Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

[BÀI 8.5 ĐIỂM] Đặc điểm của hoạt động nhận thức trong giai đoạn xét xử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.95 KB, 11 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong hoạt động tư pháp nói chung, hoạt động xét xử nói riêng, nhận thức đóng
một vai trò hết sức quan trọng. Nó là bộ phận, là một mặt hoạt động rất cơ bản, cần thiết
không thể thiếu trong hoạt động tư pháp. Nhận thức góp phần xây dựng, thúc đẩy
nhanh việc hoàn thành mục đích, nhiệm vụ của giai đoạn xét xử trong hoạt động tư
pháp. Tìm hiểu về hoạt động nhận thức trong tâm lý học giúp chúng ta hiểu được cấu
trúc, đặc điểm, vai trò của hoạt động nhận thức trong các giai đoạn của hoạt động tư
pháp nói chung và hoạt động xét xử nói riêng; từ đó giúp cho hoạt động xét xử đạt chất
lượng cao, hiệu quả tốt. Nhận thức được tầm quan trọng đó, sau đây em xin phép lựa
chọn đề bài số 9: “Đặc điểm của hoạt động nhận thức trong giai đoạn xét xử”, để được
đi sâu và làm rõ hơn về vấn đề này.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I, Một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động nhận thức trong giai đoạn xét
xử
1, Khái quát về hoạt động nhận thức trong giai đoạn xét xử
a, Khái niệm hoạt động nhận thức
Con người là thực thể sống tồn tại, hoạt động trong thế giới khách quan, con
người phải nhận thức, tỏ thái độ và hành động với thế giới ấy. Nhận thức, tình cảm và
hành động là ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con người. Trong quá trình hoạt động,
con người phải nhận thức, thông qua hoạt động nhận thức, hiện thực xung quanh và hiện
thực của bản thân được phản ánh, trên cơ sở đó con người tỏ thái độ, tình cảm và hành
động, từ đó có thể hiểu rằng: “Hoạt động nhận thức là quá trình tâm lý phản ánh hiện
thực khách quan và bản thân con người thông qua các cơ quan cảm giác và dựa trên
những hiểu biết vốn liếng kinh nghiệm đã có của bản thân”. . Việc nhận thức của con
1

người về thế giới khách quan diễn ra từ mức độ thấp đến mức độ cao, từ đơn giản đến
1 Giáo trình tâm lý học Tư pháp – Trường Đại học Luật Hà Nội.

1



phức tạp. Mức độ thấp là nhận thức cảm tính, bao gồm cảm giác và tri giác, trong đó
con người mới chỉ phản ánh những thuộc tính bên ngoài, những cái đang tác động trực
tiếp đến các cơ quan cảm giác tương ứng của con người. Mức độ cao hơn là nhận thức
lý tính, bao gồm tư duy và tưởng tượng, trong đó con người phản ánh được các thuộc
tính bản chất bên trong, những mối liên hệ và quan hệ có tính quy luật của các sự vật và
hiện tượng trong hiện thực khách quan.
Nhận thức cảm tính: là quá trình nhận thức phản ảnh những thuộc tính, những đặc
điểm bề ngoài của sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp lên các giác quan của
con người. Nhận thức cảm tính sẽ đem lại những hình ảnh cụ thể về sự vật, sự việc đang
tác động vào chúng ta. Nhờ có nhận thức cảm tính, con người có thể nhận biết được sự
tồn tại của thế giới xung quanh. Nhận thức cảm tính bao gồm hai mức độ: cảm giác và
tri giác.
Nhận thức lý tính: là quá trình con người luôn luôn suy nghĩ, tìm kiếm và sáng
tạo( bao gồm tư duy và tưởng tượng). Bằng các thao tác của tư duy( phân tích, so sánh,
tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa), con người nhận thức được những thuộc tính
bản chất, những mối liên hệ, các quy luật của các sự vật hiện tượng. Qúa trình nhận thức
tưởng tượng sẽ giúp cho con người có thể dựa trên những kinh nghiệm, vốn sống đã có,
xây dựng và sáng tạo nên những hình ảnh, biểu tượng hoàn toàn mới, chưa từng có
trong kinh nghiệm của họ. Tư duy và tưởng tượng giúp con người khám phá được bản
chất của thế giới khách quan, không ngừng sáng tạo, làm ra những điều kỳ diệu phục vụ
cho lợi ích của mình.
Thông qua đó, có thể nhận định rằng nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, chi phối, tác động lẫn nhau và chúng
chính là cơ sở, nền tảng cho mọi hoạt động tâm lý của con người.
b, Mục đích của hoạt động nhận thức trong giai đoạn xét xử

2



Hoạt động nhận thức là bộ phận, một mặt hoạt động rất cơ bản cần thiết, không
thể thiếu được của hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử nói riêng. Bất kỳ
một chủ thể nào của hoạt động tư pháp (Điều tra viên, Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội
thẩm nhân dân…) khi tiến hành nhiệm vụ của mình đều phải sử dụng hoạt động nhận
thức. Trong hoạt động xét xử, hoạt động nhận thức còn nhằm thực hiện các mục đích
sau: Phân tích, đánh giá các chứng cứ để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án
thông qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ án và xét hỏi trực tiếp tại phiên tòa; tìm hiểu động
cơ, mục đích của người tham gia tố tụng; nắm bắt được đặc điểm tâm lý của những
người tham gia tố tụng; đưa ra cách thức, phương pháp tác động tâm lý đến những
người tham gia tố tụng;
2, Khái quát chung về hoạt động xét xử
a, Khái niệm hoạt động xét xử
Xét xử là một hoạt động đặc trưng nằm trong chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của Tòa án. Đây cũng được xem là cơ quan duy nhất của nước ta được đảm nhiệm chức
năng xét xử theo quy định của Hiến pháp 2013. Mọi bản án do các Tòa án tuyên đều
phải qua xét xử. Không một ai có thể bị buộc tội mà không thông qua hoạt động xét xử
của các tòa án và kết quả xét xử phải được công bố bằng bản án, quyết định của Tòa án
có hiệu lực thi hành.
Từ đó có thể nhận định rằng, “Hoạt động xét xử là hoạt động của các Tòa án
được tổ chức và tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định và theo một trật tự do
luật định nhằm xem xét và giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, lao động, hôn nhân, gia
đình và những vụ việc khác do pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân
dân”
b, Vai trò của hoạt động xét xử
Tòa án với tính chất là cơ quan xét xử sẽ tiến hành việc kiểm tra lại và đánh giá
một cách toàn diện, khách quan và đầy đủ các chứng cứ, các tình tiết của vụ án hình sự
3


để giải quyết về bản chất của nó - phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay không) của

hành vi, có tội (hay không có tội) của bị cáo hoặc bằng việc kiểm tra tính hợp pháp và
của bản án theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm (nếu bản án hay quyết định đã có
hiệu lực pháp luật bị kháng nghị), nhằm đạt mục đích trong toàn bộ các giai đoạn tố
tụng hình sự là tuyên một bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật một cách công minh
và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục tránh bỏ lọt tội phạm và kết án
oan người vô tội.
Xét xử là một giai đoạn tố tụng hình sự trung tâm và quan trọng để cường pháp
chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong các giai đoạn xét xử của Tòa án nói
riêng và toàn bộ hoạt động tư pháp hình sự của Nhà nước nói chung, góp phần có hiệu
quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội, cùng với các giai
đoạn tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội
phạm trong toàn xã hội.
II, Đặc điểm của hoạt động nhận thức trong giai đoạn xét xử
Thứ nhất, về mục đích: hoạt động nhận thức trong giai đoạn xét xử được tiến
hành để nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được cơ quan điều tra thu thập và kiểm tra
tính khách quan, tính hợp pháp của các thông tin đó. Để nhận thức được toàn bộ các
thông tin về vụ án, người thực hiện công tác xét xử phải tiến hành nghiên cứu hồ sơ vụ
án, có thể điều tra bổ sung , xác minh thu thập chứng cứ theo luật định và thẩm vấn
công khai các đương sự liên quan, thẩm tra các tại liệu tại phiên tòa; qua đó kiểm tra
xem xét lại các các thông tin đã được thu thập một cách khách quan, toàn diện, công
khai.
Thứ hai, về chủ thể tiến hành: hoạt động nhận thức (các thành viên Hội đồng xét
xử): Quá trình nhận thức trong hoạt động xét xử mang tính chủ động cao hơn so với một
số giai đoạn tố tụng trước. Nếu như giai đoạn điều tra, điều tra viên thu thập chứng cứ
về vụ án, thì mô hình vụ án chưa được xác định. Điều tra viên nhận thức các thông tin
về vụ án chưa có định hướng rõ ràng. Song điều kiện nhận thức của người làm công tác
4


xét xử hoàn toàn khác. Khi tiến hành nhận thức về vụ án người làm công tác xét xử đã

có được mô hình chính xác về vụ án do bên Cơ quan điều tra mô tả, Viện kiểm sát truy
tố. Do vậy, họ đã hình dung được diễn biến vụ án, các tình tiết cụ thể của vụ án. Điều
này là căn cứ giúp người làm công tác xét xử có sự định hướng trong việc xử lý các
thông tin, và ra được bản án, quyết định của Tòa án một cách chính xác, đúng người,
đúng tội.
Ví dụ: Nhắc lại vụ thảm án ở Bình Phước, rạng sáng 7-7-2015, xuất phát từ những
mâu thuẫn các nhân trước đó, Nguyễn Hải Dương và Vũ Văn Tiến đột nhập vào biệt thự
lần lượt sát hại một cách man rợ sáu người trong gia đình ông Mỹ, cướp điện thoại,
iPad, laptop, tiền mặt... trị giá khoảng 50 triệu đồng. Cả gia đình ông Mỹ chỉ riêng bé
Na (18 tháng tuổi, con út ông Mỹ) là còn sống sốt sau vụ thảm án, tất cả những người
còn lại đều bị sát hại. Ngày 17-12-2015 tại phiên tòa sơ thẩm, TAND tỉnh Bình Phước
đã căn cứ, xem xét, cân nhắc kĩ lưỡng những tình tiết phạm tội, chứng cứ phạm tội của 3
bị cáo đã được Cơ quan điều tra cung cấp, cùng với bản cáo trạng của Viện Kiểm sát,
Hội đồng xét xử đã hình dung và nhận định rằng hành vi của Dương, Tiến, Thoại là
những đối tượng đã thực hiện hành vi đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, gây ra tâm lý
hoang hoang cho dư luận với việc thực hiện tội phạm một cách man rợ, do đó Hội đồng
xét xử TAND tỉnh Bình Phước căn cứ vào những quy định của BLHS cùng với những
căn cứ tại phiên tòa đã tuyên bị cáo Dương và Tiến án tử hình, bị cáo Thoại 16 năm
tù( với vai trò là đồng phạm trong vụ án).
Thứ ba, về khối lượng thông tin mà người làm công tác xét xử phải xử lý giảm
đáng kể so với người làm công tác điều tra. Người làm công tác xét xử chỉ xử lý thông
tin có liên quan đến vụ án, còn những thông tin nằm ngoài vụ án đã được cán bộ điều tra
sàng lọc và lược bỏ. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho Hội đồng xét xử trong việc
phân tích và đánh giá thông tin. Tuy nhiên, trong một số trường hợp do sự chủ quan
trong công tác đánh giá thông tin, chứng cứ của cơ quan điều tra, Viện kiếm sát mà một
số thông tin quan trọng đã không được xem xét, loại bỏ. Hậu quả dẫn đến sự hạn chế
thông tin đối với Hội đồng xét xử, làm giảm tính chính xác trong việc đánh giá vụ án.
5



Để khắc phục hạn chế này, tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải tạo điều kiện để các
đương sự có liên quan cung cấp đầy đủ các thông tin về vụ án.
Thứ tư, nhận thức trong giai đoạn xét xử mang tính gián tiếp cao. Nếu như ở giai
đoạn điều tra vụ án, cán bộ điều tra được tiếp xúc trực tiếp với hiện trường, thấy hậu quả
phạm tội, xem xét các dấu vết còn lại trên hiện trường thì người làm công tác xét
xử nhận thức vụ án chỉ dựa vào hồ sơ của cơ quan điều tra và lời khai của đương sự.
Như vậy, các thông tin được thu thập chủ yếu thông qua mô tả của chủ thể khác, thể
hiện tính gián tiếp, cần có tư duy để xây dựng lên mô hình diễn biến toán bộ vụ án. Vì
thế, kết quả nhận thức của Hội đồng xét xử phụ thuộc rất nhiều vào tính khoa học, chi
tiết, chặt chẽ, logic của hồ sơ vụ án do cơ quan điều tra lập ra.
Thứ năm, từ quá trình nhận thức Hội đồng xét xử phải xác định được sự tương
quan giữa các tình tiết vụ án và các điều luật cụ thể được áp dụng. Nhiệm vụ của người
làm công tác xét xử là phải nhận thức chính xác tình tiết vụ án và định tội đối với bị cáo,
từ đó xác định mức hình phạt cụ thể, phù hợp. Để đưa ra bản án chuẩn xác, thuyết phục,
đòi hỏi người cán bộ xét xử phải xác định cụ thể, chi tiết sự tương quan giữa từng tình
tiết, từng dấu hiệu của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ,
xác định khung hình phạt, yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm...Bên cạnh đó,
người làm công tác xét xử phải xem xét việc áp dụng các điều luật mà Viện kiểm sát
truy tố đã phù hợp hay chưa phù hợp để đưa ra quyết định chính xác. Nếu xác định
không chính xác sự tương quan giữa hành vi phạm tội và quy định của pháp luật sẽ dẫn
tới việc định tội và mức hình phạt không chính xác, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác
xét xử.
Ví dụ: Tại phiên tòa xét xử vụ thảm sát gia đình chủ tiệm vàng Ngọc Bích xảy tại
Phố Sàn – Huyện Lục Nam - Bắc Giang, không chỉ có Lê Văn Luyện là người phải nhận
tội mà còn nhiều bị cáo khác là người thân, họ hàng của Lê Văn Luyện cũng phải nhận
tội trước vành móng ngựa do đã có hành vi bao che, giúp đỡ Luyện chạy trốn và không
khai báo hành vi phạm tội của Luyện với cơ quan chức năng. Phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án Lê Văn Luyện diễn ra rất căng thẳng, nhiều người tham gia phiên tòa và đặc biệt
6



là thân nhân người bị hại đều không đồng ý với quyết định của Hội đồng xét xử đưa ra,
họ gào thét phản kháng, đòi kháng cáo thậm chí có người khóc ngất trong phiên tòa. Với
bản chất nhân đạo của luật hình sự Việt Nam hiện hành cùng với những kinh nghiệm,
cũng như quá trình nhận thức những lời buộc tội của bên đại diện Viện kiểm sát, lời khai
của các bị cáo, lời bào chữa của bên luật sư biện hộ cho bị cáo mà Hội đồng xét xử đã
thống nhất đưa ra bản án 18 năm tù giam cho Lê Văn Luyện, các bị cáo khác cũng phải
chịu án tù giam cho hành vi phạm tội của mình. Đồng thời, gia đình Lê Văn Luyện phải
bồi thường cho bên gia đình bị hại và phải chu cấp hàng tháng cho nạn nhân 8 tuổi bị
Luyện chém đứt tay đến khi đủ 18 tuổi. Tuy bản án gây nhiều tranh cãi, bức xúc cho bên
gia đình bị hại và xã hội nhưng đã chứng tỏ việc nhận thưc đúng đắn của Hội đồng xét
xử về hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng của người chưa thành niên theo đúng quy
định của pháp luật.
Thứ sáu, hoạt động nhận thức của Hội đồng xét xử diễn ra trong sự tác động của
điều kiện ngoại cảnh. Việc xét hỏi các đương sự công khai, trực tiếp tại phiên tòa có thể
gây ra những trở ngại cho quá trình kiểm tra thông tin ở Hội đông xét xử. Những ảnh
hưởng của điều kiện ngoại cảnh phải kể đến như: Sự có mặt của nhiều người và phản
ứng của họ trong phòng xử án… sẽ có thể ảnh hưởng nhất định đến việc cung cấp lời
khai của các đương sự mà từ đó có ảnh hưởng xấu đến hoạt động nhận thức của Hội
động xét xử
Ví dụ: Ngày 08/01/2013 TAND tỉnh Nghệ An đưa ra xét xử 14 thanh niên Công
giáo và Tin Lành với tội danh “ hoạt động nhằm lật đổ chính quyền”. Tuy nhiên, tại
phiên tòa có hàng trăm người là tín đồ Công giáo và Tin lành cũng đến tham gia và có
nhiều động thái gây ảnh hưởng trực tiếp đến việc xét xử vụ án và việc đưa ra bản án của
Hội đồng xét xử.
Thứ bảy, hoạt động nhận thức của Hội đồng xét xử bị hạn chế về thời gian. Theo
quy định pháp luật tố tụng hiện hành, thời gian cho việc chuẩn bị xét xử đối với các vụ
án ít nghiêm trọng là không quá 30 ngày, đối với vụ án nghiêm trọng không quá 45
ngày, đối với vụ án rất nghiêm trọng không quá 2 tháng, đối với các vụ án đặc biệt
7



nghiêm trọng không quá 3 tháng. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình xác định
sự thật khách quan của vụ án.
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng, hoạt động nhận thức có vai trò quan
trọng, thực hiện các chức năng cơ bản trong cấu trúc tâm lý của hoạt động xét xử nói
riêng và hoạt động tư pháp nói chung.
III, Liên hệ thực tiễn vai trò của hoạt động nhận thức trong hoạt động xét xử
Xét xử vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó Tòa án có
thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án để ra bản án, quyết định tố tụng theo
quy định của pháp luật.
Trong giai đoạn xét xử, hoạt động thiết kế đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, để
thực hiện được tốt và chính xác hoạt động thiết kế trong giai đoạn này thì nhất thiết phải
có hoạt động nhận thức trước đó. Mục đích cuối cùng của giai đoạn này là ra được bản
án, quyết định đúng về vụ án đã xảy ra – đó là nhiệm vụ cơ bản của Tòa án. Nhưng hoạt
động thiết kế của Tòa án chỉ có thể diễn ra và thực hiện có kết quả khả thi sau khi đã
thực hiện đúng yêu cầu của hoạt động nhận thức trên cơ sở kiểm tra, đánh giá chứng cứ,
tài liệu đã thu thập được trong hồ sơ vụ án của cơ quan điều tra chuyển sang. Do đó,
hoạt động nhận thức trong giai đoạn xét xử của Tòa án có nhiều khác biệt so với hoạt
động nhận thức ở giai đoạn điều tra (hoạt động trọng tâm của giai đoạn điều tra). Để
thực hiện hoạt động thiết kế dễ dàng và có kết quả đúng đắn thì các thông tin cần thiết
phải được thu thập đầy đủ và chính xác từ giai đoạn điều tra. Bởi vì, tài liệu điều tra sẽ
giúp Tòa án dễ dàng xác định được mô hình vụ án và hành vi phạm tội và mối quan hệ
giữa chúng. Trên cơ sở của hoạt động điều tra thu thập chứng cứ và tìm kiếm những
thông tin cần thiết, Tòa án có thể chọn lọc và hệ thống hóa thông tin, từ đó, nhận thức về
các tình tiết của vụ án, các tình tiết liên quan đến vụ án dễ dàng hơn. Bởi vì, tất cả thông
tin về vụ án, mô hình vụ án được thể hiện rõ ràng, cụ thể trong hồ sơ điều tra của cơ
quan điều tra, qua nghiên cứu hồ sơ đó sẽ giúp cho Tòa án có cách nhìn toàn diện về vụ
án. Tuy nhiên, kết luận về tài liệu của cơ quan điều tra chỉ mang tính sơ bộ. Do đó, Tòa
án phải nghiên cứu và kiểm tra lại hồ sơ trước đó. Xét hỏi về các tình tiết của vụ án là

8


giai đoạn trung tâm của hoạt động xét xử, là giai đoạn quan trọng nhất, giai đoạn độc lập
trong hoạt động xét xử để nhằm xác minh sự thật của vụ án đây được xem là yếu tố tìm
kiếm của hoạt động nhận thức.
Ví dụ: Ngày 21/05/2010 Cơ quan CSĐT công an Thành phố Hà Nội tiến hành
khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Đức Nghĩa với tội danh “giết người và
cướp tài sản”, một vụ án gây chấn động dư luận trong nước vào năm 2010. Sau khi
nhận được hồ sơ vụ án và yêu cầu truy tố đối với Nguyễn Đức Nghĩa, Viện Kiểm sát
nhân dân TP. Hà Nội cũng đưa ra căn cứ và nhận định, lập luận rằng Nguyễn Đức Nghĩa
đã phạm phải hai tội danh trên và từ đó ra quyết định truy tố Nguyễn Đức Nghĩa với hai
tội danh trên. Khi tiến hành xét xử vụ án, thông qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ án về các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, động cơ, mục đích, cách thức phạm
tội… cùng với những chứng cứ do Cơ quan CSĐT cung cấp và những lập luận logic của
Viện Kiểm sát, lời khai của bị cáo, lời khai của người làm chứng, Tòa án nhân dân TP.
Hà Nội đã nhận định rằng bị cáo Nghĩa đã phạm tội “Giết người và cướp tài sản” như
quyết định khởi tố của Cơ quan điều tra, bản cáo trạng của Viện Kiểm sát, từ đó ra bản
án tuyên Nghĩa mức án cao nhất trong khung hình phạt đó là tử hình. Như vậy, bên cạnh
hoạt động thiết kế được áp dụng trong vụ án này, Tòa án cũng đã vận dụng triệt để hoạt
động nhận thức trong việc nhận định, đánh giá tính khách quan, liên quan, hợp pháp của
những tài liệu, chứng cứ có liên quan tới vụ án “ xác chết không đầu” này, từ đó làm cơ
sở tiền đề để hoạt động thiết kế diễn ra một cách thuận lợi, và cuối cùng là đưa ra một
bản án đúng người, đúng tội, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, sự nghiêm minh của
pháp luật cũng như là bảo vệ được các quyền và lợi ích của bị hại, giữ gìn an ninh, trật
tự xã hội.
Hoạt động nhận thức của Tòa án là quá trình nhận thức những chứng cứ mang
tính gián tiếp cao. Lí do chủ yếu là vì trong các vụ án hình sự, Tòa án không tiếp xúc
trực tiếp với vụ án, không tham gia vào giai đoạn điều tra mà chỉ tiếp nhận chứng cứ, tài
liệu thông qua điều tra viên. Từ đó, trong giai đoạn điều tra, Điều tra viên phải có những

biện pháp củng cố tài liệu thu thập một cách đầy đủ và các tài liệu đó phải giúp cho Tòa
9


án nhận thức được chứng cứ, xây dựng mô hình tư duy về vụ án cần nghiên cứu một
cách dễ dàng hơn. Hoạt động nhận thức ở giai đoạn xét xử được thực hiện bởi các thành
viên Hội đồng xét xử nhằm kiểm tra lại tính đúng đắn của các thông tin thu thập được
trong giai đoạn điều tra thông qua hồ sơ và lời khai của những người tham gia tố tụng.
Hoạt động nhận thức mang tính chủ động, ít căng thẳng hơn so với hoạt động nhận thức
ở giai đoạn điều tra do chủ thể nhận thức đã được tiếp cận với lượng thông tin ít hơn, cô
đọng hơn, đã được sàng lọc ở giai đoạn điều tra.
Ví dụ: Trong một vụ án, việc thu thập thông tin, chứng cứ, khám nghiệm hiện
trường… đều là hoạt động của giai đoạn điều tra, do đó chủ thể thực hiện công việc
trong giai đoạn này là cơ quan điều tra, chính vì vậy khi chuyển hồ sơ vụ án cho Viện
kiểm sát và chuyển cho Tòa án để thực hiện công tác xét xử, Hội đồng xét xử sẽ tiếp
nhận những thông tin, chứng cứ ghi trong hồ sơ một cách gián tiếp, bởi những chứng cứ
thu thập được không phải trực tiếp do Hội đồng xét xử thu thập mà do cơ quan điều tra
tiến hành thu thập trước đó, do vậy việc xét xử có trở nên đúng đắn, khách quan hay
không phụ thuộc rất lớn vào hoạt động thu thập thông tin, chứng cứ của cơ quan điều tra
trong giai đoạn điều tra.
Từ phân tích trên, có thể thấy trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, mặc dù không
đóng vai trò chủ đạo như hoạt động thiết kế nhưng hoạt động nhận thức cũng có vai trò
quan trọng, không thể thiếu,
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Hoạt động nhận thức là một trong những hoạt động tâm lý cơ bản, đóng vai trò
quan trọng, là tiền đề để có các hoạt động tâm lý khác (xúc cảm – tình cảm, ý chí, hành
động)... Đối với hoạt động tư pháp nói chung cũng như quá trình tố xét xử nói riêng thì
hoạt động nhận thức luôn được coi là hoạt động trọng tâm, là tiền đề, cơ sở cho các hoạt
động khác. Việc quan tâm đúng đắn đến vai trò của hoạt động nhận thức trong hoạt động
xét xử sẽ giúp các cơ quan tiến hành tố tụng nhang chóng tìm ra sự thật khách quan của

vụ án hình sự từ đó đưa ra bản án chính xác, xử đúng người, đúng tội.
10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tâm lí học Tư pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB CAND,
Hà Nội 2006
2. Giáo trình tâm lí học Tư pháp - Chu Liên Anh, Dương Thị Loan, NXB Giáo
dục, Hà Nội, 2010.
3. Hướng dẫn trả lời lí thuyết, giải bài tập tình huống và trắc nghiệm, Chu
Liên Anh, Dương Thị Loan, Tâm lí học tư pháp, NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội,
2010.
Trang Web:
1, />option=com_content&view=article&id=10362:s-kcb-nckh&catid=309:s-kcbnckh&Itemid=357

2, />ArticleView/articleId/25520.aspx
3, />pers_id=28346379&folder_id=&item_id=191099684&p_details=1
4, />
11



×