Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết nhà thờ đức bà paris của victor hugo (2016)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.42 KB, 60 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

PHẠM MINH HUẾ

KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG
TIỂU THUYẾT NHÀ THỜ ĐỨC BÀ
PARIS CỦA VICTOR HUGO

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

HÀ NỘI, 2016


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

PHẠM MINH HUẾ

KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG
TIỂU THUYẾT NHÀ THỜ ĐỨC BÀ
PARIS CỦA VICTOR HUGO

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

Hướng dẫn khoa học
ThS. ĐỖ THỊ THẠCH

HÀ NỘI, 2016




LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận tôi đã nhận được sự giúp đỡ của
các thầy cô trong khoa Ngữ văn, các thầy cô trong tổ Văn học nước ngoài trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình và quan
tâm của cô giáo ThS. Đỗ Thị Thạch. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
các thầy cô và cô giáo hướng dẫn trực tiếp đã giúp đỡ tôi hoàn thành khóa
luận này.
Trong quá trình nghiên cứu khóa luận không tránh khỏi những thiếu
sót, rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 2 tháng 5 năm 2016
Sinh viên

Phạm Minh Huế


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi trình bày trong khóa luận tốt
nghiệp này là kết quả của quá trình nghiên cứu mà bản thân tôi thực hiện dưới
sự hướng dẫn chỉ bảo của cô giáo ThS. Đỗ Thị Thạch cũng như các thầy cô
trong tổ Văn học nước ngoài, khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2. Những nghiên cứu này không hề trùng lặp với kết quả nghiên cứu của
các tác giả khác.

Hà Nội, ngày 2 tháng 5 năm 2016
Sinh viên
Phạm Minh Huế



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 3
3. Mục đích nghiên cứu.................................................................................. 5
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 5
6. Cấu trúc khóa luận ..................................................................................... 6
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
Chương 1: KHÔNG GIAN PARIS DƯỚI TẦM CHIM BAY ............................. 7
1.1. Khái niệm................................................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm không gian....................................................................... 7
1.1.2. Khái niệm không gian nghệ thuật..................................................... 8
1.2. Phân loại không gian trong nhà thờ Đức Bà Paris................................ 11
1.2.1. Phân loại theo chức năng không gian ............................................. 11
1.2.2. Phân loại theo tính chất không gian................................................ 14
1.3. Tần suất xuất hiện các không gian........................................................ 15
Chương 2: NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KHÔNG GIAN TRONG TIỂU
THUYẾT NHÀ THỜ ĐỨC BÀ PARIS............................................................ 20
2.1. Nhà thờ Đức Bà - trung tâm không gian Paris...................................... 20
2.1.1. Nhà thờ làm trung tâm có năm con đường tỏa ra ........................... 20
2.1.2. Sự xuất hiện các sự kiện xung quanh ngôi nhà thờ ........................ 21
2.1.3. Nhà thờ là linh hồn của câu chuyện................................................ 24
2.2. Không gian được lạ hóa ........................................................................ 28
2.2.1. Tái hiện lại không gian Paris thế kỉ XV ......................................... 28
2.2.2. Không gian được xây dựng bằng thủ pháp nghịch dị..................... 30
2.3. Không gian gắn với số phận từng nhân vật .......................................... 36


2.3.1. Không gian gắn với nhân vật Esmêranđa ....................................... 36

2.3.2. Không gian gắn với nhân vật Cadimôđô ........................................ 41
2.3.3. Không gian gắn với nhân vật Clôđơ Phrôlô ................................... 44
2.3.4. Không gian gắn với lũ ăn mày........................................................ 47
2.3.5. Không gian gắn với mụ tu kín Guyđuylơ ....................................... 49
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 54


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Trong thế kỉ XIX do sự nhạy cảm của thiên tài lãng mạn, do những nét
độc đáo trong sáng rất đa dạng và phong phú của mình, do trường độ sáng
tác của một người đã sống và gắn mình với cả một thế kỷ đầy biến cố, Victor
Hugo đã trở thành “hiện thân chủ nghĩa lãng mạn” là “tiếng vọng âm vang
của thời đại”” [10, tr.473].
Như một người chép sử bằng thơ, kịch, phê bình văn học, tiểu thuyết,
Victor Hugo đã có công phản ánh trung thực những bước chuyển mình vĩ đại
của lịch sử đất nước.
Thiên tài ấy đã để lại cho lịch sử văn học Pháp và thế giới một khối
lượng tác phẩm đồ sộ: trên 20 vở kịch, 10 tiểu thuyết lớn, 15 tập thơ và hàng
trăm bài chính luận, lý luận văn chương… ở thể loại nào Victor Hugo cũng
gặt hái được những thành công nhất định. Không thể phủ nhận một trong
những thể loại đưa ông tới đỉnh cao vinh quang chính là tiểu thuyết. Và khi
cuốn tiểu thuyết Nhà thờ Đức Bà Paris ra đời, lập tức tài năng viết tiểu thuyết
của Victor Hugo được công nhận. Đây là tác phẩm giả tưởng đầu tiên chứa
đựng toàn bộ cuộc sống, từ vị vua của nước Pháp cho tới những con chuột
cống ở Paris trong một bút pháp mà sau đó được Honore de Balzac, Gustave
Flaubert và rất nhiều người khác, bao gồm cả Charles Dickens, quy nạp. Sự
đón nhận rộng rãi của cuốn sách ở Pháp đã cổ động cho cuộc vận động duy trì
lịch sử còn non trẻ ở quốc gia này và cổ vũ mạnh mẽ sự phục hưng của nền

kiến trúc Gothic.
Ý đồ của tác giả được ông thể hiện ngay ở nhan đề tác phẩm, điều ấy
chứng tỏ Victor Hugo đặc biệt quan tâm đến không gian ngôi nhà thờ Đức Bà,
chính không gian nghệ thuật đã tạo sức hút lớn, lôi cuốn sự tò mò, làm tăng
giá trị cho toàn bộ tác phẩm.

1


“Tiểu thuyết của Victor Hugo, đặc biệt là Nhà thờ Đức Bà Paris và
Những người khốn khổ được bạn đọc ngày nay trên thế giới yêu thích, ít tác
phẩm có thể sánh kịp” [10, tr.494].
Hai tác phẩm này được dịch ra rất nhiều thứ tiếng để đáp ứng nhu cầu
bạn đọc trên toàn thế giới cho thấy tên tuổi của ông vẫn còn sống mãi và bất tử
cùng với những “đứa con của mình”. Mỗi tác phẩm để lại một dấu ấn riêng
biệt cho độc giả. Cho dù trải qua bao nhiêu năm, bao nhiêu chế độ, bao nhiêu
thời đại, nhưng khi đọc tác phẩm của Victor Hugo người ta vẫn thấy những
vấn đề về xã hội, về lịch sử, về con người luôn hiện lên trong mỗi trang
truyện.
Tác phẩm Nhà thờ Đức Bà Paris và Những người khốn khổ là mốc son
chói lọi đánh dấu sự thành công về mảng tiểu thuyết của Victor Hugo. Nó
chứa đựng những nội dung tư tưởng vô cùng sâu sắc vì vậy Bộ giáo dục đã
lựa chọn một phần tác phẩm để đưa vào chương trình giảng dạy trong nhà
trường THPT. Cụ thể ở chương trình lớp 11 đoạn trích Người cầm quyền khôi
phục uy quyền được trích ra trong cuốn tiểu thuyết Những người khốn khổ cho
thấy vị trí và vai trò của ông không chỉ đối với nền văn học nước Pháp mà còn
có sức ảnh hưởng tới cả nền giáo dục của nhân loại.
Cần nhận thấy rằng hiện nay trên văn đàn thế giới tên tuổi của Victor
Hugo vẫn đang tỏa sáng rực rỡ và ở Việt Nam các tác phẩm của ông được bạn
đọc biết đến khá nhiều, trong đó có một số tác phẩm được chọn hoặc trích

giảng trong chương trình ở phổ thông. Là một sinh viên Ngữ văn, một người
dạy văn tương lai nên việc tìm hiểu thân thế, sự nghiệp của các nhà thơ, nhà
văn lớn là việc làm thiết thực và có ý nghĩa; đó vừa là nhiệm vụ học tập, vừa
là nhu cầu tất yếu của chúng tôi trên con đường khám phá tri thức và qua đó
góp phần làm cho hiểu biết của mình ngày càng phong phú hơn.
Tiểu thuyết Nhà thờ Đức Bà Paris tuy không được giảng dạy trong
chương trình phổ thông nhưng việc tìm hiểu tác phẩm này sẽ giúp chúng tôi


hiểu thêm về tác giả Victor Hugo và nghệ thuật viết văn của ông để hỗ trợ cho
việc giảng dạy sau này.
2. Lịch sử vấn đề
Victor Hugo không chỉ là một nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch thuộc
chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng, một nhà chính trị, một trí thức dấn thân tiêu
biểu của thế kỷ XIX ở Pháp, mà ông còn là một họa sĩ vô cùng tài năng với
các kiệt tác để đời như: Bức tranh Mặt trời lặn (1853 - 1855) hay bức tranh
Bạch tuộc và những cái xúc tua (1866); Victor Hugo quả thực là một con
người đa tài, chính vì xuất phát ban đầu vốn là một họa sĩ nên đối với ông mọi
thứ đều được xây dựng bằng hình khối, đường nét, màu sắc, chiều sâu… điều
này được thể hiện rõ ở từng tác phẩm. Với hội họa Victor Hugo vẽ tranh bằng
màu sắc còn với văn chương ông lại vẽ tranh bằng ngôn từ nghệ thuật, chiều
sâu của bức tranh văn học được Victor Hugo hóa giải trong các không gian
nghệ thuật. Ông không để cho không gian quyết định nhân vật mà chính nhân
vật tự quyết định không gian mà mình xuất hiện, từ đó mọi hành động, tình
cảm, số phận của nhân vật đều được bộc lộ cho thấy cá tính khách quan của
mỗi nhân vật.
Với những thành tựu rực rỡ trên văn đàn thế giới, Victor Hugo cũng
như tác phẩm của ông đã thu hút bao tâm trí của các nhà phê bình trong và
ngoài nước. Ở Việt Nam sự phổ biến của Victor Hugo khá mạnh mẽ. Do đó,
những công trình nghiên cứu về tác giả và các tác phẩm của ông xuất hiện rất

nhiều điển hình như:
- Phùng Văn Tửu với “Victor Hugo” (NXB Giáo dục 1978).
- Đặng Anh Đào với “Cuộc đời và tác phẩmVictor Hugo” (NXBGD).
- Đặng Thị Hạnh, Lê Hồng Sâm với “Văn học lãng mạn và Văn học
hiện thực phê phán thế kỷ XIX” (NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp
1985).


- Minh Chính, Văn học phương tây giản yếu (NXB ĐHQG TPHCM
2002).
- Văn học phương Tây, nhiều tác giả biên soạn (NXBGD 2002).
- Lưu Đức Chung (chủ biên) với Văn học thế giới tập 2 (NXB Đại học
Sư phạm).
Đặc biệt, Victor Hugo vô cùng ưu tiên cho không gian mà ông tâm đắc,
tác giả muốn mở rộng bối cảnh của mình mà không ngại dành riêng ra một
“chương trữ tình ngoại đề mở rộng với những kích thước khác thường so với
những tiểu thuyết khác” [10, tr.501]. Phùng Văn Tửu có viết trong phần Victor
Hugo một nhà văn gần gũi với chúng ta: “Ở Hugo, sự bất hòa tuyệt vọng đối
với xã hội, ý muốn phản kháng thực tại, thể hiện từ cách chọn các khung cảnh
xa lạ về không gian, về thời gian, đến cách xây dựng những nhân vật phi
thường đậm màu sắc lý tưởng” [11, tr.71]
Bửu Nam có viết trong phần Thi pháp tiểu thuyết: “Hugo còn thay đổi
vị trí, góc nhìn của mình để tạo ra không gian của miêu tả, không gian chủ
quan của nhân vật, không gian của tường thuật gián tiếp, không gian của viễn
cảnh và cận cảnh. Mối liên hệ qua lại của các không gian tạo nên một nghệ
thuật chuyển cảnh, làm đa dạng hệ thống, giọng điệu, cho phép chuyển sự chú
ý của độc giả từ nhân vật này đến nhân vật khác, gây được nhiều cảm giác, ấn
tượng khác nhau. Việc sử dụng không gian nghệ thuật đa dạng như vậy gợi
được bầu không khí sử thi, phù hợp với bức tranh hoành tráng của nó” [11,
tr.108]

Không gian nghệ thuật cũng được Hugo chú trọng trong tác phẩm Nhà
thờ Đức Bà Paris,ông coi nhà thờ Đức Bà chính là trung tâm của thiên truyện,
Victor Hugo dành hẳn ra chương 5 chỉ để giới thiệu về lịch sử, địa lý và kiến
trúc của ngôi nhà thờ Đức Bà. Không có nhà văn nào lại đưa ý kiến cá nhân
của mình vào giữa tác phẩm như vậy, điều đó tạo nên một phong cách riêng
biệt chỉ có ở Victor Hugo.


Nhà sử học Giuyn Misơlê nhận xét vào năm 1833: “Cạnh ngôi nhà thờ
lớn cổ kính Victor Hugo xây dựng một tòa nhà thờ lớn bằng thi ca cũng vững
chắc như nền móng, ngất cao dãy tháp của tòa nhà nọ” [2, tr.6].
Chúng tôi nhận thấy hầu hết các công trình đều nghiên cứu về các đề tài
xoay quanh hình tượng nhân vật, kết cấu truyện độc đáo hay bút pháp lãng
mạn mà chưa có đề tài nào đi vào phân tích kỹ về không gian nghệ thuật. Tuy
nhiên những ý kiến trên cũng cho chúng tôi những gợi ý quan trọng để triển
khai tìm hiểu đề tài “Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức
Bà Paris của Victor Hugo”.
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận góp phần nghiên cứu một cách chuyên sâu về các không gian
và cách tổ chức không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức Bà Paris
qua đó hiểu rõ hơn phong cách nghệ thuật của tác giả.
Kết quả nghiên cứu cũng góp phần bổ sung hỗ trợ kiến thức cho việc
giảng dạy và học tập tác phẩm của tác giả Victor Hugo trong nhà trường.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Victor Hugo là nhà văn tiêu biểu của trào lưu văn học lãng mạn thế kỷ
XIX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông là một kho vô tận nguồn cảm
hứng, đề tài nghiên cứu cho những ai muốn khám phá về con người thiên tài
này. Hiện các công trình nghiên cứu về Victor Hugo cùng sự nghiệp sáng tác
của ông vô cùng phong phú. Tuy nhiên, trong phạm vi một khóa luận tốt
nghiệp và trình độ ngoại ngữ có hạn chúng tôi chỉ nghiên cứu về: Không gian

nghệ thuật trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức Bà Paris trên cơ sở xử lý các văn
bản tài liệu bằng tiếng Việt. Cụ thể: Nhị Ca (dịch) - Nhà thờ Đức Bà Paris Victor Hugo (2008), NXB Văn học.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:


- Phương pháp khảo sát, thống kê
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp so sánh
Để khóa luận đạt kết quả cao nhất, chúng tôi chủ trương sử dụng kết
hợp linh hoạt các phương pháp nói trên.
6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung khóa luận chia thành 2
chương:
Chương 1: Không gian “Paris dưới tầm chim bay”
Chương 2: Nghệ thuật tổ chức không gian trong tiểu thuyết Nhà thờ
Đức Bà Paris


NỘI DUNG
Chương 1: KHÔNG GIAN PARIS DƯỚI TẦM CHIM BAY
Trong cuốn tiểu thuyết Nhà thờ đức bà Paris, Victor Hugo đã dành hẳn
một chương mang tên “Paris dưới tầm chim bay” để miêu tả khung cảnh
Paris. Bởi vì thực chất toàn bộ không gian ở trong cuốn tiểu thuyết Nhà thờ
đức bà Paris chính là không gian Paris, nhưng không gian ấy được tác giả bao
quát từ tầm cao ngôi nhà thờ Đức Bà. Cách đặt tên một chương như đã thể
hiện điểm nhìn của Victor Hugo đối với không gian trong cuốn tiểu thuyết
này. Đó là không gian trong thành phố Paris hoa lệ lấy tiêu điểm chính là ngôi
nhà thờ. Đặc biệt, Hugo rất quan tâm đến không gian của các sự kiện trong

cuốn tiểu thuyết: không gian rộng lớn, không gian bao quát, không gian nhỏ
lẻ…
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm không gian
Theo Từ điển tiếng Việt: “Không gian là hình thức tồn tại cơ bản của
vật chất (cùng với thời gian) trong đó các vật thể có độ dài và độ lớn khác
nhau, cái nọ ở cách cái kia. Vật chất vận động trong không gian và thời
gian” [8, tr.535]
Còn theo Từ điển Việt Nam: “Không gian là khoảng mênh mông vô
hạn bao trùm vạn vật gồm có cả không gian và thời gian” [1, tr.645]
Không gian là khái niệm thuộc phạm trù triết học, là hình thức tồn tại
của vật chất. Trong cuộc sống, không có gì có thể tồn tại ngoài không gian và
thời gian. Vật chất nói chung và đặc biệt là con người nói riêng luôn luôn phải
tồn tại, thể hiện tính xác định của mình trong thế giới khắc thể bốn chiều. Đó
là ba chiều không gian và một chiều thời gian. Họ phải thích nghi với ba
chiều không gian và một chiều thời gian đó có mối quan hệ biện chứng cho
nhau. Cũng vì thế quan niệm khoa học hiện đại đã coi thời gian là chiều thứ tư


của không gian. Không gian là một đại lượng để xác định quá trình tồn tại,
vận động và phát hiển của mọi sự vật, mọi sự việc trong thế giới tự nhiên.
Không gian là hình thức tồn tại cơ bản của thế giới vật chất. Ở trong đó, các
vật có thể có kích thước, độ dài và độ lớn khác nhau, cái nọ ở cạnh cái kia.
Con người có thể nhìn ngắm, đo đạc, thậm chí sờ mó không gian một cách
trực tiếp, có thể cảm nhận được một cách cụ thể, chân thực bằng trực giác.
Tuy nhiên, đó chưa hẳn là không gian nghệ thuật mà chỉ là không gian cụ thể,
không gian vật chất.
1.1.2 Khái niệm không gian nghệ thuật
Nhắc đến không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học là nói về một
vấn đề có nhiều tranh cãi, nhiều quan niệm khác nhau. Tuy nhiên các quan

điểm đều gặp gỡ nhau trong quan niệm cho rằng: Không gian nghệ thuật
không đồng nhất với không gian hiện thực. Đó là mô hình nghệ thuật về cái
thế giới mà con người đang sống, đang cảm thấy vị trí, số phận của mình
trong không gian đó. Không gian nghệ thuật là một yếu tố quan trọng thuộc
hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, là phạm trụ thuộc hình thức nghệ
thuật. Tuy nhiên, điều đặc biệt ở chỗ, không gian nghệ thuật là hình thức
mang tính nội dung.
Không gian nghệ thuật có những đặc điểm riêng của nó: trong nghệ
thuật, sự miêu tả, trần thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn diễn ra
một trường nhìn nhất định. Qua đó, thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ
toàn bộ quản tính của nó: cái này bên cạnh cái kia, liên tục - cách quãng, cao thấp, xa - gần, rộng - dài… tạo thành một viễn cảnh nghệ thuật.
Lốt man.I.U cho rằng: “Việc chú ý đến vấn đề không gian nghệ thuật
là hệ quả của những quan niệm coi tác phẩm như một trong những không
gian được khu biệt theo một cách nào đó, phản ảnh trong cái hữu hạn của
mình một đối tượng vô hạn - là thế giới ngoài tác phẩm” [9, tr.376].


Trong Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán lại cho rằng: “Không gian
nghệ thuật gắn liền với cảm thụ về không gian nên mang tính chủ quan”[6,
160]. Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm
biểu hiện con người và biểu hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống. Do
đó, không thể quy không gian nghệ thuật về sự phản ánh giản đơn không gian
địa lý hay không gian vật chất. Trong nghệ thuật (cụ thể là tác phẩm văn học),
ngoài không gian vật thể còn có không gian tâm tưởng.
Không gian nghệ thuật là một hiện tượng khép kín như không gian trò
chơi nằm trong quy ước chung giữa tác giả và người đọc, do tác giả đề xuất
và người đọc đồng cảm.
Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học có tác dụng mô hình hóa
các mối liên hệ của bức tranh thế giới như: tôn giáo, xã hội, đạo đức, luật
pháp… Không gian nghệ thuật có thể mang tính địa điểm, tính phân giới, tính

cản trở… Không gian nghệ thuật cho thấy cấu trúc bên trong của tác phẩm văn
học, các ngôn ngữ tượng trưng, quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của
tác giả hay một giai đoạn văn học, nó cung cấp cơ sở khách quan để khám phá
tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các hình tượng nghệ thuật.
Ở cuốn Dẫn luận thi pháp học, GS. Trần Đình Sử cũng đã bàn về
không gian nghệ thuật trong tác phẩm như sau: “Không gian nghệ thuật trong
văn học là hình tượng nghệ thuật, không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại
của thế giới nghệ thuật, không có hình tượng nghệ thuật nào không có không
gian, không có nhân vật nào không có một nền cảnh nào đó. Bản thân người
kể chuyện hay nhà thơ trữ tình cũng nhìn sự vật trong khoảng cách góc nhìn
nhất định”. [12, tr.88]
Thế giới không gian nghệ thuật có thể chia thành các tiểu không gian,
giữa các tiểu không gian có những đường ranh giới có thể hoặc không thể
vượt qua. Đó có thể là không gian điểm (địa điểm), không gian tuyến hoặc
không gian mặt phẳng…


Không gian điểm được xác định bằng các giới hạn và các tính chất,
chức năng của nó. Chẳng hạn như: không gian quảng trường có tính chất công
cộng, không gian bãi chiến trường là là nơi chiến đấu, không gian ngôi nhà là
nơi diễn ra cá nhân sinh hoạt riêng tư…
Không gian tuyến, không gian mặt phẳng lại có thể vươn ra chiều rộng
hoặc chiều thẳng đứng; không gian tuyến có thể hướng theo chiều dài như
không gian con đường sáng tác của các tác giả.
Lại có thể phân chia không gian nghệ thuật thành không gian hành
động và không gian phi hành động (không gian diễn ra hoạt động của con
người và không gian trữ tình). Chẳng hạn như trên sân khấu là nơi diễn ra
hành động còn sau sân khấu là không gian phi hành động.
Xét trong mối quan hệ với thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật
có sự tương quan chặt chẽ với thời gian nghệ thuật. Khi tác giả dừng lại để

khắc họa không gian, thời gian bị hãm lại hoặc triệt tiêu. Người ta có thể
không gian hóa thời gian bằng cách miêu tả các sự kiện, biến đổi theo trật tự
liên tưởng cái này đặt bên cạnh cái kia. Có thể xem không gian nghệ thuật
trong tác phẩm như một hệ thống mà không gian nhân vật là một yếu tố.
Nhìn chung, không gian nghệ thuật không phải là không gian hiện
thực,vật lý mà là hình tượng không gian, là hình thức tồn tại của hình
tượng con người đang sống, đang cảm thấy vị trí và số phận của mình.
Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của sự sống con người, gắn liền
với ý niệm về giá trịvà sự cảm nhận về giới hạn giá trị của con người. Nó
được coi là không quyển tinh thần bao bọc cảm thức con người, là một hiện
tượng tâm linh nội cảm chứ không phải là một hiện tượng địa lý hay vật lý.
Không gian nghệ thuật gắn với quan niệm về con người và góp phần biểu
hiện cho quan niệm ấy.
Tóm lại, không gian nghệ thuật là mô hình không gian của thế giới
nghệ thuật. Sự đối lập và liên hệ của các yếu tố không gian, các miền phương


vị: cao - thấp, xa - gần, các chiều: sâu - cao - rộng… tạo thành các ngôn ngữ
nghệ thuật để biểu hiện thế giới quan niệm của tác phẩm. Sự lặp lại của các
hình thức không gian tạo thành tính loại hình của không gian nghệ thuật.
1.2. Phân loại không gian trong nhà thờ Đức Bà Paris
1.2.1. Phân loại theo chức năng không gian
Không gian xuất hiện trong tác phẩm không phải là không gian tự
nhiên, cũng không phải là không gian vũ trụ mà không gian ở đây gắn với các
công trình kiến trúc xây dựng. Vì đó là các công trình kiến trúc và gắn với
sinh hoạt của con người nên chúng tôi chia các không gian theo chức năng
của chúng bởi mỗi công trình kiến trúc được xây dựng lên đều chứa đựng
những ý đồ nhất định: quảng trường là nơi tụ họp, căn phòng là nơi để ở, đại
sảnh là nơi diễn ra các sự kiện lớn… Mỗi không gian lại có một mục đích,
chức năng riêng tạo nên nhiều màu sắc cho tác phẩm. Dựa vào chức năng của

từng không gian, chúng tôi phân loại ra làm năm không gian chính: không
gian công cộng, không gian sinh hoạt, không gian pháp luật, không gian tôn
giáo và không gian quán xá.
Không gian công cộng xuất hiện rất nhiều qua: quảng trường Grevơ,
đường phố, trên phố sân nhà thờ. Dường như các sự kiện liên quan tới
Esmêranđa và Phêbuyt đều diễn ra ở không gian này, cũng có thể thấy tiêu
điểm ở đây chính là quảng trường. Tác giả dành riêng ra chương hai trong
quyển hai chỉ để miêu tả về không gian ở quảng trường và hình ảnh sắc nét
nhất hiện giữa quảng trường chính là giảo đài treo cổ, giảo đài này đã chứng
kiến vô vàn những đau khổ, bi thương, những giọt nước mắt, giữa sự sống và
cái chết mong manh hơn bao giờ hết. Đặc biệt, nhân vật Esmêranđa phải chịu
tới hai lần đứng ở đó, lần thứ nhất cô may mắn được Cadimôđô cứu thoát
nhưng cuộc đời cô dường như đã được an bài, không thể chạy thoát khỏi pháp
luật mà cuối cùng Esmêranđa đã phải đón nhận cái chết “Ngay từ hồi đó,


quảng trường Gervơ đã mang vẻ rung rợn mà đến nay nó vẫn còn giữ được,
do ý nghĩ đáng ghét tự gợi nên và do Tòa đô chính u ám của Dominique
Boccador, đã thay thế cho Nhà cột. Phải nói một đài treo cổ và một giàn bêu
tù thường trực, mà thời đó người ta hay gọi là cái cân và cái thang,được
dựng cạnh nhau, ngay giữa lòng đường lát đá, đã góp phần không nhỏ khiến
mọi người không thèm nhìn vào cái bãi tàn khốc đó, nơi bao kẻ tràn đầy sức
khỏe và sinh lực đã từng hấp hối; nơi năm mươi năm sau lại nảy sinh cơn sốt
Saint Vallier, cái bệnh khủng bố bằng xử giảo, ghê tởm nhất trong mọi thứ
bệnh, vì không phải do Chúa mà chính do con người gây ra” [2,tr.70].
Không gian sinh hoạt, các căn phòng chính là điểm nhấn cho loại không
gian này mang những đặc trưng riêng biệt. Căn phòng tân hôn của Gringoa và
Esmêranđa được miêu tả trong chương bảy của quyển hai “Lát sau, nhà
thơ của chúng ta đã ở trong một căn phòng mái khum hình cung nhọn,
thật kín đáo, thật ấm áp, chàng ngồi trước bàn, không mong gì hơn là được

vay tạm vài món ở chạm thức ăn treo gần đó. Chàng thấy hiện lên trong
tương lai chiếc giường êm ái và được đối diện với cô gái đẹp” [2, tr.106] Căn
phòng này tuy chỉ xuất hiện duy nhất một lần trong cả thiên truyện nhưng
đó là dấu mốc khẳng định trái tim lương thiện của Esmêranđa, mặc dù căn
phòng này chỉ là vỏ bọc để giúp cho Gringoa thoát khỏi cái chết nhưng khiến
hắn bắt đầu thấy rung động thật sự trước vẻ đẹp và tâm hồn tinh tế của
Esmêranđa. Hắn tiếc nuối vì không được ở trong căn phòng tân hôn theo đúng
nghĩa của nó “Nhưng quả đây là đêm tân hôn kì lạ. Thật đáng tiếc. Vụ hôn
nhân theo kiểu đập vỡ vò này đúng là có vẻ thơ ngây và cổ lỗ làm mình đâm
ra thích thú” [2, tr.116].
Cung điện thần kì cũng được xếp vào kiểu không gian sinh hoạt. tên địa
điểm vô cùng mỹ miều nhưng nó lại không hề lung linh, kì ảo như tên gọi. Ẩn
trong đó là nơi trú ngụ của những kẻ ăn mày “thật đúng là một thế giới mới,
xa lạ, khác thường cổ quái, lê lết, nhung nhúc, kì dị” [2, tr.92].


Hay như không gian pháp luật xuất hiện chủ yếu ở kiểu không gian này
là những căn phòng, căn hầm: phòng đại hình, phòng tra khảo, phòng giam,
tòa Baxtiơ, hầm chứa xác Mông Phô Công. Những không gian xuất hiện bó
hẹp, tù túng khiến con người ta thấy ngột thở, nặng nề. Phòng đại hình thực
chất ra là căn hầm bắt những kẻ tội nhận cố chấp không nhận tội nhưng nó đã
biến thành nơi ép người vô tội phải nhận tội. Trái ngược hoàn toàn giữa tên
gọi và giá trị thực, cho tới căn hầm chứa xác Mông Phô Công vốn dĩ nghe tên
cũng không ai muốn tới nhưng nó lại khiến cho một tên gù chột mắt như
Cadimôđô được hưởng một chút hạnh phúc trước khi lìa xa cuộc đời này với
người con gái hắn vô cùng yêu thương.
Bảng 1: Phân loại không gian theo chức năng
Không gian

Không gian sinh


Không gian

Không gian

Không gian

công cộng

hoạt

pháp luật

tôn giáo

quán xá

1, Quảng

1, Căn phòng tân

1, Phòng đại

1, Gian đại

1, Quán

trường

hôn của Gringoa


hình

sảnh

rượu Quả

Grevơ

và Esmêranđa

2, Đường

2, Căn phòng

2, Hầm tra

Xanh tơ Mác tơn

khảo

phố

táo bà Eva
2, Nhà thờ
Đức Bà

(Phêbuyt gặp
Esmêranđa)
3, Trên phố


3, Nhà mụ

sân nhà thờ

Pha luốc đen

3, Hầm giam

Chuột

Đức Bà
4,Cung điện Thần

3, Hang

4,Tòa Baxtiơ

Kỳ
5, Hầm chứa
xác Mông phô
công


1.2. 2. Phân loại theo tính chất không gian
Không gian xuất hiện trong Nhà thờ Đức Bà Paristoàn bộ thuộc không
gian kiến trúc nhưng sẽ thấy có hai loại kiến trúc khác nhau: không gian khép
kín và không gian mở gắn với từng đặc tính.
Không gian khép kín bao gồm toàn bộ những không gian nhỏ như căn
phòng (căn phòng tân hôn của Esmêranđa và Gringoa, phòng đại hình, Hang

Chuột, tòa Baxtiơ…), căn hầm (hầm tra khảo, hầm giam, hầm chứa xác Mông
Phô Công).
Đối với không gian mở như: quảng trường Grevơ, đường phố, trên phố
sân nhà thờ, gian đại sảnh; Victor Hugo đặt cho nó những cái tên dễ hiểu, đơn
giản nhất không hề thách đố người đọc, tạo ra một sự gần gũi vô cùng đời
thường. Nhưng khi nhắc đến không gian khép kín, ông lại đặt cho nó những
cái tên bí hiểm hơn: quán rượu Quả táo bà Eva, Hang Chuột, căn phòng Xanh
tơ Mác tơn, cung điện Thần Kỳ; như một sự thôi thúc trí tò mò của độc giả,
giống như đặc trưng của kiểu không gian này bởi càng khép kín lại càng thần
bí khó hiểu.
Tuy nhiên, cũng thuộc không gian khép kín nhưng những căn phòng
như: phòng xử án, phòng tra khảo, hầm giam, tòa Baxtiơ, hầm chứa xác Mông
phô công lại không được thể hiện dưới những tên gọi thần bí bởi đây là những
không gian đại diện cho luật pháp của cả một đất nước.
Không gian mở tuy chỉ xuất hiện với bốn không gian chính: Quảng
trường Grevơ, đường phố, trên phố sân nhà thờ và gian đại sảnh nhưng hầu
như các sự kiện chính đều diễn ra ở đây, đặc biệt là trên quảng trường. Đối
với các không gian thuộc không gian khép kín các sự việc xảy ra cụ thể, rõ
nét nhưng đối với không gian thuộc không gian mở thể hiện một sự bao quát
rộng lớn, những hành động không chỉ của một, hai người mà của rất nhiều
người, nhiều sự việc sảy ra một lúc tạo nên những bức tranh đa sắc diện,
chiều rộng chiều sâu được nhân đôi, mở rộng tầm nhìn cho bạn đọc.


Bảng 2: Phân loại không gian theo tính chất
Không gian khép kín

Không gian mở

1, Căn phòng tân hôn của Gringoa và 1, Quảng trường Grevơ

Esmêranđa
2, Căn phòng Xanh tơ Mác tơn

2, Đường phố

(Phêbuyt gặp Esmêranđa )
3, Nhà mụ Pha luốc đen

4, Trên phố sân nhà thờ Đức Bà

4, Cung điện Thần Kì

5, Gian đại sảnh

6, Phòng đại hình
7, Hầm tra khảo
8, Hầm giam
9, Tòa Baxtiơ
10, Hầm chưa xác Mông phô công
11, Nhà thờ Đức Bà
12, Hang Chuột
13, Quán rượu Quả táo bà Eva
1.3. Tần suất xuất hiện các không gian
Sau khi thống kê, phân loại các không gian trong tác phẩm Nhà thờ
Đức Bà Paris chúng tôi nhận thấy rằng cuốn tiểu thuyết này xuất hiện rất
nhiều những không gian lớn nhỏ khác nhau đồng thời tần suất xuất hiện cũng
khác nhau. Tuy nhiên vì quy định về dung lượng và chất lượng bài viết nên
chúng tôi chỉ chọn một số các không gian tiêu biểu nhất để đi vào phân tích;
qua đó giúp cho người đọc thấy được nội dung, tư tưởng của tác phẩm, phong
cách nghệ thuật và tài năng của Victor Hugo.



Bảng 3: Tần số xuất hiện của các không gian
Quyển
I II

III IV

V

VI VII VIII IX

X

XI Tổng

22

19

12

4

16

8

18 41 15


155

10

7

8

13

83

3

4

3

34

3

11

2

29

7


14

Các không gian
1, Nhà thờ Đức Bà
2, Quảng trường Grevơ

1 18

3

1

14

8

3, Đường phố

1 12

6

1

1

3

4, Trên phố sân nhà thờ
Đức Bà


4

5

5, Hang Chuột

6

6, Cung điện Thần Kì

1

4

7, Gian đại sảnh

9

4

1

1

5

1

10


8, Tòa Baxtiơ

9

9, Phòng xử án

1

3

10, Quán rượu Quả táo
bà Eva

1

6
4

1

13, Hầm giam
14, Căn phòng
Mác

5
4

12, Nhà mụ Pha luốc đen




9

2

11, Hầm chứa xác Mông
phô công

Xanh

11

2

2

1

4
4

3

3

1

3


tơn

(Phêbuyt gặp Esmêranđa)
15, Căn phòng tân hôn
của Gringoa và
Esmêranđa

2

2

16, Phòng tra khảo

2

2

17, Phòng đại hình

2

2

16


Mở đầu tác phẩm chính là không gian toàn cảnh Parisvào buổi sáng
thức dậy với tiếng chuông của nhà thờ như âm thanh khởi điểm để bắt đầu
những câu chuyện li kì bên trong đó “Cách đây ba trăm bốn mươi tám năm
sáu tháng mười chín ngày, dân Paris thức dậy theo tiếng chuông ầm vang

khắp nơi giữa ba lần tường thành của khu Thành Cũ, khu Đại Học, khu Phố
Mới” [2, tr.19]. Mở đầu thiên tiểu thuyết hứng khởi và tràn trề nhựa sống bao
nhiêu thì sau khi khép tác phẩm lại, lại để cho người đọc một sự nuối tiếc đến
đau lòng. Kết thúc trong một không gian tù túng và đau khổ, hầm chứa xác
Mông phô công có lẽ đã trở thành một nỗi ám ảnh, day dứt khó quên trong
trái tim của mỗi bạn đọc. Dư âm của cái chết, của tình yêu cao thượng giữa
một kẻ dị hình dành cho một cô gái thánh thiện mà đoản mệnh, tình yêu ấy
cũng chỉ có thể trở thành tro bụi “vậy người có bộ xương này đã tới đó, rồi
chết ở đó. Khi người ta định gỡ ra khỏi bộ xương nó đang ôm chặt, nó liền
tan thành bụi”. [2, tr.504]
Tác phẩm Nhà thờ Đức Bà Paris gồm mười một chương, mỗi chương
bao gồm nhiều quyển và chứa đựng những nội dung cốt yếu của từng phần.
Nhìn vào bảng thống kê thấy được sự xuất hiện của không gian nhà thờ Đức
Bà và không gian quảng trường Grevơ là hai không gian có tần suất xuất hiện
nhiều nhất. Nhà thờ Đức Bà xuất hiện tới một trăm năm mươi năm lần và thứ
hai là quảng trường Grevơ xuất hiện tám mươi ba lần. Cùng với đó có sự xuất
hiện của hai không gian khác cũng tương đối nhiều, thứ ba là không gian
đường phố xuất hiện ba mươi tư lần và thứ tư là không gian trên phố sân nhà
thờ Đức Bà xuất hiện hai mươi chín lần. Còn lại các không gian khác đều lần
lượt xuất hiện tuy không nhiều nhưng cũng để lại ấn tượng cho mỗi độc giả.
Victor Hugo đã lựa chọn hai không gian chính là nhà thờ Đức Bà điển hình
cho kiểu không gian khép kín và quảng trường Grevơ điển hình cho kiểu
không gian mở. Tuy nhiên ta dễ nhận thấy dụng ý của ông, không gian nhà

17


thờ Đức Bà chiếm số lượng cao nhất và toàn bộ không gian mà Victor Hugo
đưa vào trong tác phẩm đều tập trung xoay quanh ngôi nhà thờ, dường như
không trực tiếp khẳng định nhà thờ Đức Bà là không gian chủ đạo nhưng

bằng tài năng của mình Victor Hugo đã khéo léo để bạn đọc nhận thấy một
cách tinh tế nhất.
Tuy không gian mở bao gồm ít không gian hơn so với không gian khép
kín nhưng tần suất xuất hiện không gian mở tương đối nhiều. Các không gian
khép kín như căn phòng tân hôn của Esmêranđa và Gringoa, căn phòng Xanh
tơ Mác tơn, nhà mụ Pha luốc đen hay các căn hầm như phòng xử án, hầm
giam, hầm tra khảo hầm chứa xác Mông Phô Công chỉ xuất hiện vài ba lần
với những sự kiện quan trọng gắn với nhân vật, còn những không gian mở
như đường phố, trên phố xuân nhà thờ có tần suất xuất hiện nhiều hơn rất
nhiều so với các không gian khép kín thường chỉ xuất hiện ở một, hai chương
nhất định, các không gian mở xuất hiện dàn trải ở hầu hết tất cả các chương.
Dường như tác giả muốn nhấn mạnh sâu hơn những không gian mở, có
một điều rất đặc biệt này đều xuất hiện xung quanh ngôi nhà thờ để từ đó giúp
nổi bật lên không gian nhà thờ Đức Bà Paris.
Mỗi không gian nghệ thuật xuất hiện trong tác phẩm Nhà thờ Đức Bà
Paris lại mang những ý nghĩa khác nhau, thông qua từng không gian cũng có
thể nắm bắt được phần nào tư tưởng của tác phẩm. Dù xuất hiện nhiều hay ít,
dày đặc hay thưa thớt thì nó đều mang trong mình sứ mệnh cao cả góp phần
tạo nên nét đặc sắc cho thiên tiểu thuyết này.
*

*
*

Ở chương một chúng tôi tập trung nêu lên những không gian xuất hiện
trong thiên tiểu thuyết Nhà thờ Đức Bà Paris, có rất nhiều không gian lớn nhỏ
nhưng chúng tôi chỉ đi vào lựa chọn những không gian đặc biệt xuất hiện gắn

18



với các nhân vật chính để từ đó làm nổi bật những đặc trưng riêng biệt của
mỗi không gian. Có một điểm đặc biệt trong thơ của mình Victor Hugo chú
trọng rất nhiều tới không gian thiên nhiên, cây cỏ, sông núi, vũ trụ,… Đồng
thời so với không gian trong tác phẩm Những người khốn khổ, không gian tự
nhiên cũng chiếm ưu thế còn không gian trong Nhà thờ Đức Bà Paris lại tập
trung chủ yếu vào những công trình kiến trúc, khung cảnh thiên nhiên dường
như ít được chú ý. Tiểu thuyết Nhà thờ Đức Bà Paris tái hiện lại vô cùng sinh
động khung cảnh Paris hoa lệ, tác giả kết hợp những hình ảnh, không gian,
âm thanh, màu sắc, hòa quyện thành một bức tranh đa chiều, đa màu sắc, góc
cạnh. Paris hiện lên với nhiều khía cạnh từ lịch sử, kiến trúc cho đến thiên
nhiên cuộc sống con người. Điểm nhấn của bức tranh vĩ đại ấy chính là nhà
thờ Đức Bà - nơi khởi nguồn mọi câu chuyện vui buồn, từ đó tạo nên tính
cách, số phận của mỗi nhân vật.
Ở chương này chúng tôi chỉ đi vào khái quát chung lại những không
gian chính. Chức năng, đặc điểm, tính chất mà mỗi không gian mang lại được
thể hiện rõ ở chương 2.

19


×