiềm chế sự nóng giận của bản thân hiện là cực kì cần
thiết. Mục tiêu đưa ra là giúp các em có kĩ năng giải quyết các tranh chấp bằng
phương pháp hòa bình, khi nóng giận các em có thể giải tỏa bằng cách thay nói tục
chửi thề bằng các câu nói: “Mình tức quá!...”, “Thật không công bằng!”, “Mình
không nghĩ như vậy”, “Mình suy nghĩ khác bạn”, “Bạn chưa đúng”,…Ngoài ra,
cần chú ý đến những em nghiện các game bạo lực, giáo dục các em kĩ năng thoát
khỏi các suy nghĩ tiêu cực, không giải quyết vấn đề bằng “nắm đấm”.
21


2.3.3.2. Không đua đòi “nói tục, chửi thề” cho bằng bạn bằng bè
Hiện nay, giới trẻ rất đua đòi về nhiều mặc như: ăn diện quần áo, tóc tai,
phương tiện đi học,… thậm chí nhiều em suy nghĩ bạn có thứ gì thì mình phải có
thứ đó cho bằng được bạn bè. Trong đó có lời nói hàng ngày. Bạn mình vằn tục,
chửi thề để thể hiện đẳng cấp “đàn anh” trong lớp thì mình cũng đua đòi cho bằng
nó. Từ một vài các nhân, nói tục chửi thề trở thành một hiện tượng tràn lan trong
lứa tuổi học sinh. Dần dần sẽ hình thành thói quen nói tục, chửi thề một cách vô tội
mà mà các em không ý thức được tác hại của việc này, khi điều chỉnh ngôn ngữ
giao tiếp của mình.
Mục tiêu giáo dục kĩ năng sống cho các em là không đua đòi “Nói tục chửi
thề”, giúp cho các em nhận ra “nói tục, chửi thề”không làm nên đẳng cấp của một
con ngươi, ngược lại còn thể hiện là một người vô văn hóa, suy đồi về nhân cách
và đạo đức, là người rất kém cỏi trong kĩ năng giao tiếp. Nói tục chửi thề sẽ làm
cho người khác xa lánh, ghê tởm như căn bệnh.
2.3.3.3. Cần tôn trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, không lăng

mạ, xúc phạm người khác
Danh dự nhân phẩm củ bản thân cần được người khác tôn trọng, để được
người khác tôn trọng, trươc tiên bản thân phải tôn trọng danh dự, nhân phẩm của
người khác. Tuy nhiên,n hiều em khi nóng giận có thói quen dùng lời lẽ thô tục để
xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác để thỏa cơn tức giận mà không hiểu
rằng dùng từ ngữ thô tục để lăng mạ, sỉ nhục người khác là làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến danh dự, lòng tự trọng của người khác và còn vi phạm pháp luật. Nếu
việc này lặp đi lặp lại nhiều lần, người xúc phạm có tâm lí ức chế, bực bội từ đó sẽ
khó kiểm soát được bản thân, có những hành động tức thời gây ra hậu quả nghiêm
trọng. Trong thực tế, có nhiều vụ bạo lực học đường gây ra hậu quả vô cùng đáng
tiếc xuất phát từ một lời nói tục, một câu chửi thề.
2.3.4. Phối hợp giữa nhà trường và gia đình, đưa nội dung giáo dục học
sinh hạn chế nói tục, chửi thề vào nội dung các cuộc họp Phụ huynh học sinh
cấp lớp
Trong các cuộc họp Phụ huynh học sinh, tôi đều lồng ghép “Một số biện
pháp hạn chế nói tục, chửi thề” cùng với những nội dung khác và xem đây là một
trong những nội dung quan trọng. Qua đó như đó là một lời nhắc nhở cho phụ
huynh hạn chế nói tục, chửi thề trong gia đình, nhất là những gia đình làm nghề
buôn bán tự do và làm nghề đi biển, nhắc nhở phụ huynh luôn cẩn trọng trong lời
ăn tiếng nói, giao tiếp hàng là tấm gương sáng trong giao tiếp và ứng xử cho con
em noi theo, cũng như quản lí con mình trong việc tiếp cận có chọn lọc các thông
tin, các nguồn giải trí từ công nghệ thông tin. Đồng thời cũng nhắc nhở phụ huynh
chú ý uốn nắn việc sử dụng ngôn ngữ đúng chuẩn mực trong giao tiếp của con
mình khi phát hiện con mình nói tục, chửi thề.Với cách này, chúng ta mang lại kết
quả trong việc chống lại “nói tục, trong gia đình” ở lứa tuổi học đường, cũng như
hạn chế nguyên nhân tác động đến các em.
22


2.3.4. Giáo dục các em bảo vệ cơ sở vật chất trong lớp, trong lớp

Bàn học, ghế ngồi, tường nhà xe, … là những nơi mà học sinh ghi dấu ấn, biến
những bộ bàn ghế, những bức tường đẹp đẽ trở thành loang lổ. Những tác phẩm
“tục tĩu” được vẽ lên bàn, lên bảng, lên tường lớp học, lên nhà xe, thậm chí lên
bảng tin nhà trường làm mất mỹ quang, thậm chí gây phản cảm cho người nhìn.
Đây là thói quen cần phải từ bỏ. Nguyên nhân là vì tiết học quá chán, vẽ để giải
khuây; bị điểm kém nên viết để giải tỏa tâm lí; thấy bạn vẽ xong, nhiều bạn khác
chỉ trỏ, nên vẽ để khẳng định mình,…Hậu quả của hành động này không chỉ làm
cho tài sản bị hư hỏng, gây mất mỹ quang, mà còn ảnh hưởng xấu đến hình tượng
của học sinh, của ngôi trường. Nếu giáo dục được các em bảo vệ cơ sở vật chất
trong nhà trường thì sẽ hình thành một con người biết bảo vệ của công, không xâm
phạm đến tài sản của người khác, của công cộng, của quốc gia. “Gieo hành vi gặt
thói quen, gieo thói quen gặt tính cách”.Giáo dục các em hình thành “văn hóa học
đường” là định hướng cho các em con người của thời đại mới, biết bảo tồn những
giá trị lịch sử văn hóa của các công trình kiến trúc, của các di tích lịch sử quốc gia.
Vì vậy, đi đôi với giáo dục học sinh nói “không” với nói tục, chửi thề cần giáo dục
học sinh biết bảo vệ cơ sở vật chất của lớp học, của nhà trường từ bàn ghế, tường,
bảng,…Vì không ai khác, các em là chủ nhân của bàn ghế, bảng đen, các em bảo
vệ cơ sở vật chất là bảo vệ cho tài sản của mình, phục vụ cho việc học tập của
chính mình.Nhiều năm liền, tôi giáo dục cho học sinh bảo vệ cơ sở vật chất bằng
các biện pháp đơn giản nhưng hiệu quả. Đầu năm, tôi nhận lớp, nhà trường giao cơ
sở vật chất, tôi cho cán bộ lớp làm biên bản kiểm tra cơ sở vật chất trong phòng
học, kiểm tra kĩ số lượng bao nhiêu, còn sử dụng bao nhiêu, hư hỏng bao nhiêu,…
sau đó đọc trước lớp. Tiếp theo, tôi phân công cụ thể: Bàn ghế cá nhân giao cho
từng cá nhân, tường và cửa kính của lớp tôi giao cho từng tổ ngồi gần quản lí, bảng
đen, cửa ra vào tôi phân công cho lớp phó lao động quản lí, hệ thống đèn điện, quạt
giao lớp trưởng quản lí, bàn ghế giáo viên giao lớp phó đời sống quản lí, nhà xe
phân công luân phiên cho tổ trực nhật quản lí. Đặc biệt sang tác “tục tĩu” lên
tường, lên bàn ghế, nếu phát hiện hiện tượng này thì cá nhân đó chịu trách nhiệm
bồi thường lại tài sản cho lớp, cho nhà trường.


23


Hình 2. Viết vẽ bậy lên bàn học- “đặc sản” tuổi học trò
Tuy nhiên, việc này phải thực hiện kiên quyết và thường xuyên, tránh “đánh
trống bỏ dùi” làm cho học sinh “tờn mặt”, khi thực hiện lại sẽ khó khăn hơn.
2.4. Kết quả thực hiện:
Việc phát hiện, tìm hiểu nguyên nhân học sinh “nói tục, chửi thề” để từ đó
đưa ra những biện pháp giáo dục và giúp đỡ các em là rất cần thiết, không thể thiếu
trong quá trình làm công tác chủ nhiệm. Nhưng không phải chỉ đưa ra các biện
pháp khắc phục là có thể thực hiện một cách có hiệu quả. Khắc phục tình trạng trên
là một quá trình lâu dài đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, bền bỉ, không nóng
vội, bởi vì có những học sinh tiến bộ trong vài tuần, nhưng cũng có những học sinh
thì sự tiến bộ diễn ra chậm không phải vài tuần mà có khi vài tháng, thậm chí cả
một học kỳ, một năm học; nếu giáo viên không biết chờ đợi, nôn nóng thì sẽ thất
bại.
Trong quá trình làm công tác chủ nhiệm, giáo viên luôn quan sát, theo dõi
từng đối tượng học sinh ở từng tiết học, từng tuần học, từ đó phát hiện ra những lỗi
của học sinh hay mắc phải để kịp thời sửa chữa, uốn nắn. Thêm vào đó, mỗi học
sinh là một hoàn cảnh gia đình, mỗi tính cách khác nhau, chịu ảnh hưởng từ nhiều
phía khác nhau đến việc hình thành ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày. Vì vậy, GVCN
cần nắm bắt thông tin hoàn cảnh gia đình, tính cách, tâm lí của từng em thì mới có
thể giáo dục và giúp đỡ từng đối tượng hiệu quả.
Qua quá trình giáo dục và giúp đỡ học sinh có biểu hiện “nói tục, chửi thề”,
giáo viên giúp học sinh nhận thức rằng:
- Việc “nói tục, chửi thề” để lại những hậu quả và hệ lụy xấu trước hết là cho bản
thân của mình, không có lợi cho việc rèn luyện đạo đức và sự tiến bộ về mọi mặt
của chính mình, cho gia đình và sau đó cho cộng đồng, cho xã hội và đất nước. Do
24



đó chính bản thân các em cần nỗ lực cố gắng nhiều hơn tùy từng hoàn cảnh của
từng em, nhất là những em có môi trường ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày “không
lành mạnh”.
- Xã hội ngày càng hiện đại, công nghệ thông tin và mạng xã hội ngày càng phát
triển thì những mặt trái của nó tác động tiêu cực đến tâm lý ở tuổi học sinh cấp
THCS rất lớn, khiến cho các em phát triển lệch lạc trong việc sử dung ngôn ngữ,
ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách và tri thức, làm mất đi sự trong sáng của
Tiếng Việt. Nếu người giáo viên không có “tâm”, có “tầm” giúp đỡ và giáo dục các
em đến nơi đến chốn sẽ để lại những hệ lụy khôn lường cho gia đình các em và
toàn xã hội. Nên giáo dục và giúp đỡ kịp thời các em có ngôn ngữ gioa tiếp “chuẩn
mực” là điều rất cần thiết. Điều này sẽ góp phần nâng cao chất lượng hai mặt giáo
dục của lớp, trường, giảm gánh nặng về bạo lực học đường ở trường học, giảm tỉ lệ
trẻ thanh thiếu niên vi phạm pháp luật.
- Khi gặp khó khăn về vấn đề học tập và rèn luyện đạo đức của học sinh lớp mình
chủ nhiệm, nếu một mình giáo viên chủ nhiệm lớp “đơn thương độc mã” trong
công tác giáo dục và giúp đỡ các em trở lại lớp thì hiệu quả mang lại không cao.
Nhưng biết khéo léo kết hợp sự giúp đỡ từ giáo viên bộ môn, Tổng phụ trách Đội,
Ban giám hiệu nhà trường, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường phối hợp với
Phụ huynh học sinh thì sẽ mang lại hiệu quả cao hơn nhiều lần. Bản thân học sinh
khi nhận được sự giúp đỡ, quan tâm từ nhiều phía sẽ giúp các em không đơn độc,
không phải tự ti về bản thân, mặc cảm với bạn bè; cảm nhận được tình yêu thương
từ gia đình, thầy cô, bạn bè để các em thổ lộ hết những tâm tư, nguyện vọng, khó
khăn mà các em đang gặp phải, có động lực trở sửa sai và ngày càng tiến bộ.
Đề tài này không chỉ có khả năng vận dụng đối với các em thường xuyên “nói
tục, chửi thề” ở các lớp tôi chủ nhiệm mà còn có khả năng vận dụng rộng rãi cho
tất cả học sinh các lớp 6, 7, 8, 9 ở trường Tiểu học,Trung học cơ sở, Trung học thổ
thông, các Trung tâm Giáo dục Thường xuyên trên địa bàn huyện, tỉnh để góp phần
giảm tỉ lệ học sinh “nói tục chửi thề”, giảm “bạo lực học đường” , góp phần nâng
cao chất lượng hai mặt giáo dục, góp phần giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt và

bản sắc văn hóa của dân tộc.
Tóm lại, giáo viên chủ nhiệm là người hiểu rõ tình hình thành phần gia đình
từng em, tâm lí và đặc điểm bản thân của từng em, là người đại diện cho quyền lợi
chính đáng cho học sinh, bảo vệ cho học sinh về mọi mặt một cách hợp lí. Giáo
viên chủ nhiệm còn là cầu nối để phản ánh những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng
của học sinh, gia đình học sinh với Ban Giám Hiệu nhà trường, giáo viên bộ môn,
gia đình và các đoàn thể xã hội khác. Để đạt được hiệu quả của công tác chủ nhiệm
ở trường Trung học cơ sở cần có sự phối hợp tốt giữa các lực lượng giáo dục trong
và ngoài nhà trường cộng với ý thức trách nhiệm, sự khéo léo, tinh tế từ lòng yêu
thương học sinh của giáo viên chủ nhiệm.
Nhờ áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này trong từng năm làm công tác chủ
nhiệm, công việc làm chủ nhiệm lớp dễ dàng, thuận tiện hơn nhiều, gặt hái nhiều
25


kết quả khả quan. Số lượng học sinh “nói tục chửi thề” và các vụ “bạo lực học
đường” giảm đáng kể.
Làm tốt công tác chủ nhiệm nói chung, giáo dục và giúp đỡ học sinh có “nói
tục chửi thề” nói riêng sẽ tạo ra những thế hệ học sinh ngoan ngoãn, biết “nói lời
hay, làm việc tốt”, giảm bạo lực học đường, giúp các em hình nhân cách tốt, thành
đạt và có ích cho xã hội. Khi hạn chế tình trạng học sinh “nói tục, chửi thề” ở
trường Trung học cơ sở là giáo viên chủ nhiệm lớp góp phần giảm gánh nặng cho
công tác phổ cập giáo dục ở địa phương, nâng cao nhận thức của học sinh về kiến
thức, về hiểu biết pháp luật, hạn chế tệ nạn xã hội và tội phạm ở tuổi thanh thiếu
niên, góp phần đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề, nguồn lao động “vừa có đức,
vừa có tài” cho đất nước.
Tích cực hưởng ứng phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực”, cụ thể:
- Rèn luyện kĩ năng chọn lựa các nguồn giải trí lành mạnh, không dành thời
gian chơi các game online quá nhiều đến mức nghiện game, bỏ học.

- Rèn luyện kỹ năng tự nhận thức, tự đánh giá “Bản thân mình là ai?”, “Mục
đích sống và học tập là gì?” để không “đua đòi” với các bạn xấu rủ rê, lôi kéo xấu
theo, tự rèn luyện, tự vươn lên trong học tập.
- Rèn luyện cho các em tinh thần hợp tác, đoàn kết, biết san sẻ, giúp đỡ bạn
có hoàn cảnh thiệt thòi, khó khăn hơn mình, biết chung sống hòa bình để học tập
tốt, cùng xây dựng tập thể lớp tiến bộ và vững mạnh.
- Giúp các em nhận thức được động cơ học tập và rèn luyện đúng đắn, học
tập tốt, rèn luyện tốt trước hết vì lợi ích tương lai của bản thân, danh dự gia đình,
vì một xã hội phồn vinh và phát triển.
- Giúp các em không tự ti về bản thân và hoàn cảnh gia đình, học tập và rèn
luyện muốn thành công phải biết khắc phục và vượt lên trên những khó khăn, trở
ngại.
- Tăng cường mối liên hệ thường xuyên giữa cha mẹ học sinh với Ban Giám
hiệu nhà trường, Hội phụ huynh học sinh, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Đội TNTP
Hồ Chí Minh và các tổ chức khác ngoài xã hội trong việc giúp đỡ và giáo dục
những học sinh có nguy cơ bỏ học giữa chừng, nắm được những diễn biến về tâm
lí, tính cách của từng em để có biện pháp giúp đỡ và giáo dục kịp thời, có hiệu quả.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp đã phối hợp với nhà trường tuyên truyền cung cấp thông
tin, nhận thức về tác hại của việc bỏ học giữa chừng cho học sinh, gia đình học
sinh hiệu quả, thể hiện được sự quan tâm đến việc học tập của nhà trường, xã hội
với việc học tập của học sinh.
TỔNG HỢP KẾT QUẢ
BẢNG 1. Khảo sát chất lượng đầu các năm học (khi chưa áp dụng sáng kiến)
26


×