Khái quát văn học Ấn Độ
A. MỞ ĐẦU
Đất nước Ấn Độ là đất nước sở hữu một nên văn hóa lớn và đặc sắc của toàn
nhân loại, nó có ảnh hưởng lớn không những trong khu vực mà còn trên cả thế
giới. Đông Nam Á là nới tiếp thu được khá nhiều nét đặc sắc từ nền văn hóa Ấn
Độ, bên cạnh những nét đặc trung truyền thống Ấn Độ người dân Đông Nam Á
tiếp thu chọn lọc thành những nên văn hóa riêng của khu vực.
Ấn Độ là một đất nước có nhiều chủng tộc, mang nhiều ngôn ngữ khác nhau,
ước tính có tới 1652 ngôn ngữ. Ấn Độ là nước có nền văn minh rất sớm không
kém Hi Lạp , La Mã, Ai Cập. Những cuộc khai quật của các nhà khảo cổ học
nổi tiếng đầu thế kỉ XX ở vùng Harappa và vùng Mônhengiô Đarô trên lưu vực
sông Ấn chứng minh từ 3000 năm trước Công Nguyên đã xuất hiện một nền
văn hóa khá rực rỡ của người Đraviđian. Ấn Độ là một đất nước vô cùng phong
phú đa dạng hội đủ mọi sắc thái về điều kiện tự nhiên. Với lãnh thổ trải dài từ
7-32 độ vĩ bắc và 67 – 87 độ kinh đông, đó là một bán đảo hình tam giác tưởng
chừng như một khối thống nhất đơn giản về địa hình khí hậu nhưng đi sâu vào
trong đó mới có thể thấy được mọi thiên hình vạn trạng của đất nước này. Với
trí tưởng tượng phong phú của mình, người dân Ấn Độ hình dung đất nước họ
như một nàng tiên cá xinh đẹp có mái tóc bạch kim dài tung bay trong mây trời
Himalaya và có cái đuôi cá vẫy vùng trong Ấn Độ Dương xanh thẳm. Còn dãy
núi Himalaya bao la hùng vĩ là vận mệnh của Ấn Độ. Nó gợi lên bao nỗi sợ hãi
cho tất cả mọi người nơi đây. Trong đó ẩn chứa biết bao câu chuyện huyền
thọai linh thiêng gắn liền với đất nước con người Ấn Độ.
Ấn Độ cổ - một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại. Hồ Chí Minh
cho rằng Ấn Độ là quê hương của một trong những nền văn minh lâu đời nhất
thế giới. Văn hóa, triết học, nghệ thuật của Ấn Độ đã phát triển rực rỡ và có
những cống hiến to lớn cho loài người. Liên tiếp trong nhiều thế kỷ, tư tưởng
Phật giáo, nghệ thuật, khoa học của Ấn Độ đã lan khắp thế giới. Nền văn hóa
và đạo Phật của Ấn Độ đã truyền sang Việt Nam từ thời cổ.
Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học - tôn giáo lớn nhất trên thế
giới, tồn tại rất lâu đời. Hệ thống giáo lý của nó rất đồ sộ và số lượng phật tử
đông đảo được phân bố rộng khắp. Đạo phật được truyền bá vào nước ta
khoảng thế kỷ II sau công nguyên và đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo có
ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam, bên cạnh đó
đạo Nho, đạo Lão, đạo Thiên chúa. Tuỳ từng giai đoạn lịch sử dân tộc ta đều có
một học thuyết tư tưởng hoặc một tôn giáo nắm vai trò chủ đạo, có tác động
mạnh nhất đến nếp sống, thói quen, suy nghĩ của con người.
Từ đó học tập và nghiên cứu triết học Ấn Độ không chỉ trang bị cho chúng ta
một cái phông kiến thức, văn hóa nói chung như triết học Hy Lạp – La Mã, mà
nó còn giúp chúng ta hiểu chúng ta hơn.
B. NỘI DUNG
I. Đôi nét về đất nước Ấn Độ
1.1. Vị trí địa lý
Địa lý Ấn Độ
Lục địa
Châu Á
Vùng
Nam Á
Tiểu lục địa Ấn Độ
Tọa độ
21°B 78°Đ
Diện tích
Xếp hạng thứ 7
• Tổng số
3.287.263 km2 (1.269.219 sq mi)
• Đất
90.08%
• Nước
9.92%
Đường bờ biển
7.516,6 km (4.670,6 mi)
Biên giới
Tổng biên giới đất liền:
15.106,70 km (9.386,87 mi)
Bangladesh:
4.096,70 km (2.545,57 mi)
Trung Quốc:
3.488 km (2.167 mi)
Pakistan:
2.910 km (1.808 mi)
Nepal:
1.751 km (1.088 mi)
Myanmar:
1.643 km (1.021 mi)
Bhutan:
699 km (434 mi)
Điểm cao nhất
K2 hay Godwin Austin
8.611 m (28.251,3 ft)
Điểm thấp nhất
Kuttanad
−2,2 m (−7,2 ft)
Sông dài nhất
Sông Hằng
Sông Brahmaputra[cần dẫn nguồn]
Hồ lớn nhất
Hồ Chilka
Ấn Độ (tiếng Hindi: भभभभ, chuyển tự Bhārata, tiếng Anh: India), tên gọi chính
thức là Cộng hòa Ấn Độ (tiếng Hindi: भभभभ भभभभभभ
भ, chuyển tự Bhārat
Gaṇarājya, tiếng Anh: Republic of India), là một quốc gia tại Nam Á.
Đây là quốc gia lớn thứ bảy về diện tích, Ấn Độ có diện tích 3.287.263 km²,
xếp thứ 7 trên thế giới về diện tích, trong đó phần đất liền chiếm 90,44%, diện
tích mặt nước chiếm 9,56%. Ấn Độ có biên giới trên đất liền giáp
với Bangladesh (4.053 km), Bhutan (605 km), Myanma (1.463 km), Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa (3.380 km), Nepal (1690 km) và Pakistan (2.912 km).
Đỉnh núi cao nhất có độ cao 8.598 m, điểm thấp nhất là Kuttanad với độ cao
-2,2 m. Các sông dài nhất là sông Brahmaputra, sông Hằng. Hồ lớn nhất là hồ
Chilka. Và đông dân thứ nhì trên thế giới với trên 1,33 tỷ người.
Tiểu lục địa Ấn Độ là nơi xuất hiện văn minh lưu vực sông Ấn cổ đại, có các
tuyến đường mậu dịch mang tính lịch sử cùng những đế quốc rộng lớn, và trở
nên giàu có về thương mại và văn hóa trong hầu hết lịch sử lâu dài của
mình. Đây cũng là nơi bắt nguồn của bốn tôn giáo lớn: Ấn Độ giáo, Phật
giáo, Jaina giáo và Sikh giáo; trong khi Do Thái giáo, Hỏa giáo, Cơ Đốc
giáo và Hồi giáo được truyền đến vào thiên niên kỷ thứ nhất sau Công
nguyên và cũng giúp hình thành nền văn hóa đa dạng của khu vực. Khu vực
dần bị thôn tính và chuyển sang nằm dưới quyền quản lý của Công ty Đông Ấn
Anh từ đầu thế kỷ XVIII, rồi nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của Anh
Quốc từ giữa thế kỷ XIX. Ấn Độ trở thành một quốc gia độc lập vào
năm 1947 sau một cuộc đấu tranh giành độc lập dưới hình thức đấu tranh bất
bạo động do Mahatma Gandhi lãnh đạo.
Mumbai, trung tâm thương mại và giải trí bậc nhất Ấn Độ
Nền kinh tế Ấn Độ lớn thứ 5 thế giới xét theo GDP danh nghĩa (năm 2018),
được dự báo trở thành nền kinh tế thứ 4 thế giới vào năm 2021, hiện tại là nền
kinh tế lớn thứ ba thế giới xét theo sức mua tương đương (PPP). Sau các cải
cách kinh tế dựa trên cơ sở thị trường vào năm 1991, Ấn Độ trở thành một
trong số các nền kinh tế lớn có mức tăng trưởng nhanh; và được nhận định là
một nước công nghiệp mới. Tuy nhiên, quốc gia này vẫn tiếp tục phải đối diện
với những thách thức từ nghèo đói, nạn tham nhũng, tình trạng suy dinh
dưỡng của trẻ em nông thôn, giáo dục và y tế công thiếu thốn, và chủ nghĩa
khủng bố. Ấn Độ là một quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân và là một cường quốc
trong khu vực, có quân đội thường trực lớn thứ ba và xếp hạng tám về chi tiêu
quân sự trên thế giới, đồng thời được đánh giá là một siêu cường tiềm năng. Ấn
Độ là một nước cộng hòa lập hiến liên bang theo thể chế nghị viện, gồm có 29
bang và 7 lãnh thổ liên bang. Ấn Độ là một xã hội đa nguyên, đa ngôn ngữ và
đa dân tộc. Đây cũng là nơi có sự đa dạng về loài hoang dã trong nhiều khu vực
được bảo vệ.
Ấn Độ là một quốc gia Nam Á, chiếm hầu hết bán đảo Ấn Độ. Ấn Độ có ranh
giới với Pakistan,Trung Quốc, Myanma, Bangladesh, Nepal, Bhutan và
Afghanistan. Ấn Độ là nước đông dân thứ nhì trên thế giới, với dân số trên một
tỉ người, và đồng thời lớn thứ bảy về diện tích.
Cộng hoà Ấn Độ xuất hiện trên bản đồ thế
giới vào ngày 15 tháng 8 năm 1947. Sự thiết
lập nhà nước Ấn Độ là đỉnh cao của cuộc đấu
tranh của những người tại Nam Á để thoát khỏi
ách thống trị của Đế quốc Anh. Ấn Độ có
nền văn minh sông Ấn (Indus) phát triển rực rỡ
cách đây 5 nghìn năm. Ấn Độ là nơi sinh
trưởng của bốn tôn giáo quan trọng trên thế
giới: Ấn Độ giáo (Hindu), Phật giáo, đạo
Jaini và đạo Sikh.
Vị trí Ấn Độ (xanh lá) trên thế giới, bao gồm vùng Kashmir hiện
đang tranh chấp với Trung Quốc và Pakistan (xanh nhạt)
Đất nước Ấn Độ có một vị thế địa lý rất đặc biệt. Đó là lưng dựa vào dãy Hy
Mã Lạp Sơn hùng vĩ nhất thế giới, mặt nhìn ra Ấn Độ Dương biển cả mênh
mông, lại còn có 2 con sông lớn là Ấn Hà và Hằng Hà như hai dòng sữa tươi
nuôi một bình nguyên bao la và cũng là cái nôi của nền văn minh nông nghiệp
định cư vào thời cổ đại.
Bản đồ Đồng bằng Ấn – Hằng
Chính ở chốn địa linh nhân kiệt đó nhiều vĩ nhân ra đời như đức Phật Thích Ca
Mâu Ni, Thánh Mahatma Gandhi, hiền triết Jiddu Krishnamurti, thi hào
Rabindranath Tagore, v.v… và các tôn giáo, trường phái triết học lớn và lâu đời
nhất thế giới được hình thành như Vệ Đà, Áo Nghĩa Thư, Ấn Độ Giáo, Phật
Giáo, Kỳ Na Giáo, Đạo Sikh, v.v…
Địa lý Ấn Độ đa dạng, bao gồm nhiều miền khí hậu khác biệt từ những dãy núi
phủ tuyết cho đến các sa mạc, đồng bằng, rừng mưa nhiệt đới, đồi, và cao
nguyên. Ấn Độ bao gồm một phần lớn của tiểu lục địa Ấn Độ nằm trên mảng
kiến tạo Ấn Độ, phần phía Bắc của mảng Ấn-Úc. Ấn Độ có bờ biển dài
7.516 km, phần lớn Ấn Độ nằm ở bán đảo Nam Á vươn ra Ấn Độ Dương. Ấn
Độ giáp Biển Ả Rập về phía Tây Nam và giáp Vịnh Bengal về phía
Đông và Đông Nam. Vùng đồng bằng Ấn-Hằng phì nhiêu chiếm phần lớn
ở phía Bắc, miền Trung và Đông Ấn Độ. Về phía Tây của quốc gia này là sa
mạc Thar, một hoang mạc hỗn hợp đá và cát. Biên giới phía Đông và Đông Bắc
của quốc gia này là dãy Himalayas. Đỉnh cao nhất ở Ấn Độ là lãnh thổ tranh
chấp với Pakistan; theo tuyên bố của Ấn Độ, đỉnh cao nhất (nằm ở khu vực
Kashmir là K2, với độ cao 8.611 m. Đỉnh cao nhất ở trong lãnh thổ không tranh
chấp của Ấn Độ là Kangchenjunga, với độ cao 8.598 m. Khí hậu Ấn Độ đa
dạng từ khí hậu xích đạo ở cực Nam đến Alpine ở khu vực đỉnh Himalayas.
Ấn Độ giáp Pakistan và Afghanistan về phía Tây Bắc. Chính quyền Ấn Độ xem
toàn bộ bang Jammu và Kashmir là một phần của Ấn Độ. Bang này giáp một
phần của Afghanistan. Trung Quốc, Bhutan và Nepal ở phía Bắc, Myanma về
phía Đông và Bangladesh về phía Đông của Tây Bengal. Sri Lanka được tách
biệt khỏi Ấn Độ bằng một eo biển hẹp được tạo ra bởi Eo biển Palk và Vịnh
Mannar. Về mặt hành chính, Ấn Độ được chia thành 28 bang, và 7 lãnh thổ liên
bang được chính quyền liên bang quản lý. Các đơn vị hành chính này được
phân chia chủ yếu theo biên giới dân tộc và ngôn ngữ hơn lý do địa lý.
Ấn Độ nằm hoàn toàn trên mảng Ấn Độ, một mảng kiến tạo chính được hình
thành khi nó tách ra từ lục địa cổ đại Gondwana (lục địa cổ xưa, bao gồm phần
phía nam của siêu lục địa của Pangea). Mảng Ấn-Úc được chia thành các mảng
Ấn Độ và mảng Úc. Khoảng 90 triệu năm trước, trong giai đoạn cuối kỷ Creta,
mảng Ấn Độ bắt đầu di chuyển về phía bắc vào khoảng 15 cm / năm (6 in /
năm). Khoảng 50 đến 55 triệu năm trước, trong thế Eocen của Đại Tân sinh,
mảng va chạm với châu Á sau khi trải dài từ 2.000 đến 3.000 km (1.243 đến
1.864 mi), nó đã di chuyển nhanh hơn bất kỳ mảng nào đã biết. Vào năm 2007,
các nhà địa chất Đức đã xác định rằng mảng Ấn Độ có thể di chuyển rất nhanh
vì nó chỉ dày bằng một nửa so với các mảng khác trước đây đã hình thành
Gondwana. Sự va chạm với mảng Á - Âu dọc theo biên giới hiện tại giữa Ấn
Độ và Nepal đã hình thành nên vành đai kiến tạo sơn tạo ra cao nguyên Thanh
Tạng và dãy Himalaya.
Bản đồ địa hình Ấn Độ
Tính đến năm 2009, mảng Ấn Độ đang di chuyển về phía đông bắc với tốc độ 5
cm / năm (2 in / năm), trong khi mảng Á - Âu đang di chuyển về phía bắc chỉ
với 2 cm / năm (0,8 in / năm). Ấn Độ do đó được gọi là "lục địa nhanh
nhất". Điều này khiến mảng Á-Âu bị biến dạng và mảng Ấn Độ nén với tốc độ
4 cm / năm (1,6 in / năm).
Ấn Độ có thể được chia thành sáu vùng địa lý, đó là:
•
Dãy núi phía Bắc
•
Cao nguyên Deccan
•
Đồng bằng Ấn-Hằng
•
Sa mạc Thar
•
Vùng đồng bằng ven biển
•
Các đảo
Nói chung đất đai, thiên nhiên và khí hậu Ấn Độ khá phức tạp và khắc nghiệt.
Giàu có về tài nguyên nhưng bị thiên tai tàn phá cho nên nền kinh tế Ấn Độ xưa
kia luôn luôn trong tình trạng trì trệ, đình đốn chậm phát triển. Đặc điểm đó tạo
cho con người Ấn Độ từ khi ra đời đã phải trải qua những cuộc đấu tranh, vật
lộn với thiên nhiên vô cùng oanh liệt, điều đó đã phản ánh rất rõ trong những
thần thoại đầy sức hấp dẫn và kì vĩ của họ.
1.2. Dân tộc
Ấn Độ là một đất nước có nhiều chủng tộc mang nhiều ngôn ngữ khác nhau,
ước tính có tới 1602 ngôn ngữ
Chủng tộc đông nhất gồm Đraviđian, Arian, Xumêrian, Naga,... Về sau còn có
người Hy Lạp, Ba Tư, A Rập, Mông Cổ,... lần lượt xâm lược Ấn Độ và dần dần
đồng hóa với các thổ dân tạo thành sự hỗn hợp chủng tộc hết sức phức tạp.
Nhưng chủ yếu có hai dân tộc lớn ở Ấn Độ là Đraviđian và Arian.
Theo sử liệu, người Đraviđian là chủ nhân sớm nhất của đất nước Ấn Độ. Ba
nghìn năm trước công nguyên. Người Đraviđian từng sinh sống dọc lưu vực
sông Ấn và sông Hằng. Do đó đời sống văn hóa cao họ đã tạo dựng nên nền
văn minh sông Ấn rực rỡ. Người Đraviđian cao, da nâu sẫm, mũi thẳng, tóc đen
Còn giống người Arian, da trắng, gốc Ấn Âu, mũi thẳng, dáng cao. Gốc gác từ
miền Caxpiên thuộc ngữ hệ Ấn – Âu mà Ăngghen gọi là “ dân du mục tiên
tiến” đi từ phía Nam núi Uran đến vùng Tuốckêxtan chia làm ba bộ phận. Một
bộ phận gọi là Mitanix tới lập quốc ở thượng lưu sông Mêđôpôtami, một bộ
phận khác gọi là Iranô – Arian qua Ápganixtan vượt núi Hymalaya vào định cư
ở vùng Pengiáp.
Lúc đầu cuộc xâm lược của người Arian chỉ có tính chất di cư hòa bình mang
theo súc vật và dụng cụ gia đình để tìm kiếm đất đai cư trú, làm ăn. Về sau, vì
cuộc sống buộc họ phải vũ trang xung đột với các thổ dân ở đây. Họ là giống
người du mục chuyên chăn nuôi, thích nghề săn bắn, giỏi cung kiếm, khỏe
mạnh, can trường, hung bạo cho nên đã gây chiến tranh và chiếm cứ đất đai của
người Đraviđian.
Sau khi người Đraviđian và các thổ dân khác bị chinh phục, có người trở thành
tù binh, rồi làm nô lệ cho người Arian có người phải chạy tản mát vào rừng sâu
hoặc kéo nhau tràn xuống định cư ở phía Nam.
Lúc đầu trình độ văn hóa của người Arian thấp hơn người Đraviđian, nhưng
nhờ tiếp thu văn hóa của kẻ bị chinh phục, học tập được kỹ thuật làm ruộng,
nhờ có đất đai màu mỡ mà người Arian chuyển sang đời sống định cư và bắt
đầu canh tác nông nghiệp. Từ đó chế độ công xã nông thôn người Arian hình
thành và phát triển.
Do mâu thuẫn về quyền lợi đất đai và chiến lợi phẩm, mà nội bộ cộng đồng
người Arian ngày càng chia rẽ và xung đột vũ trang lẫn nhau. Sau những cuộc
xung đột đó nhiều tiểu vương quốc ra đời. Từ đó chế độ chiếm hữu nô lệ dần
dần tan rã, chế độ phong kiến lần lượt ra đời.
1.3. Quốc kỳ và quốc huy
1.3.1. Quốc kỳ
1.3.1.1. Giới thiệu
Quốc kỳ Ấn Độ là một cờ tam tài ngang gồm vàng nghệ thẫm, trắng và lục Ấn
Độ; cùng một thiết kế bánh xe 24 nan hoa gọi là Ashoka Cakra màu lam nằm
tại trung tâm. Thiết kế hiện nay được thông qua trong một cuộc họp của Nghị
hội vào ngày 22 tháng 7 năm 1947, khi đó nó trở thành quốc kỳ chính thức của
Quốc gia Tự trị Ấn Độ. Sau đó, nước Cộng hòa Ấn Độ vẫn giữ lại thiết kế quốc
kỳ này. Tại Ấn Độ, thuật ngữ "cờ tam tài" hầu như luôn đề cập đến quốc kỳ Ấn
Độ. Thiết kế quốc kỳ Ấn Độ dựa trên thiết kế cờ Swaraj, là một cờ hiệu
của Đảng Quốc Đại Ấn Độ do Pingali Venkayya thiết kế.
Quốc kỳ Ấn Độ
Theo luật định, quốc kỳ được làm từ một loại vải kéo sợi bông hoặc tơ bằng tay
đặc biệt mang tên khadi, loại vải này được Mahatma Gandhi phổ biến. Cục tiêu
chuẩn Ấn Độ đặt ra quy định về cách thức chế tạo và các chi tiết kỹ thuật của
quốc kỳ. Quyền chế tạo quốc kỳ do Ủy ban Khadi và Công nghiệp thôn làng
nắm giữ, ủy ban phân phối cho các tổ khu vực. Trong năm 2009, Karnataka
Khadi Gramodyoga Samyukta Sangha là hãng độc quyền trong việc chế tạo
quốc kỳ.
Luật Quốc kỳ Ấn Độ và các luật khác liên quan đến những biểu tượng quốc gia
điều chỉnh việc sử dụng quốc kỳ. Luật ban đầu cấm các cá nhân công dân sử
dụng quốc kỳ ngoại trừ trong những ngày quốc lễ như ngày Độc lập và ngày
Cộng hòa. Năm 2002, Tòa án Tối cao Ấn Độ lệnh cho Chính phủ Ấn Độ sửa
đổi luật nhằm cho phép các cá nhân công dân được sử dụng quốc kỳ. Sau đó,
nội các liên bang sửa đổi luật để cho phép sử dụng hạn chế.
1.3.1.2. Ý nghĩa
Mahatma Gandhi đề xuất lần đầu một hiệu kỳ trước Đảng Quốc Đại vào năm
1921. Hiệu kỳ do một nhà nông học đến từ Machilipatnam là Pingali
Venkayya thiết kế. Tại trung tâm là một guồng xe sợi truyền thống, tượng trưng
hóa mục tiêu của Gandhi là khiến cho người Ấn Độ tự lực bằng cách sản xuất
trang phục của mình. Thiết kế sau đó được sửa đổi để thêm một sọc trắng tại
trung tâm nhằm tượng trưng cho các cộng đồng tôn giáo khác, và làm nền cho
guồng xe sợi. Sau đó, nhằm tránh liên kết các hiệp hội tông phái với phối màu,
vàng nghệ, trắng và lục được lựa chọn cho ba dải, lần lượt đại diện cho dũng
khí và hy sinh, hòa bình và chân thực, tín nhiệm và thượng võ.
Một vài ngày trước khi Ấn Độ độc lập ngày 15 tháng 8 năm 1947, Nghị hội
quyết định rằng quốc kỳ Ấn Độ cần phải được toàn bộ các chính đảng và cộng
đồng chấp thuận. Do vậy, một phiên bản sửa đổi của hiệu kỳ Swaraj được lựa
chọn; vẫn là cờ tam tài vàng nghệ, trắng và xanh. Tuy nhiên, charkha bị thay
bằng Ashoka Chakra nhằm tượng trưng cho guồng xoay bất diệt theo luật. Triết
gia Sarvepalli Radhakrishnan, người sau này trở thành Phó Tổng thống đầu tiên
và Tổng thống thứ nhì, giải thích về quốc kỳ được thông qua và mô tả ý nghĩa
của nó như sau:
Bhagwa hay màu nghệ biểu thị sự hy sinh hoặc vô tư. Các lãnh tụ của chúng ta phải
quan tâm đến lợi ích vật chất và hiến dân bản thân cho công việc của họ. Màu trắng
tại trung tâm là ánh sáng, con đường chân lý hướng dẫn hành vi của chúng ta. Màu
lục thể hiện liên hệ của chúng ta với đất, liên hệ của chúng ta với thực vật sống trên
đó, là thứ mà toàn bộ những sinh mệnh khác dựa vào. "Ashoka Chakra" tại trung tâm
của dải trắng là bánh xe của pháp. Chân lý hay satya, dharma hay đức phải là nguyên
tắc kiểm soát những người làm việc dưới quốc kỳ này. Tiếp đến, bánh xe biểu thị
chuyển động. Có tử vong trong đình trệ. Có sinh mệnh trong chuyển động. Ấn Độ
không nên chống lại hơn nữa sự thay đổi, nó cần phải chuyển động và tiến về phía
trước. Bánh xe đại diện cho thuyết động lực về một thay đổi hòa bình.
1.3.2. Quốc huy
Quốc huy Ấn Độ
Biểu tượng bốn đầu sư tử của trụ đá Asoka tại Sarnath được chọn làm quốc huy
của đất nước Ấn Độ vào ngày Ấn Độ tuyên bố dân chủ, ngày 26 tháng 1 năm
1950. Phần đế nửa hoa sen dốc xuống được cắt đi, thay vào đó là hàng chữ văn
tự Devanagari “Satyameva Jayate” nghĩa là “chỉ có chân lý là chiến thắng”
(Truth Alone Triumphs). Trên quốc huy, hình chụp trụ đá thấy được ba đầu sư
tử dựa vào nhau, đầu sư tử thứ tư bị khuất. Ba trong bốn bánh xe được nhìn
thấy, một bánh xe ngay chính giữa và hai bánh xe hai bên. Bốn con vật trên trụ
đá chỉ thấy được con ngựa bên trái và con bò đực bên phải. Voi và sư tử khuất
đằng sau.
Trên tiền: Vì được chọn làm quốc huy, nên hình
ảnh trụ đá sư tử Asoka bốn đầu này xuất
hiện trên tiền giấy cũng như tiền cắc Ấn Độ. Ở
tiền giấy, biểu tượng quốc huy xuất hiện ở góc
dưới bên trái. Ở tiền cắc, biểu tượng này lớn
hơn, nằm trên một mặt của đồng tiền.
Trên tem: biểu tượng quốc huy này cũng được chọn in trên tem thư.
Trên đầu giấy viết thư của các cơ quan nhà nước: Biểu tượng quốc huy xuất
hiện trên tựa đề các đơn, thư của các cơ quan nhà nước.
Trên cơ sở của tổ chức chính quyền và các cơ sở ngoại giao của Ấn Độ ở nước
ngoài
Trên hộ chiếu: như hộ chiếu của bao quốc gia khác, trang bìa hộ chiếu công
dân Ấn Độ có biểu tượng quốc huy.
1.3. Lịch sử
1.3.1. Ấn Độ cổ đại
Người hiện đại về phương diện giải phẫu được cho là đến Nam Á từ 73.000 –
55.000 năm trở lại đây, song các hài cốt được xác nhận của giống người này chỉ
có niên đại sớm nhất là từ 30.000 năm trước. Tại nhiều nơi trên tiểu lục địa Ấn
Độ, người ta phát hiện được các di chỉ nghệ thuật trên đá gần cùng thời với thời
đại đồ đá giữa, bao gồm các chỗ ở hang đá Bhimbetka tại Madhya
Pradesh. Khoảng năm 7000 TCN, các khu định cư thời đại đồ đá mới đầu tiên
được biết đến đã xuất hiện trên tiểu lục địa, tại Mehrgarh và các di chỉ khác ở
đông bộ Pakistan. Chúng dần phát triển thành văn minh thung lũng sông Ấn, là
nền văn hóa đô thị đầu tiên tại Nam Á; và phát triển hưng thịnh trong khoảng
thời gian 2500–1900 TCN tại Pakistan và tây bộ Ấn Độ. Nền văn minh này tập
trung quanh các thành thị như Mohenjo-daro, Harappa, Dholavira,
và Kalibangan, và dựa trên các hình thức sinh kế đa dạng, nền văn minh này có
hoạt động sản xuất thủ công nghiệp mạnh cùng với mậu dịch trên phạm vi rộng.
Trong giai đoạn 2000–500 TCN, xét theo khía cạnh văn hóa, nhiều khu vực tại
tiểu lục địa chuyển đổi từ thời đại đồ đồng đá sang thời đại đồ sắt. Vệ-đà là
những thánh kinh cổ nhất của Ấn Độ giáo, chúng được soạn trong giai đoạn
này, và các nhà sử học phân tích chúng để thừa nhận về một nền văn hóa Vệđà ở vùng Punjab và phần thượng của đồng bằng sông Hằng. Hầu hết các sử gia
cũng nhận định trong giai đoạn này có một vài làn sóng người Ấn-Arya nhập
cư đến tiểu lục địa từ phía tây-bắc. Chế độ đẳng cấp xuất hiện trong giai đoạn
này, tạo nên một hệ thống thứ bậc gồm các tăng lữ, quân nhân, nông dân tự do,
tuy nhiên loại trừ người dân bản địa bằng cách gán cho công việc của họ là thứ
ô uế. Trên cao nguyên Deccan, bằng chứng khảo cổ từ thời kỳ này khẳng định
sự tồn tại của tổ chức chính trị ở một giai đoạn tù bang. Tại nam bộ Ấn Độ, một
lượng lớn các bia kỷ niệm cự thạch có niên đại từ thời kỳ này cho thấy có một
sự tiến triển lên cuộc sống định cư, ngoài ra còn có các dấu vết về nông nghiệp,
bể tưới tiêu, và thủ công truyền thống nằm không xa đó.
Bức họa tại Các hang Ajanta, Aurangabad, bang tây bộ Maharashtra
Vào cuối giai đoạn Vệ-đà, khoảng thế kỷ V TCN, các tù bang nhỏ ở đồng bằng
sông Hằng và tây-bắc thống nhất thành 16 quả đầu quốc và quân chủ quốc lớn,
chúng được gọi là các mahajanapada. Đô thị hóa nổi lên và các tính chất chính
thống trong thời kỳ này cũng hình thành nên các phong trào tôn giáo không
chính thống, hai trong số đó trở thành các tôn giáo độc lập. Phật giáo dựa trên
lời dạy của Tất-đạt-đa Cồ-đàm, thu hút các môn đồ từ tất cả các tầng lớp xã hội
trừ tầng lớp trung lưu; ghi chép biên niên sử về cuộc đời của Phật là trung tâm
trong việc khởi đầu lịch sử thành văn tại Ấn Độ. Đạo Jaina nổi lên trong thời kỳ
của người mô phạm của nó là Mahavira. Tại một thời kỳ mà đô thị thêm phần
thịnh vương, cả hai tôn giáo đều duy trì sự từ bỏ như một tư tưởng, và cả hai
đều hình thành các truyền thống tu viện lâu dài. Về mặt chính trị, vào thế kỷ III
TCN, Vương quốc Magadha (Ma Kiệt Đà) sáp nhập hoặc chinh phục các quốc
gia khác để rồi nổi lên thành Đế quốc Maurya (Khổng Tước). Đế quốc Maurya
từng kiểm soát hầu hết tiểu lục địa ngoại trừ vùng viễn nam, song các khu vực
lõi của nó nay bị phân ly bởi các khu vực tự trị lớn. Các quốc vương của
Maurya được biết đến nhiều với việc xây dựng đế quốc và quản lý sinh hoạt
công cộng một cách quả quyết, như Ashoka từ bỏ chủ nghĩa quân phiệt và ủng
hộ rộng rãi "Phật pháp".
Văn học Sangam viết bằng tiếng Tamil tiết lộ rằng vào giai đoạn từ 200 TCN
đến 200 CN, nam bộ bán đảo nằm dưới quyền quản lý của các triều
đại Chera, Chola, và Pandya, các triều đại này có quan hệ mậu dịch rộng rãi
với Đế quốc La Mã cũng như với khu vực Tây và Đông Nam Á. Ở bắc bộ Ấn
Độ, Ấn Độ giáo khẳng định quyền kiểm soát phụ quyền trong gia đình, khiến
phụ nữ tăng thêm tính lệ thuộc. Đến thế kỷ IV và V, Đế quốc Gupta được hình
thành tại đồng bằng sông Hằng với một phức hệ về hành pháp và phú thuế, trở
thành hình mẫu cho các vương quốc sau này tại Ấn Độ. Dưới chế độ Gupta, Ấn
Độ giáo hồi phục dựa trên cơ sở lòng sùng đạo thay vì quản lý lễ nghi và bắt
đầu khẳng định được mình. Sự phục hồi của Ấn Độ giáo thể hiện qua việc nở rộ
các công trình điêu khắc và kiến trúc, những thứ trở nên quen thuộc trong một
giới tinh hoa đô thị. Văn học tiếng Phạn cổ điển cũng nở rộ, và khoa học, thiên
văn học, y học, toán học Ấn Độ cũng phát triển
1.3.2. Ấn Độ trung đại
Thời kỳ Ấn Độ trung đại đầu kéo dài từ năm 600 đến năm 1200, có đặc điểm là
các vương quốc mang tính khu vực và đa dạng văn hóa. Khi người cai trị phần
lớn đồng bằng Ấn-Hằng từ 606 đến 647 là Hoàng đế Harsha cố gắng khuếch
trương về phía nam, ông chiến bại trước quân chủ của triều Chalukya ngự trị tại
Deccan. Khi người thừa tự của Harsha nỗ lực khuếch trương về phía đông, ông
ta chiến bại trước quân chủ của Pala ngự trị tại Bengal. Khi triều Chalukya nỗ
lực khuếch trương về phía nam, họ chiến bại trước triều Pallava ở xa hơn về
phía nam, triều Pallava lại đối đầu với triều Pandya và triều Chola ở xa hơn nữa
về phía nam. Không quân chủ nào trong giai đoạn này có thể thiết lập nên một
đế quốc và kiểm soát liên tục các vùng đất nằm xa vùng lãnh thổ lõi của
mình. Trong thời kỳ này, các mục dân có đất đai bị phát quang để phát triển
kinh tế nông nghiệp được thu nhận vào trong xã hội đẳng cấp, trở thành tầng
lớp thống trị phi truyền thống mới. Hệ thống đẳng cấp do đó bắt đầu thể hiện
những khác biệt giữa các vùng.
Trong thế kỷ VI và VII, các bài thánh ca cầu nguyện đầu tiên được sáng tác
bằng tiếng Tamil. Toàn Ấn Độ mô phỏng theo điều đó và khiến cho Ấn Độ giáo
tái khởi, và toàn bộ các ngôn ngữ hiện đại trên tiểu lục địa có sự phát triển. Các
vương thất lớn nhỏ tại Ấn Độ cùng các đền thờ mà họ bảo trợ thu hút một
lượng rất lớn các thần dân đến kinh thành, các kinh thành cũng trở thành những
trung tâm kinh tế. Các đô thị thánh đường với kính cỡ khác nhau bắt đầu xuất
hiện khắp nơi khi Ấn Độ trải qua một quá trình đô thị hóa nữa. Đến thế kỷ VIII
và IX, các ảnh hưởng của Ấn Độ được nhận thấy tại Đông Nam Á, khi mà văn
hóa và hệ thống chính trị Nam Á được truyền bá ra các vùng đất mà nay là một
phần của Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Malaysia,
và Java. Các thương nhân, học giả, và đôi khi là quân nhân Ấn Độ tham gia vào
sự truyền bá này; người Đông Nam Á cũng có sự chủ động, nhiều người lưu lại
một thời gian trong các trường dòng Ấn Độ và dịch các văn bản Phật giáo và
Ấn Độ giáo sang ngôn ngữ của họ.
Các thị tộc du cư Trung Á sử dụng kỵ binh và có các đội quân đông đảo được
thống nhất nhờ dân tộc và tôn giáo, sau thế kỷ X họ liên tiếp tràn qua các đồng
bằng ở tây-bắc của Nam Á, cuối cùng hình thành nên Vương quốc Hồi giáo
Delhi vào năm 1206. Vương quốc này kiểm soát phần lớn bắc bộ Ấn Độ, tiến
hành nhiều hoạt động đánh phá xuống nam bộ Ấn Độ. Mặc dù chính quyền Hồi
giáo ban đầu phá vỡ giới tinh hoa Ấn Độ, song các thần dân phi Hồi giáo của
vương quốc này phần lớn vẫn duy trì được luật lệ và phong tục riêng của
họ. Vương quốc Hồi giáo Delhi nhiều lần đẩy lui quân Mông Cổ trong thế kỷ
XIII, cứu nguy Ấn Độ khỏi cảnh tàn phá giống như ở Trung và Tây Á. Vương
quốc trở thành nơi định cư của những quân nhân bỏ trốn, người có học, pháp
sư, thương gia, nghệ sĩ, thợ thủ công từ khu vực Trung và Tây Á, tạo nên một
nền văn hóa Ấn-Hồi hổ lốn ở bắc bộ Ấn Độ. Các cuộc đột kích của Vương
quốc Hồi giáo Delhi và sự suy yếu của các vương quốc khu vực ở nam bộ Ấn
Độ tạo điều kiện cho Đế quốc Vijayanagara bản địa hình thành. Đế quốc
phương nam này theo một truyền thống Shiva giáo mạnh mẽ và xây dựng nên
kỹ thuật quân sự vượt lên trên Vương quốc Hồi giáo Delhi, kiểm soát được
phần nhiều Ấn Độ Bán đảo, và có ảnh hưởng đến xã hội nam bộ Ấn Độ trong
một thời gian dài sau đó.
1.3.3. Ấn Độ cận đại
Đầu thế kỷ XVI, bắc bộ Ấn Độ khi đó nằm dưới quyền cai trị của các quân chủ
mà phần lớn theo Hồi giáo, song một lần nữa lại sụp đổ trước tính linh động và
hỏa lực vượt trội của một thế hệ các chiến binh Trung Á mới. Đế quốc
Mogul ra đời song không nghiền nát các xã hội địa phương, mà thay vào đó là
cân bằng và bình định họ thông qua các thủ tục quản trị mới cùng giới tinh hoa
cầm quyền vốn có đặc điểm đa dạng và bao dung, tạo ra một nền cai trị có hệ
thống hơn, tập trung hóa và thống nhất. Nhằm tránh xiềng xích bộ lạc và bản
sắc Hồi giáo, đặc biệt là dưới thời Akbar, người Mogul đoàn kết đế chế rộng
lớn của họ thông qua lòng trung thành đối với một hoàng đế có địa vị gần như
thần thánh, biểu đạt một nền văn hóa Ba Tư hóa. Các chính sách kinh tế quốc
gia của Mogul, vốn có phần lớn nguồn thu đến từ nông nghiệp và yêu cầu các
khoản thuế phải trả theo tiền bạc được quản lý chặt, khiến cho các nông dân và
thợ thủ công tiến vào những thị trường lớn hơn. Đế quốc giữ được tình hình
tương đối hòa bình trong phần lớn thế kỷ XVII, và đây là một yếu tố giúp mở
rộng kinh tế Ấn Độ, kết quả là sự bảo trợ lớn hơn đối với hội họa, các loại hình
văn chương, dệt, và kiến trúc. Các nhóm xã hội mới kết hợp tại bắc bộ và tây
bộ Ấn Độ, như Maratha, Rajput, và Sikh, giành được tham vọng về quân sự và
quản trị dưới chế độ Mogul, và thông qua cộng tác hoặc tai họa, họ thu được cả
sự công nhận và kinh nghiệm quân sự. Sự mở rộng thương mại dưới chế độ
Mogul giúp cho giới tinh hoa thương mại và chính trị Ấn Độ mới dọc theo các
bờ biển nam bộ và đông bộ nổi bật lên. Khi đế quốc tan rã, nhiều người trong
giới tinh hoa này có thể theo đuổi và kiểm soát được công việc của họ.
Đầu thế kỷ XVIII, khi mà ranh giới giữa thống trị thương mại và chính trị ngày
càng bị lu mờ, một số công ty mậu dịch phương Tây, bao gồm Công ty Đông
Ấn Anh, thiết lập nên các tiền đồn ven biển. Công ty Đông Ấn Anh có quyền
kiểm soát đối với các vùng biển, tiềm lực lớn hơn, có khả năng huấn luyện
quân sự cùng công nghệ tiến bộ hơn, do vậy thu hút một bộ phận giới tinh hoa
Ấn Độ. Nhờ đó, Công ty Đông Ấn Anh gặp thuận lợi trong việc giành quyền
kiểm soát đối với vùng Bengal vào năm 1765 và gạt các công ty châu Âu khác
ra ngoài lề. Công ty Đông Ấn Anh tiếp tục tiếp cận được sự giàu có của Bengal,
và sau khi tăng cường sức mạng và quy mô quân đội thì Công ty có năng lực
thôn tính hoặc khuất phục hầu hết Ấn Độ vào thập niên 1820. Ấn Độ sau đó
không còn là nhà xuất khẩu hàng hóa chế tạo như một thời gian dài trước đó,
mà trở thành một nơi cung cấp nguyên liệu cho Đế quốc Anh, và nhiều sử gia
xem đây là lúc thời kỳ thực dân tại Ấn Độ bắt đầu. Đương thời, do quyền lực
kinh tế bị Nghị viện Anh Quốc tước bỏ một cách nghiêm trọng và do bản thân
trên thực tế là một cánh tay nối dài của chính phủ Anh Quốc, Công ty Đông Ấn
Anh bắt đầu có ý thức hơn trong việc tiến vào các hoạt động phi kinh tế như
giáo dục, cải cách xã hội, và văn hóa.
1.3.4. Ấn Độ hiện đại
Các sử gia xem thời kỳ hiện đại của Ấn Độ bắt đầu từ giai đoạn 1848–1885.
Việc bổ nhiệm James Broun-Ramsay làm Toàn quyền của Công ty Đông Ấn
Anh vào năm 1848 chuẩn bị cho những thay đổi cốt yếu đối với một quốc gia
hiện đại. Chúng bao gồm củng cố và phân ranh giới chủ quyền, sự giám sát của
người dân, và giáo dục cho công dân. Các biến đổi về công nghệ như đường
sắt, kênh đào, và điện báo được đưa đến Ấn Độ không lâu sau khi chúng được
giới thiệu tại châu Âu. Tuy nhiên, sự bất mãn đối với Công ty cũng tăng lên
trong thời kỳ này, và Khởi nghĩa Ấn Độ 1857 bùng nổ. Cuộc khởi nghĩa bắt
nguồn từ những oán giận và nhận thức đa dạng, bao gồm cải cách xã hội kiểu
Anh, thuế đất khắc nghiệt, và đối đãi tồi của một số địa chủ giàu có và phiên
vương, nó làm rung chuyển nhiều khu vực ở bắc bộ và trung bộ Ấn Độ và làm
lung lay nền móng của Công ty Đông Ấn Anh. Mặc dù cuộc khởi nghĩa bị đàn
áp vào năm 1858, song nó khiến cho Công ty Đông Ấn Anh giải thể và Chính
phủ Anh Quốc từ đó trực tiếp quản lý Ấn Độ. Những người cai trị mới công bố
một nhà nước nhất thể và một hệ thống nghị viện từng bước theo kiểu Anh song
có hạn chế, nhưng họ cũng bảo hộ các phó vương và quý tộc địa chủ nhằm tạo
ra một thế lực hộ vệ phong kiến để chống lại bất ổn trong tương lai. Trong các
thập niên sau đó, hoạt động quần chúng dần nổi lên trên khắp Ấn Độ, cuối cùng
dẫn đến việc thành lập Đảng Quốc đại Ấn Độ vào năm 1885.
Sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật cùng với thương mại hóa nông nghiệp
trong nửa sau thế kỷ XIX gây nên các khó khăn kinh tế: nhiều nông dân nhỏ trở
nên phụ thuộc vào các nhu cầu của các thị trường xa xôi. Số lượng nạn đói quy
mô lớn gia tăng, và có ít công việc công nghiệp được trao cho người Ấn
Độ. Tuy nhiên, nó cũng có những tác động tích cực: trồng trọt mang tính
thương mại, đặc biệt là ở vùng Punjab mới được khơi kênh, khiến sản lượng
lương thực dành cho tiêu dùng nội địa gia tăng. Hệ thống đường sắt giúp cung
cấp đồ cứu tế đến những nơi bị nạn đói nguy cấp, giảm đáng kể chi phí vận
chuyển hàng hóa, và giúp ích cho ngành công nghiệp non trẻ của Ấn Độ. Có
khoảng một triệu người Ấn Độ phục vụ cho Anh Quốc trong Chiến tranh thế
giới thứ nhất, và sau cuộc chiến này là một thời kỳ mới. Thời kỳ này mang dấu
ấn với các cải cách của Anh Quốc song cũng có các áp chế về luật pháp, với
việc người Ấn Độ mãnh liệt hơn trong việc yêu cầu quyền tự trị, và với việc bắt
đầu một phong trào bất bạo động bất hợp tác - trong đó Mohandas Karamchand
Gandhi trở thành lãnh tụ và biểu tượng. Trong thập niên 1930, Anh Quốc ban
hành các cải cách lập pháp một cách chậm chạp; Đảng Quốc đại Ấn Độ giành
chiến thắng trong các cuộc bầu cử. Thập niên tiếp theo chìm trong các cuộc
khủng hoảng: Ấn Độ tham gia vào Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Quốc đại
kiên quyết bất hợp tác, và một đợt bột phát chủ nghĩa dân tộc Hồi giáo. Tất cả
đều bị ngăn lại với việc Ấn Độ giành được độc lập vào năm 1947, song bị kiềm
chế do thuộc địa này phân chia thành hai quốc gia: Ấn Độ và Pakistan.
Tuy được Anh trao trả độc lập trong hòa bình, nhưng mâu thuẫn nội bộ tại Ấn
Độ khiến đổ máu vẫn xảy ra. Tiếp theo và trước khi có sự chia cắt các tỉnh
Punjab và Bengal, bạo động giữa người Sikh, Hindu và Hồi giáo đã bùng nổ ở
một vài nơi, bao gồm Punjab, Bengal và Delhi, làm 500.000 người thiệt
mạng. Ngày 30 tháng 1 năm 1948, trên đường đến một nơi thờ tụng, Mahatma
Gandhi, người lãnh đạo phong trào giành độc lập, bị bắn chết bởi một môn đồ
Ấn giáo cực đoan.
Để khẳng định hình ảnh là một quốc gia độc lập, hiến pháp Ấn Độ được hoàn
thành vào năm 1950, xác định Ấn Độ là một nền cộng hòa thế tục và dân
chủ. Trong 60 năm kể từ đó, Ấn Độ trải qua cả những thành công và thất
bại. Đất nước này vẫn duy trì một chế độ dân chủ với các quyền tự do dân sự,
một Tòa án tối cao hoạt động tích cực, và một nền báo chí độc lập ở mức độ
lớn. Tự do hóa kinh tế bắt đầu từ thập niên 1990, và tạo ra một tầng lớp trung
lưu thành thị có quy mô lớn, biến Ấn Độ thành một trong những nền kinh tế
phát triển nhanh trên thế giới, và tăng cường ảnh hưởng địa chính trị của mình.
Phim, âm nhạc, và giảng đạo của Ấn Độ đóng một vai trò ngày càng lớn trong
văn hóa toàn cầu. Tuy nhiên, Ấn Độ phải đương đầu với các vấn đề như tình
trạng nghèo nàn phổ biến ở cả thành thị lẫn nông thôn, các xung đột liên quan
đến tôn giáo và đẳng cấp, từ quân nổi dậy Naxalite được truyền cảm hứng từ tư
tưởng Mao Trạch Đông, từ chủ nghĩa ly khai tại Jammu và Kashmir và tại
Đông Bắc. Có các tranh chấp lãnh thổ chưa được giải quyết với Trung Quốc,
từng leo thang thành Chiến tranh Trung-Ấn vào năm 1962 (Ấn Độ thua trận và
mất một số lãnh thổ); và các cuộc chiến tranh biên giới với Pakistan bùng phát
vào các năm 1947, 1965, 1971, và 1999. Sự đối đầu hạt nhân Ấn Độ–Pakistan
lên đến đỉnh vào năm 1998.
II. Ấn Độ cái nôi văn hóa lịch sử của Phương Đông
Ấn Độ là một quốc gia nhưng cũng là cả một lục địa, có quan hệ với
Việt Nam không chỉ về chính trị, kinh tế mà còn mật thiết hơn về văn hóa.
Không chỉ cho Đông Dương một nửa cái tên Indo-china, trong quan niệm
truyền thống, Ấn Độ còn được coi là một cội nguồn của văn hóa Đông Dương!
2.1. Tôn giáo