Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Nhân vật trong tiểu thuyết viết về đề tài đồng tính một thế giới không có đàn bà của bùi anh tấn (2016)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (652.26 KB, 72 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

ĐẶNG THỊ THÙY
LINH

NHÂN VẬT ĐỒNG TÍNH TRONG
TIỂU THUYẾT MỘT THẾ GIỚI
KHÔNG CÓ ĐÀN BÀ CỦA BÙI ANH TẤN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lý luận văn
học

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong khoa
Ngữ văn - trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giảng dạy các
chuyên đề trong thời gian học tập tại trường, đã đóng góp ý kiến
và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và nghiên
cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên - TS. Nguyễn
Thị Kiều Anh, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành
khóa luận này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 14 tháng 02 năm 2016
Tác giả khóa luận


Đặng Thị Thùy Linh


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của TS.
Nguyễn Thị Kiều Anh. Tôi xin cam đoan rằng:
- Khóa luận này là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của tác giả.
- Những tư liệu được trích dẫn trong khóa luận là trung thực.
- Đề tài này được hoàn thành trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu tham

khảo liên quan.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 14 tháng 02 năm 2016
Tác giả khóa luận
Đặng Thị Thùy Linh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...............................................................................................
1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................
1
2. Lịch sử vấn đề....................................................................................
3
3. Mục đích nghiên cứu .........................................................................
5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................................
6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................... 6
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................... 6

7. Đóng góp của khóa luận ....................................................................
7
8. Cấu trúc của khóa luận ......................................................................
7
NỘI DUNG ........................................................................................... 8
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÂN VẬT VĂN
HỌC VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA BÙI ANH TẤN VỚI ĐỀ
TÀI ĐỒNG TÍNH.................................................................................. 8
1.1 Quan niệm chung về nhân vật văn học .............................................
8
1.1.1 Khái niệm nhân vật văn học............................................................
8
1.1.2 Các chức năng của nhân vật văn học ..............................................
8
1.1.3 Các tiêu chí phân loại nhân vật văn học ..........................................
9
1.1.3.1 Phân loại theo tầm quan trọng và vai trò của nhân vật
trong tác phẩm (xét từ góc độ kết cấu) ...................................................
9
1.1.3.2 Phân loại theo quan hệ thuận - nghịch giữa nhân vật và lí
tưởng (xét từ góc độ nội dung tư tưởng hay phẩm chất nhân vật)........... 9


1.1.3.3 Phân loại theo hình thức cấu trúc nhân vật ................................
9
1.1.3.4 Phân loại nhân vật theo thể loại ................................................
9
1.2. Vài nét về nhân vật tiểu thuyết và nhân vật trong tiểu thuyết Việt
Nam


thời



mới....................................................................................... 10

đổi


1.2.1 Vài nét về nhân vật tiểu thuyết.....................................................
10
1.2.2 Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam trong thời kì đổi mới...........
11
1.3. Tác giả Bùi Anh Tấn và hành trình sáng tác với đề tài đồng tính.
12
1.3.1 Giới thuyết về “đồng tính” ..........................................................
12
1.3.1.1 “Đồng tính” trong lịch sử - xã hội .............................................
12
1.3.1.2 “Đồng tính” trong văn học nghệ thuật........................................
13
1.3.2 Bùi Anh Tấn với những sáng tác viết về đồng tính ......................
15
CHƯƠNG 2. THẾ GIỚI NHÂN VẬT ĐỒNG TÍNH TRONG TIỂU
THUYẾT “MỘT THẾ GIỚI KHÔNG CÓ ĐÀN BÀ” CỦA BÙI ANH
TẦN..................................................................................................... 17
2.1. Bảng thống kê, phân loại các nhân vật đồng tính trong tiểu
thuyết của Bùi Anh Tấn.......................................................................
17
2.1.1 Bảng thống kê, phân loại .............................................................

17
2.1.1.1 Số lượng................................................................................... 17
2.1.1.2 Thống kê, phân loại theo tiêu chí dựa vào đặc điểm nổi bật
trong cuộc đời, số phận, phẩm chất, tính cách của các nhân vật.........
17
Nhân vật bản năng, tha hóa ..................................................................
18
2.1.2. Nhận xét chung ..........................................................................
18
2.2 Các kiểu nhân vật đồng tính trong tiểu thuyết “Một thế giới không
có đàn bà” của Bùi Anh Tấn ................................................................
20
2.2.1 Nhân vật bi kịch...........................................................................
20


2.2.2 Nhân vật cô đơn...........................................................................
25
2.2.3 Nhân vật đi tìm bản thân (Truy tìm và hoài nghi bản thể) ............
28
2.2.4 Nhân vật bản năng, tha hoá..........................................................
30
CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT ĐỒNG TÍNH
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA BÙI ANH TẤN ................................. 33
3.1 Nghệ thuật miêu tả ngoại hình, hành động nhân vật.......................
33


3.1.1 Miêu tả ngoại hình nhân vật......................................................... 34
3.1.2 Miêu tả hành động nhân vật .........................................................

36
3.2 Nghệ thuật khắc hoạ tâm lí nhân vật .............................................. 39
3.3 Nghệ thuật khắc hoạ nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại và độc thoại
…………………………………………………………………………45
3.3.1 Ngôn ngữ đối thoại...................................................................... 46
3.3.2 Ngôn ngữ độc thoại nội tâm......................................................... 49
KẾT LUẬN ......................................................................................... 54
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đồng tính là một đề tài phong phú, đang là mối quan tâm của xã
hội, điện ảnh, văn học nghệ thuật. Tuy nhiên, do định kiến xã hội về
“giới thứ ba” cho nên số lượng tác phẩm văn học viết về đề tài này còn
khiêm tốn. Trên thế giới, dòng văn học đồng tính không còn mới mẻ, xa lạ
nhưng cũng chỉ có một số tác phẩm nổi tiếng, tiêu biểu - những tác phẩm
đồng tính làm say mê hàng triệu độc giả như: tiểu thuyết “Annie on my
mind” (Annie trong trái tim tôi) của nữ văn sĩ người Mỹ Nacy Garden
ra mắt bạn đọc vào tháng 7 năm 1982; tiểu thuyết “RainBow High”
(cầu vồng ở trên cao) của Alex Sancher - nhà văn Mỹ gốc Mexicô;
nhà văn Ronald L.Donaghe (người Mexico) với tiểu thuyết
“Common Sons” (những chàng trai vùng thị trấn Common)…
Ở Việt Nam, các sáng tác văn học về đề tài đồng tính xuất hiện còn
lẻ tẻ, rải rác. Chỉ có vài đầu sách của một số tác giả được nhắc đi nhắc lại
trong nhiều bài báo. Đó là: tiểu thuyết “Song song” (2007) của Vũ
Đình Giang, tự truyện “Bóng” (2008) của Nguyễn Văn Dũng do hai
nhà báo Hoàng Nguyên và Đoan Trang chấp bút; tập truyện ngắn
“Những đốm lửa trên vịnh Tây Tử” (2007) của Trang Hạ; tự truyện
“Thành phố không lạc loài” (2008) của Phạm Thành Trung được Lê Văn

Hoài ghi, “Dị bản” (2008) của Keng, … Trong đó vấn đề được đề cập còn
“dịu dàng”, kín đáo, trừu tượng hoặc có khi chỉ là câu chuyện mang tính
cá nhân riêng biệt. Nhân vật trong các sáng tác đó chưa thể đại diện
cho “giới thứ ba” nên không được những người đồng tính nồng nhiệt
đón nhận và chưa thu hút được độc giả. Chỉ đến khi cuốn tiểu thuyết “Một
thế giới không có đàn bà” của tác giả Bùi Anh Tấn ra đời, thì những
người đồng tính mới thực sự

1


tìm thấy hình ảnh, con người, tâm tư, nỗi đau của mình ở trong đó. Qua
mỗi trang viết của Bùi Anh Tấn, những người đồng tính như sống cùng các
nhân vật của anh bởi đó cũng chính là họ với “cả một thế giới nội tâm rất
phong phú, có nhiều màu sắc cả bi lẫn hài…” [11].
Bùi Anh Tấn là nhà văn công an. Anh bắt đầu sáng tác từ những
năm đầu thập niên 90 nhưng chỉ thực sự nổi tiếng từ sau cuốn tiểu
thuyết “Một thế giới không có đàn bà” (1999). Hai năm sau đó, cuốn tiểu
thuyết này đoạt liền hai giải: giải A cuộc thi tiểu thuyết và ký năm
19992002 và giải thưởng văn học 1995-2005 (Bộ công an và Hội nhà văn tổ
chức). Bùi Anh Tấn trở thành người đầu tiên trong làng văn học Việt đi
sâu vào đề tài đồng tính.
Tác giả tâm sự: “Thật ra lúc đầu tôi quan tâm đến những
người đồng tính chỉ vì không thể tưởng tượng được trong cuộc đời này lại có
những người đàn ông - đàn ông, đàn bà - đàn bà “yêu” nhau. Vậy họ
yêu nhau
như thế nào và tại sao lạ thế? Lúc đó tôi không có ý định sẽ viết hẳn
một cuốn tiểu thuyết về đề tài những người đồng tính. Nhưng sau một thời
gian tìm hiểu, từ những điều mình biết, đã nảy sinh trong tôi những
hứng thú muốn tìm hiểu sâu hơn về những con người này với tư cách người

cầm bút.
Đấy là cả một thế giới nội tâm rất phong phú, có nhiều màu sắc cả
bi lẫn hài… Hãy nhân ái hơn, tạo hoá đã quá nghiệt ngã với họ, thì
chúng ta, những con người với con người, lẽ nào lại không hiểu nổi nhau…”
[11].
Nhân vật trong cuốn tiểu thuyết viết về đồng tính của Bùi Anh
Tấn là những số phận bất hạnh. Mỗi nhân vật là một mảnh đời, một thân
phận khác nhau nhưng đều có chung nỗi đau: bị đồng tính, phải đối
mặt với những rắc rối của bản thân cũng như sức ép của dư luận. Qua
2


những trang viết của anh, có thể nhận ra một lối tư duy hết sức sắc sảo,
văn phong chặt chẽ, hấp dẫn. Bùi Anh Tấn có sở trường nắm bắt cái mới,
thời sự của cuộc

3


sống đương đại. Tiểu thuyết của anh về đề tài này thể hiện cái nhìn
nhạy bén, có nhiều phát hiện đối với hiện thực và đặc biệt mang tính nhân
văn sâu sắc. Tác phẩm của Bùi Anh Tấn chứa đựng nét độc đáo, mới lạ
của một cây bút tiềm tàng khả năng sáng tạo. Đặc biệt, thế giới nhân vật
trong tiểu thuyết đồng tính của Bùi Anh Tấn đã làm nên dấu ấn riêng cho
sáng tác của anh trong việc khám phá thế giới hiện thực nghiệt ngã về những
con người thuộc “giới thứ ba”.
Việc nghiên cứu nhân vật trong cuốn tiểu thuyết viết về đề tài
đồng tính của Bùi Anh Tấn có ý nghĩa quan trọng vừa nhằm nhìn nhận,
đánh giá những thành công về một trong những phương diện nghệ
thuật viết tiểu thuyết của tác giả vừa thấy được những đóng góp của nhà

văn ở mảng
đề tài mới mẻ này của văn học Việt Nam đương đại.
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Nhân vật
trong tiểu thuyết viết về đề tài đồng tính Một thế giới không có đàn bà
của Bùi Anh Tấn”.
2. Lịch sử vấn đề
Bùi Anh Tấn là một tác giả mới xuất hiện trên văn đàn. Bởi
vậy, nguồn tài liệu về tác giả này còn ít ỏi. Hơn nữa, với tinh thần sáng
tác có tính chất “mở” như hiện nay tất yếu sẽ có những ý kiến khen, chê
khác nhau. Trên cơ sở những hiểu biết ban đầu, chúng tôi sẽ cố gắng
chọn lọc và tiếp thu những ý kiến được xem là xác đáng, sát hợp với
những đóng góp của tiểu thuyết viết về đề tài đồng tính của Bùi Anh Tấn.
Sự độc đáo, mới lạ, mang tính thời sự trong những cuốn tiểu
thuyết viết về đề tài đồng tính của Bùi Anh Tấn trên thực tế đã được
dư luận quan tâm. Đã có nhiều bài báo, bài phê bình, cuộc trao đổi trên
các diễn đàn về những tiểu thuyết này của anh. Nhiều hơn cả vẫn là
những bài viết trên các website văn học.

4


Tác giả Ngô Thị Kim Cúc trong bài viết :“Khoảng trống khó
gọi tên” đăng trên báo Thanh Niên ngày 17 tháng 10 năm 2000 khi bàn
luận về cuốn tiểu thuyết Một thế giới không có đàn bà của Bùi Anh
Tấn đã khẳng định: “Thế giới ấy đáng được biết đến, đáng được thông
cảm hơn người ta tưởng. Trong tiểu thuyết đầu tay của mình, Bùi Anh
Tấn đã phơi bày một thực tế đang có mặt bên cạnh cuộc sống của đa
số công chúng: cuộc sống của những người sinh ra đã bị đồng tính
luyến ái. Đề tài quá mới lạ trong văn học Việt Nam và hoàn toàn không
dễ viết, chỉ cần non tay một chút có thể trở thành bất cập, còn lơi tay

một chút sẽ dễ dẫn đến thái quá. Bùi Anh Tấn đã tránh được cả hai (…).
Suốt gần 500 trang sách, người đọc được dẫn vào một thế giới thực sự lạ
lùng. Những vũ trường, nhà hàng, quán xá đang là tụ điểm sinh hoạt
của giới đồng tính. Những Hoa bóng chúa, Ngũ Long công chúa,
Quang A,.. buông thả bản năng. Nhưng cũng có những Phạm Hồng Bàng,
Lê Viễn đáng thương…” [7].
Trong bài viết: “Niềm đam mê của cây bút trẻ” của tác giả
Nguyễn Tuấn đăng trên báo An Ninh thủ đô ra ngày 3 tháng 11 năm 2000
có đoạn : “Cuốn tiểu thuyết này (Một thế giới không có đàn bà) đề cập
tới một vấn đề mà ngay cả trong văn học các nước chịu ảnh hưởng của
văn hoá phương Tây cũng “ngại” nói tới. Đó là thế giới của những
người đồng tính luyến ái tại thành phố Hồ Chí Minh. Các tuyến nhân
vật được dàn dựng hợp lí với sự tiết chế khôn khéo…” [19].
Nhà báo Nguyễn Vịnh trong bài : “Nhà văn trẻ Bùi Anh Tấn cầm
bút đã là sự phiêu lưu” (Tạp chí Đẹp, số 6, 2003) có viết: “Bùi Anh Tấn đã
bình thản đặt những bước đi của mình vào ngôi đền văn học, giành
lại cho mình một chút dư vang. Ở người đàn ông này có một cái gì đó cứ
âm trầm, da diết chảy, một cái gì đó - dù rất nhỏ nhoi nhưng sâu khuất
các ý niệm - đang cọ cựa. Tác giả như muốn chống lại sự lãng quên, như
muốn
5


thổi tung lớp bụi cũ kỹ của thời gian và bạc bẽo của nhân thế đang
bao
phủ lên từng mảng lớp của cuộc đời” [22].
Ngoài ra, tác giả khóa luận còn tham khảo một số bài viết,
phỏng vấn, giới thiệu về tác giả Bùi Anh Tấn và các tiểu thuyết đồng tính của
anh được đăng tải trên các website như:
Nhà văn Bùi Anh Tấn: Tôi đã chán chủ đề đồng tính, Bình

Nguyên (thực hiện), [cand.com].
“Tôi muốn cất lên tiếng nói của đồng tính nam”, Thu Hà (thực
hiện), [chaobuoisang.net]
Nhìn chung, qua khảo sát những ý kiến, bài viết về tác giả Bùi
Anh Tấn và các tiểu thuyết viết về đề tài đồng tính của anh, tôi nhận thấy,
mặc dù đã có những kiến giải thuyết phục về cái mới trong tiểu thuyết - đặc
biệt ở
đó vấn đề nhân vật cũng đã được tìm hiểu, đánh giá, song hầu hết các ý
kiến nhận xét, lời phê bình mới chỉ tồn tại dưới dạng một bài viết, một
cuộc trao đổi. Chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ
thống vấn đề nhân vật. Nhận ra khoảng trống đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài:
“Nhân vật đồng tính trong tiểu thuyết Một thế giới không có đàn bà của
Bùi Anh Tấn”.
Tôi hy vọng sẽ góp thêm một tiếng nói vào việc tìm hiểu, nghiên cứu
thành công của Bùi Anh Tấn ở mảng đề tài này. Những bài viết, đánh giá kể
trên sẽ là những gợi ý, tham khảo quý báu cho tôi trong quá trình thực
hiện luận văn .
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của chúng tôi khi triển khai đề tài này là
khám phá thế giới của những người đồng tính với cái nhìn nhân văn cũng
như nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo trong tiểu thuyết “Một thế giới
không có đàn bà” của tác giả Bùi Anh Tấn.
6


Đồng thời hiểu hơn về con người, tính cách cũng như tâm tư tình cảm
của những người ở “Thế giới thứ ba”.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là chỉ
ra các lọai nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết

viết về đề tài đồng tính của Bùi Anh Tấn: nghệ thuật miêu tả ngoại
hình, hành động, nghệ thuật khắc hoạ tâm lí nhân vật, ngôn ngữ nghệ thuật.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Nhân vật đồng tính trong tiểu thuyết viết về đề tài đồng tính
“Một thế giới không có đàn bà” của Bùi Anh Tấn.
- Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi tiến hành khảo sát, thống kê, phân
loại, phân tích và lí giải vấn đề trong phạm vi cuốn tiểu thuyết về đề tài
đồng tính của Bùi Anh Tấn: “Một thế giới không có đàn bà” (1999).
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, chúng tôi sử dụng đồng
thời các phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê - phân loại
Khảo sát, thống kê toàn bộ hệ thống nhân vật đồng tính trong ba
tiểu thuyết viết về đồng tính của Bùi Anh Tấn, từ đó tiến hành phân
loại nhân vật theo những tiêu chí riêng.
- Phương pháp phân tích
Tiến hành phân tích cụ thể các loại hình nhân vật chủ yếu được
xây dựng trong ba tiểu thuyết viết về đồng tính của Bùi Anh Tấn.
- Phương pháp so sánh
Tiến hành so sánh, đối chiếu giữa các nhân vật trong tiểu thuyết

7


đồng tính “ Một thế giới không có đàn bà” của Bùi Anh Tấn với nhân vật
trong một số truyện ngắn đồng tính của chính tác giả viết về đề tài này
để thấy được những sáng tạo của Bùi Anh Tấn.
7. Đóng góp của khóa luận

- Tìm ra những đặc sắc về thế giới nhân vật và nghệ thuật xây dựng
nhân vật trong tiểu thuyết viết về đề tài đồng tính của Bùi Anh Tấn.
- Đánh giá những đóng góp mới của Bùi Anh Tấn ở mảng đề tài
được xem là “hiện tượng” của văn học Việt Nam đương đại. Thông qua
đó góp phần khẳng định tài năng và vị trí của Bùi Anh Tấn trong nền
Văn học mới. Đồng thời, qua những nghiên cứu, phân tích, người đọc sẽ
có cái nhìn cảm thông, chia sẻ hơn với những người đồng tính trong xã hội.
8. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung của khóa luận chúng tôi
sẽ triển khai thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về nhân vật văn học và hành trình
sáng tác của Bùi Anh Tấn với đề tài đồng tính
Chương 2: Thế giới nhân vật đồng tính trong tiểu thuyết “Một thế
giới không có đàn bà” của Bùi Anh Tấn
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật đồng tính trong tiểu
thuyết “Một thế giới không có đàn bà” của Bùi Anh Tấn

8


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÂN VẬT VĂN HỌC
VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA BÙI ANH TẤN VỚI
ĐỀ TÀI ĐỒNG TÍNH
1.1 Quan niệm chung về nhân vật văn học
1.1.1 Khái niệm nhân vật văn học
Thuật ngữ “nhân vật” xuất hiện từ rất sớm (tiếng Hy Lạp: persona,
tiếng Anh: personage, tiếng Nga: pesonoy). Hơn hai nghìn năm trước đây,
trong tiếng Hi Lạp cổ, “persona” vốn mang nghĩa là “cái mặt nạ” một dụng

cụ biểu diễn của diễn viên trên sân khấu. Nhưng sau đó nó trở thành thuật
ngữ để chỉ nhân vật văn học.
Ngày nay, vấn đề nhân vật trong tác phẩm văn học đã được giới
nghiên cứu, phê bình đưa ra nhiều quan niệm khác nhau. Song dù có thể
được hiểu theo cách này hoặc cách khác, nhưng tựu chung lại, các ý kiến vẫn
cơ bản gặp nhau trong sự khẳng định: Nhân vật là đối tượng mà văn học
miêu tả, thể hiện bằng phương tiện văn học. Đó là những con người hoặc
con vật, sự vật, đồ vật, hiện tượng mang linh hồn con người, là hình ảnh
gần gũi của con người. Đó là đối tượng mang tính ước lệ và có cách điệu
so với đời sống hiện thực bởi nó đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan
của nhà văn.
1.1.2 Các chức năng của nhân vật văn học
Thứ nhất, nhân vật trong tác phẩm văn học có chức năng khái quát
các loại tính cách xã hội.
Thứ hai, ngoài chức năng khái quát các loại tính cách xã hội, nhân
vật văn học còn có chức năng tương tự “chức năng của một chiếc chìa

9


khoá”, giúp nhà văn mở một cánh của bước vào hiện thực rộng lớn, tiếp cận
những đề tài chủ đề mới mẻ.
Thứ ba, nhân vật văn học có chức năng biểu hiện quan niệm nghệ thuật
của nhà văn về thế giới và con người.
Một chức năng khác của nhân vật trong tác phẩm là chức năng tạo nên
mối liên kết giữa các sự kiện trong tác phẩm và cốt truyện.
Như vậy, nhân vật văn học có nhiều chức năng tương ứng với nhiều
vai trò khác nhau trong tác phẩm. Hiểu được đúng đắn chức năng của
nhân vật văn học, người viết có thêm cơ sở lý luận để nghiên cứu đề tài
này.

1.1.3 Các tiêu chí phân loại nhân vật văn học
1.1.3.1 Phân loại theo tầm quan trọng và vai trò của nhân vật trong
tác phẩm (xét từ góc độ kết cấu)
Xem xét vai trò và vị trí của nhân vật trong tác phẩm văn học có thể
chia thành: nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm.
1.1.3.2 Phân loại theo quan hệ thuận - nghịch giữa nhân vật và lí tưởng
(xét từ góc độ nội dung tư tưởng hay phẩm chất nhân vật)
Có thể chia ra làm nhân vật chính diện (nhân vật tích cực) và nhân
vật phản diện (nhân vật tiêu cực)
1.1.3.3 Phân loại theo hình thức cấu trúc nhân vật
Với tiêu chí phân loại này, theo gợi ý của E.M. Forster trong
cuốn “Diện mạo tiểu thuyết” (1927), có thể nói tới nhân vật dẹt, nhân vật
tròn. Ngoài ra còn có thể nhắc tới nhân vật tư tưởng, nhân vật tâm lý.
1.1.3.4 Phân loại nhân vật theo thể loại
Có thể phân thành: nhân vật tự sự, nhân vật kịch, nhân vật trữ tình.
Trên đây là các loại nhân vật thường gặp. Trong văn học còn có thể
gặp một số kiểu loại nhân vật khác nữa. Sự phân loại trên đây chỉ có tính

10


chất tương đối vì trong loại này có thể bao hàm một số yếu tố của loại kia
và ngược lại. Không có gì khó hiểu khi ta thấy một nhân vật cụ thể nào
đó có mặt trong nhiều “danh sách” khác nhau. Thực tế ấy đòi hỏi
việc
nghiên cứu nhân vật phải tránh sự cứng nhắc, tuyệt đối
hoá.
1.2. Vài nét về nhân vật tiểu thuyết và nhân vật trong tiểu thuyết Việt
Nam
thời

mới



đổi

1.2.1 Vài nét về nhân vật tiểu
thuyết
Cũng giống như tác phẩm tự sự khác, nhân vật trong tiểu thuyết
có một vị trí vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đó là hạt nhân của
sự sáng tạo, là trọng điểm để nhà văn lí giải tất cả mọi vấn đề của xã hội.
Nhân vật tiểu thuyết được xây dựng theo những cách riêng nhằm đáp
ứng đến mức cao nhất yêu cầu nhận thức hiện thực theo cả chiều rộng và
chiều sâu của thể loại này.
Theo nhà nghiên cứu Bakhtin, nhân vật tiểu thuyết cần và phải được
phân biệt với nhân vật sử thi, nhân vật kịch, nhân vật truyện trung đại
ở những đặc trưng cơ bản sau:
Trước hết, nhân vật tiểu thuyết được thể hiện ở thì hiện tại chưa
hoàn thành, trong quá trình biến đổi, trưởng thành và chịu mọi tác
động của đời sống.
Nhân vật tiểu thuyết “không tương hợp với số phận và vị thế của
nó” bởi thực tế con người không thể hoá thân đến cùng vào cái thân xác
lịch sử - xã hội hiện hữu. Trong tiểu thuyết, tính thuần toàn của con người
biến mất. Thay vào đó, xuất hiện sự phân lập giữa con người bên ngoài và
con người bên trong. Ở nhân vật tiểu thuyết, luôn luôn tồn tại “con người bên
trong con người”.
M. Bakhtin còn khẳng định: nhân vật trong tiểu thuyết chủ yếu được
11



khám phá từ chiều sâu tâm lí.

12


1.2.2 Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam trong thời kì đổi mới
Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới, về cơ bản có
những đặc điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, nếu như nhân vật trong tiểu thuyết Việt nam trước 1975
(đặc biệt là giai đoạn 1945 - 1975) được khai khác trong tư cách công
dân đơn phiến, được nhìn nhận đánh giá theo quan điểm chính trị thì nhân
vật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới được khai thác toàn diện,
là con người đa trị, lưỡng cực với các mối quan hệ xã hội vô cùng phức tạp.
Thứ hai, nhân vật không có số phận tròn trịa như trong tiểu thuyết
truyền thống mà bị phân mảnh, đôi khi bị phá vỡ, chỉ còn những
mảnh nhỏ của tâm trạng, những khoảnh khắc của cuộc đời ngắn ngủi,
những dòng ý thức - tiềm thức - vô thức kéo dài miên man không có điểm
dừng.
Thứ ba, nhân vật không có tính cách hay số phận điển hình mà chỉ là
những con người bình thường, vô danh trong cuộc sống. Nhân vật là đủ thứ
hạng trong xã hội.
Thứ tư, nhân vật là những cá thể đời thường, những con người đang
trong quá trình hình thành về nhân cách, được thể hiện trong tất cả các mối
quan hệ xã hội, quan hệ ứng xử, thân phận, đời sống riêng của nó, với “đầy
những vết dập xoá trên thân thể và trong tâm hồn”.
Thứ năm, nghệ thuật xây dựng nhân vật tiểu thuyết có nhiều cách
tân với những thử nghiệm táo bạo. Có thể nói, ở giai đoạn lịch sử mới, các
nhà văn có những chuyển hướng trong nhận thức, tư duy về bản thể
người. Các nhà tiểu thuyết Việt Nam đã phá vỡ cái nhìn đơn phiến, tĩnh tại
để tạo ra cái nhìn phức tạp hơn và sâu sắc hơn về con người.

Tìm hiểu những biểu hiện mới của nhân vật trong tiểu thuyết Việt
Nam thời kì đổi mới, tác giả luận văn sẽ có thêm cơ sở thực tiễn để
nghiên cứu nhân vật đồng tính trong tiểu thuyết của Bùi Anh Tấn.

13


1.3. Tác giả Bùi Anh Tấn và hành trình sáng tác với đề tài đồng tính
1.3.1 Giới thuyết về “đồng tính”
1.3.1.1 “Đồng tính” trong lịch sử - xã hội
1.3.1.1.1 Khái niệm “đồng tính luyến ái”
Theo “Bách khoa toàn thư mở Wikipedia”: “Đồng tính luyến ái” hay
“đồng tính” chỉ việc hấp dẫn trên phương diện tình yêu hay tình dục
cùng giới tính với nhau trong hoàn cảnh nào đó hoặc lâu dài. Đồng tính
luyến ái cũng chỉ nhận thức của cá nhân dựa trên những hấp dẫn đó và
sự tham gia vào một cộng đồng có chung điều này (…). Đồng tính có: đồng
tính nam (gay), đồng tính nữ (lesbian).
“Gay” (từ tiếng Anh) là chỉ những người đồng tính nam. “Gay” lại
chia làm “gay kín”, “gay mở” (bóng lộ). “Gay kín” là những đồng
tính nam có nam tính, rất khó và không thể nhận biết được họ đồng tính
nếu họ không công khai. “Gay mở” là những người đồng tính nam ăn
mặc, cử chỉ như phụ nữ, họ tự coi mình là nữ giới và nhiều người đã phẫu
thuật chuyển đổi giới tính.
1.3.1.1.2 Nguyên nhân của hiện tượng “đồng tính luyến ái”
Có nhiều giả thiết về về nguyên nhân tạo nên “đồng tính luyến
ái”, trong đó, có hai nguyên nhân được xem là chủ yếu: di truyền học và quá
trình phát triển tâm lí.
1.3.1.1.3 Nguồn gốc của “đồng tính luyến ái”
Đồng tính luyến ái đã thực sự trở thành một trong những hiện
tượng quan trọng ở cả phương Đông và phương Tây.

Khi nghiên cứu lịch sử của nhân loại, các nhà khoa học rất bất ngờ
rằng đồng tính đã xuất hiện từ rất sớm (thế kỉ VI -> thế kỉ IV TCN), khi
những nền văn minh của loài người bắt đầu nhen nhúm, từ Đông sang Tây, từ
Á sang Âu.

14


Trong lịch sử Việt Nam rất hiếm có trường hợp đựơc ghi nhận mặc
dù trong thế kỷ XVI, XVII có một vài vua chúa có thê thiếp là đàn ông…
Ngoài ra, sách sử có chép rằng vua Khải Định tuy có 12 bà vợ nhưng bất
lực hoặc không thích gần đàn bà, chỉ thích đàn ông.
Như vậy, không phải bây giờ mới có đồng tính mà đồng tính đã
xuất hiện từ rất lâu. Nói bây giờ đồng tính nhiều hơn do lây lan là “oan” cho
đồng tính vì các nhà khoa học nghiên cứu được rằng luôn có một tỉ lệ
đồng tính nhất định trên tổng dân số (trung bình khoảng 5%). Chính vì
thế dân số tăng thì tỉ lệ đồng tính cũng phải tăng theo. Mặt khác, thời đại
ngày nay, công nghệ phát triển, nhận thức thoáng hơn thì nhiều người đồng
tính “công khai” hơn trước kia.
1.3.1.1.4 Quan điểm xã hội đối với hiện tượng đồng tính luyến ái
Ở Việt Nam, nhìn chung thái độ của xã hội đối với đồng tính luyến
ái là kì thị ở các mức độ khác nhau hoặc không thể hiện thái độ rõ ràng
như phớt lờ, không quan tâm. Những định kiến về đồng tính luyến ái vẫn
còn khá phổ biến trong xã hội Việt Nam. Mặc dù pháp luật không cấm
cản nhưng đề tài đồng tính luyến ái được xem là không bình thường, tránh né.
1.3.1.2 “Đồng tính” trong văn học nghệ thuật
Văn học đồng tính hiện hữu như một nhu cầu tự thân, phản ánh
cuộc sống muôn màu của những người đồng tính. Thế giới đồng tính phức
tạp nhưng lại đầy hấp dẫn. Đó cũng là nguyên nhân khiến một số nhà văn
dày công viết nên tác phẩm văn học đồng tính mới lạ, mang giá trị sâu sắc.

Những tác phẩm viết về “đồng tính” đã trở thành đề tài “nóng” trong văn
học ở các quốc gia trên thế giới, thu hút được sự chú ý của nhiều độc giả
từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây.
Tại Việt Nam, văn học đồng tính xuất hiện khá muộn so với thế
giới. Nhắc đến “đồng tính”, nhiều nhà nghiên cứu hoặc cho đó là một

15


lĩnh vực “nhạy cảm” hoặc cho đó là dung tục, tầm thường mà bỏ qua hoặc
ám chỉ.
Ngược dòng thời gian, trường hợp điển hình tiêu biểu cho sự đảo
trang trong văn học Việt Nam hẳn phải là sự tích “Quan Âm Thị Kính” và
đây cũng là khuôn mẫu cho một biến tác hiện đại khá lý thú đi đôi với
sự đảo vị giới tính trong cuốn tiểu thuyết lãng mạn “Hồn bướm mơ
tiên” (1932) của Khái Hưng giữa hai nhân vật Lan và Ngọc.
Văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX cũng đã xuất hiện một số tác phẩm
về đề tài này dù còn lẻ tẻ, rải rác, tế nhị mang tính ẩn dụ qua các hình
tượng nghệ thuật.
Nhà thơ Xuân Diệu nổi tiếng chủ yếu qua thơ tình của ông và bài
thơ “Tình trai” được xem là một trong những phát ngôn sớm nhất về tình
yêu đồng tính nam trong văn học Việt Nam hiện đại. Ngoài ra, Xuân
Diệu cũng có các bài thơ khác cũng viết về đề tài này như: “Em đi”,
“Biển”… (Bài thơ tặng mối tình trai của ông và Hoàng Cát).
Nhà thơ Huy Cận cũng có một số bài thơ “Ngủ chung” tả cảnh
ngủ chung của học trò cùng phái tính, giữa những người bạn trai với nhau
với nhiều ngôn từ, hình ảnh “không bình thường”. Có lẽ, cùng với bài
“Tình trai” của Xuân Diệu, bài “Ngủ chung” này của Huy Cận là
những bài thơ tiêu biểu cho chuyện đồng tính luyến ái ở Việt Nam.
Đến văn học đương đại, trong khoảng 15 năm trở lại đây, đề tài đồng

tính đã bắt đầu được khai khác một cách mạnh dạn. Nhiều tác giả đã chọn
đề tài gai góc này để thử bút. Có thể kể ra đây những tác phẩm tiêu biểu
như: “Một thế giới không có đàn bà” (Bùi Anh Tấn, 1999), “Les vòng tay không đàn ông” (Bùi Anh Tấn, 2004), tự truyện “Bóng” của
Nguyễn Văn Dũng (Hoàng Nguyên, Đoan Trang (ghi), 2008)…
Qua những tìm hiểu và trình bày trên đây, ta thấy, tác phẩm văn

16


học đồng tính có những nét đặc sắc, thành công và hạn chế nhưng đã
khắc hoạ được một bức tranh khá đặc biệt trong tình hình hiện tượng đồng
tính trong văn học chưa được xã hội cũng như giới học thuật ở Việt Nam
và thế giới quan tâm rộng rãi.
Thời đại càng phát triển thì tư tưởng con người càng tiến bộ và văn
học đồng tính ngày càng có nhiều không gian phát triển. Người ta sẽ bắt đầu
nhận thấy rằng, cuộc sống của chúng ta cần nhiều tác phẩm văn học thể
hiện một cách chân thực nội tâm con người. Thế giới nội tâm của những
người đồng tính rất phong phú và nếu như nhà văn dám bỏ qua những
thành kiến thế tục thì sẽ có những tác phẩm văn học đồng tính thành công.
1.3.2 Bùi Anh Tấn với những sáng tác viết về đồng
tính
Nếu nói về đề tài đồng tính trong văn học đương đại ở nước ta thì phải
ghi công đầu cho nhà văn Bùi Anh Tấn. Chỉ riêng tác giả Bùi Anh Tấn đã
có “tuyển tập đồng tính” do nhà xuất bản Trẻ phát hành gồm: “Một
thế giới không có đàn bà” (Tiểu thuyết viết về đồng tính nam), “Les vòng tay không đàn ông” (Tiểu thuyết viết về đồng tính nữ), “Phương
pháp của A.C.Kinsey” (Tiểu thuyết viết về đồng tính nam), “Không và
sắc” (Tiểu thuyết đề cập đến vấn đề dục lạc và những biểu hiện của sự
khát dục trong hàng ngũ tăng sĩ trẻ) và tuyển tập truyện ngắn “Cô
đơn”. Họ luôn phải đối mặt với những dằn vặt nội tâm: mình là ai,
mình thuộc giới tính nào? mình phải sống thế nào? mình muốn gì?...

Khi phát hiện bản thân mình là đồng tính thì hoảng loạn, đau đớn, sợ
hãi, hàng ngày phải đối mặt với cuộc sống không giống mọi người, họ lại
rơi vào bi kịch hổ thẹn , bế tắc cô đơn không giải toả được,…
Có thể nói, với những sáng tác này, Bùi Anh Tấn là nhà văn Việt
Nam đầu tiên “soi thấu” đề tài đồng tính - một vấn đề khá nhạy cảm hiện
nay. Với cái duyên của nghiệp viết về thực trạng đồng tính của xã hội, anh

17


×