Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

TIEU LUAN QUYEN LAP PHAP (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.64 KB, 32 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn vấn đề nghiên cứu
Hiến pháp Việt Nam đã ghi nhận “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân”[2]. “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp,
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với
hoạt động của Nhà nước”[6].
Trong những năm qua, Quốc hội có nhiều bước đổi mới quan trọng, từ
khâu bầu cử đại biểu Quốc hội đến hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và phương
thức hoạt động, tăng cường bộ phận chuyên trách; làm tốt hơn chức năng lập
pháp... Quốc hội hoạt động thường xuyên hơn, ngày càng dân chủ hơn; tranh
luận, thảo luận một cách thẳng thắn, thiết thực; mở rộng chất vấn, tăng cường
lắng nghe và tiếp xúc cử tri... Hiệu quả và hiệu lực quyền lập pháp không
ngừng nâng cao. Đã xây dựng được Chiến lược lập pháp. Hệ thống pháp luật
đang ngày càng hoàn thiện.
“Bên cạnh những kết quả nêu trên, công tác lập pháp của Quốc hội trong
thời gian qua cũng đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế nhất định. Trong hoạt
động lập pháp, vẫn còn những lĩnh vực của đời sống xã hội chưa có luật điều
chỉnh; còn tình trạng một số luật, pháp lệnh mới được ban hành nhưng chất
lượng chưa cao, thiếu tính khả thi, chậm đi vào cuộc sống. Quá trình xây
dựng một số luật, pháp lệnh chưa thực sự bám sát nhu cầu cuộc sống, dẫn đến
việc phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần, làm ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ
thống pháp luật. Quy trình xây dựng luật, pháp lệnh tuy đã được cải tiến,
nhưng vẫn chưa đồng bộ và có điểm chưa hợp lý; Hoạt động thẩm tra của các
ủy ban của Quốc hội đối với một số dự án luật chưa thể hiện tính phản biện
cao. Quyền trình dự án luật của đại biểu Quốc hội chưa được thực hiện, do

1


thiếu các cơ chế, điều kiện bảo đảm, hỗ trợ cho đại biểu thực hiện quyền của


mình.
Mặt khác, Quốc hội nước ta không hoạt động thường xuyên nên đa số
đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm các chức vụ trong bộ máy chính quyền hoặc
các cơ quan, tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Sự kiêm nhiệm này là cần
thiết và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam, nhưng chỉ nên giới hạn
ở một mức độ, tỷ lệ phù hợp nhằm ngăn ngừa được sự giao thoa về nhiệm vụ,
quyền hạn của người đại biểu, dẫn đến xung đột lợi ích hoặc không đủ điều
kiện và chưa toàn tâm toàn ý để tham gia sâu vào công tác lập pháp và thực
hiện các nhiệm vụ khác của đại biểu một cách thực sự hiệu quả. Do đó, chưa
phát huy được trí tuệ và sự tham gia đông đảo của các đại biểu Quốc hội vào
hoạt động xây dựng, ban hành luật, pháp lệnh”.[10]Vì vậy, trong việc xây
dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam, đảm bảo quyền lực Nhà nước
thực sự của dân, do dân và vì dân vậy nên bản thân chọn “thực trạng quyền
lập pháp trong nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” để nghiên cứu nhằm
làm sáng tỏ cơ sở lý luận. các phương diện lý luận và thực tiễn những năm
qua, dự báo các vấn đề điều chỉnh pháp luật, các giải pháp nhằm tổ chức và
thực hiện một cách có hiệu quả, hiệu lực quyền lập pháp.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm mục đích làm rõ, đánh giá và kiến nghị các vấn đề lý
luận và thực trạng tổ chức quyền lập pháp qua đó thúc đẩy quá trình tổ chức
quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát
triển xã hội Việt Nam.
Để thực hiện mục đích trên đây, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Làm sáng tỏ và đánh giá nhận thức lý luận về quyền lập pháp trong
Nhà nước pháp quyền Việt Nam;
- Đánh giá thực trạng tổ chức quyền lập pháp trong Nhà nước ta từ khi

2



đổi mới đến nay;
- Kiến nghị các vấn đề lý luận và tổ chức thực tiễn quyền lập pháp trong
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Làm rõ các khía cạnh lý luận cơ bản về quyền lập pháp trong NNPQ
XHCN Việt Nam;
- Đánh giá thực trạng nhận thức và thực thi quyền lập pháp;
- Đề xuất các quan điểm, nội dung và các giải pháp nâng cao hiệu quả
của quyền lập pháp trong NNPQ XHCN Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng:
o

Phương pháp phân tích và tổng hợp;

o

Phương pháp hệ thống;

o

Phương pháp so sánh;

o

Phương pháp lịch sử;

3



NỘI DUNG
Chương 1
QUYỀN LẬP PHÁP TRONG CƠ CẤU QUYỀN LỰC
CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
1.1. Quyền lập pháp trong Nhà nước pháp quyền
1.1.1. Khái niệm quyền lập pháp
Nghiên cứu quyền lập pháp chúng ta cần phân biệt quyền lập pháp với
ý nghĩa là một bộ phận quyền lực nhà nước với hoạt động lập pháp, tức là
hoạt động của các chủ thể thực hiện quyền lập pháp và với cơ quan lập pháp
tức là cơ quan có thẩm quyền đại diện cho nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước – quyền lập pháp. Bên cạnh đó, còng cần phân biệt hoạt động lập pháp,
quyền lập pháp với quy trình lập pháp.
Quyền lập pháp là một bộ phận của quyền lực nhà nước. Trong nhà
nước pháp quyền, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Do đó chủ thể quyền
lực nhà nước nói chung, quyền lập pháp nói riêng là nhân dân. Nhưng nếu
nhân dân không được tổ chức thành nhà nước thì quyền lực nhân dân không
thể trở thành quyền lực nhà nước. Vì vậy, trong chế độ dân chủ, nhân dân tổ
chức nên nhà nước, và thông qua nhà nước để thực hiện quyền lực của mình.
Nói cách khác, tổ chức bộ máy nhà nước được nhân dân sử dụng để thực hiện
quyền lực nhà nước bao gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư
pháp. Pháp luật là phương thức, là công cụ thể hiện quyền lực nhà nước; trong
nhà nước dân chủ, pháp luật là sự thể hiện ý chí và quyền lực nhân dân. Vì
vậy, cơ quan lập pháp phải là cơ quan do nhân dân lập nên, cơ quan đại diện
của nhân dân. Đó là Quốc hội (Nghị viện).

4


Quyền lập pháp chỉ có thể thực hiện tốt và có hiệu quả nếu có sự phối

hợp nhịp nhàng của quyền hành pháp và quyền tư pháp. Quyền lực tư pháp
trong Nhà nước pháp quyền không những độc lập mà còn có thể giám sát cả
hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp
thì quyền lập pháp là nhánh quyền lực, hay bộ phận quyền lực có uy thế và
tập trung nhất của dân chủ bởi quyền lập pháp có chức năng tạo nền tảng
pháp lý cho toàn bộ tổ chức và hoạt động của các chủ thể trong xã hội;
phương thức và nguyên tắc hoạt động của thiết chế lập pháp luôn luôn đảm
bảo dân chủ, công khai, minh bạch hơn so với các bộ phận thiết chế khác, vai
trò đại diện cho quyền lực nhân dân thể hiện rõ ràng hơn thiết chế quyền lực
khác, đồng thời đảm bảo sự thống nhất của quyền lực nhân dân bằng việc tạo
lập hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ và đảm bảo hiệu lực, hiệu quả.
1.1.2. Một số đặc điểm cơ bản của quyền lập pháp trong Nhà nước
pháp quyền
Thứ nhất, đặc điểm dễ nhận thấy nhất của quyền lập pháp là bộ phận
gắn liền với thiết chế dân chủ đại diện cao nhất, tập trung và mang tính tập
thể: đó là Nghị viện (Quốc hội).
Thứ hai, quyền lập pháp là bộ phận duy nhất tạo ra các đạo luật, trong
đó có Hiến pháp, thong qua đó thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân,
đồng thời thể chế hóa quan điểm chính trị của Đảng cầm quyền.
Thứ ba, quyền lập pháp là bộ phận có thẩm quyền tạo nền tảng pháp lý
cho việc tổ chức và hoạt động của các thiết chế hành pháp, tư pháp và thực
hiện việc giám sát hoạt động của các bộ phận hành pháp.
1.2. Những giá trị phổ biến và những đặc thù trong tổ chức, thực hiện
quyền lập pháp trong Nhà nước pháp quyền

5


1.2.1. Những nội dung chủ yếu thể hiện các giá trị phổ quát và đặc
thù của quyền lập pháp trong Nhà nước pháp quyền

Cái phổ biến là phạm trù triết học dùng để chỉ những nét, những mặt,
những hiện tượng và quá trình, những mối liên hệ và quan hệ tồn tại và được
lặp đi lặp lại trong các sự vật của thế giới khách quan. Còn cái đặc thù là
những cái phổ biến tồn tại trong tính đa dạng của sự vật và hiện tượng trong
thế giới khách quan.
(*) Giá trị phổ quát thứ nhất: đặc trưng, thuộc tính cơ bản nhất của
Nhà nước pháp quyền là dân chủ, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, thể hiện
ở những nét lớn sau đây:
Thứ nhất, để thực hành dân chủ, bất kỳ Nhà nước pháp quyền nào
còng đảm bảo tính chính đáng của quyền lực nhà nước, thông qua phương
thức bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, qua đó thiết lập nên những thiết
chế nhà nước, đại diện cho quyền lực nhân dân để quản lý, đảm bảo trật tự xã
hội, bảo vệ quyền con người.
Thứ hai, tính đặc thù trong giá trị phổ quát của quyền lực nhân dân còn
thể hiện trong hình thức, thiết chế dân chủ đại diện. Dân chủ đại diện tập
trung nhất, cao nhất là Nghị viện (Quốc hội). Đây là giá trị phổ quát. Tuy
nhiên, đại đa số các nước dân chủ tư sản áp dụng hình thức đại diện “ủy
thác”; vì thế sự tách biệt, sự “tha hóa” quyền lực ở đây là rất lớn. Việt Nam
chúng ta đã nhất quán lựa chọn mô hình đại diện “đại biểu”. Quốc hội và Hội
đồng nhân dân ở Việt Nam đều là cơ quan đại biểu của nhân dân.
(*) Giá trị phổ quát thứ hai của quyền lập pháp trong Nhà nước pháp
quyền đó là Quốc hội (Nghị viện), cơ quan đại diện cao nhất, tập trung nhất
cho quyền lực nhân dân, là cơ quan lập pháp, đồng thời là cơ quan tổ chức,

6


kiểm sóat hoạt động hành pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước.
(*) Giá trị phổ quát thứ ba của quyền lập pháp trong Nhà nước

pháp quyền là tính chính đáng, tính hợp hiến, hợp pháp của việc tổ chức và
thực hiện quyền lập pháp.
(*) Giá trị phổ quát thứ tư của quyền lập pháp là: mục tiêu của
quyền lập pháp, giới hạn của quyền lập pháp là quyền con người: bảo
đảm và bảo vệ quyền con người
(*) Giá trị phổ quát và giá trị đặc thù thứ năm trong Nhà nước pháp
quyền Việt Nam là mức độ thể hiện của nguyên tắc phân quyền giữa các bộ
phận lập pháp, hành pháp, tư pháp ngày càng rõ ràng, do đó quyền lực nhân
dân ngày càng đề cao với các phương thức thực hiện quyền dân chủ ngày
càng tăng cường, Quốc hội ngày càng thực hiện quyền, Chính phủ ngày càng
lớn mạnh, hiệu quả trong quản lý, tư pháp ngày càng đôc lập hơn.
(*) Giá trị phổ quát thứ sáu: trong Nhà nước pháp quyền là sự tham
gia, sự lãnh đạo của chính đáng trong cơ chế quyền lực nói chung, quyền lập
pháp nói riêng. Sự lãnh đạo của các chính đảng, hay sự tham gia của các
chính đảng vừa là giá trị phổ quát, vừa mang những nét đặc thù trong cơ chế
tổ chức và thực hiện quyền lực của Nhà nước pháp quyền Việt Nam, sự lãnh
đạo của Đảng là một nguyên tắc.
(*) Giá trị phổ quát thứ bảy:
Cơ cấu và cách thức tổ chức của các cơ quan lập pháp: Nghị viện
(Quốc hội) là cơ quan đại diện cao nhất cho ý chí và nguyện vọng của nhân
dân.
(*) Một số nhận xét về quyền lập pháp và cơ quan lập pháp trong
Nhà nước pháp quyền

7


+ Với sự ra đời của chế độ dân chủ, quyền lập pháp được giao cho Nghị
viện trong lịch sử phát triển của Nhà nước tư sản, dù ở chính thể Cộng hòa đại
nghị hay chính thể cộng hòa Tổng thống, quyền lập pháp vẫn là nhánh quyền

lực có vị trí tối cao so với hai nhánh quyền lực còn lại. Điều này không chỉ
bởi vì quyền lập pháp do các đại diện được nhân dân bầu ra thực hiện mà còn
vì quyền lập pháp tạo ra cơ sở pháp lý, hợp thức hóa các nhánh quyền lực còn
lại, ban hành các đạo luật cho việc tổ chức và hoạt động các cơ quan Nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội, và tiếp theo là thực hiện việc giám sát các
hoạt động của cơ quan đó.
+ Hình thức thể hiện quyền lập pháp
Xuất phát từ những đặc điểm lịch sử hình thành và phát triển, mà quyền
lập pháp được thể hiện dưới các hình thức sau:
- Thực hiện chức năng xây dựng pháp luật.
- Giám sát việc thực hiện pháp luật.
- Phê chuẩn, sử dụng, phân bổ hoạc quyết toán ngân sách.
- Quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
- Thành lập những chức vụ Nhà nước quan trọng.
Như vậy, quyền lập pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam vừa có những đặc điểm của tính phổ quát, những quy luật phát
triển của cơ chế quyền lực trong Nhà nước pháp quyền nói chung, vừa mang
những đặc thù trong cơ cấu tổ chức và nguyên tắc tổ chức hoạt động.
Định nghĩa quyền lập pháp: là một trong những nội dung, phương diện
hoạt động của quyền lực nhân dân được nhân dân thực hiện trực tiếp hoặc
thông qua cơ quan đại diện của mình nhằm đưa ý chí nguyện vọng, lợi ích của
nhân dân vào các đạo luật và đảm bảo chúng được thực hiện trên thực tế.
1.2.2. Những đặc điểm cơ bản trong cơ chế tổ chức, thực hiện quyền
lập pháp ở các nhà nước tư sản hiện đại

8


1.2.2.1. Sự thể hiện học thuyết tam quyền phân lập trong tổ chức quyền
lực nhà nước

Tính chất, mức độ thể hiện thuyết tam quyền phân lập ở các nước rất
khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trước hết, đó là hình thức chính thể
nhà nước, sự thể hiện của sự phân quyền có thể coi là một trong các tiêu chí
phân biệt các hình thức chính thể nhà nước.
Thứ hai là hình thức cấu trúc nhà nước là liên bang hay nhà nước đơn
nhất.
Thứ ba là vấn đề chính trị.
Thứ tư là những truyền thống dân tộc lịch sử còng như tình hình chính
trị thực tế ở từng nước.
Trên thế giới có thể phân chia các nước áp dụng thuyết phân quyền ở
ba mức độ khác nhau: cứng rắn, mềm dẻo và trung gian.
Sự phân quyền mềm dẻo: ở những nước có chính thể đại nghị
Sự phân quyền cứng rắn ở những nước có chính thể cộng hòa tổng
thống.
Sự phân quyền trung gian: ở các nước chính thể hỗn hợp.
1.2.2.2. Mô hình hiện thực của Nhà nước pháp quyền ở các nước tư sản
Thực tế cho đến nay, ở các nước dân chủ tư sản phát triển, trong một
mức độ nhất định vẫn tồn tại thuyết đặc miễn quốc gia (Nhà nước không phải
chịu trách nhiệm). Mặc dù vậy, học thuyết về Nhà nước pháp quyền cùng với
cách mạng tư sản ở Châu Âu đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình cách
mạng dân chủ trong các quốc gia thuộc các Châu lục trên thế giới.
Thực tế áp dụng tư tưởng Nhà nước pháp quyền ở các nước diễn biến rất
đa dạng. Nền chính trị, đối kháng giai cấp, truyền thống văn hoá và đặc điểm

9


dân tộc khác nhau trong từng thời kỳ lịch sử đã dẫn đến sự khác nhau trong
nhận thức và phương pháp tổ chức quyền lực Nhà nước, vận dụng các đặc
trưng chung của Nhà nước pháp quyền.

1.3. Các yếu tố cơ bản tác động đến quyền lập pháp trong quá trình hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam
1.3.1. Yếu tố chính trị
Như vậy chính trị là mối quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp, các tập
đoàn trong xã hội, thể hiện trong đường lối chính trị của Đảng cầm quyền,
mục tiêu và định hướng phát triển của dân tộc, quốc gia trong những giai đoạn
phát triển nhất định.
Việc tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước nói chung, quyền lập
pháp nói riêng trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam chịu tác động
bởi yếu tố chính trị với những nội dung sau:
- Về quan điểm chính trị: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”[4],
“Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”[3].
- Hệ thống chính trị và sự lãnh đạo của Đảng
Cùng với quan điểm chính trị đó là hệ thống chính trị trong thời kỳ quá
độ với các thiết chế cơ bản bao gồm Nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân, vì dân; Mặt trận thống nhất đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt NamViệt Nam. Nội dung, mục tiêu và động lực của toàn

10


bộ hệ thống chính trị là nền dân chủ XHCN. Điều đó nói lên tính mục tiêu vì
nhân dân của hệ thống chính trị. Dân chủ với tính cách là phạm trù chính trị

không chỉ thể hiện trong phạm vi cả nước mà còn là đặc trưng của các tổ
chức chính trị - xã hội đối với cơ quan tổ chức ở Trung ương và cả hệ thống
chính trị ở cơ sở.
1.3.2. Yếu tố kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: đảm
bảo tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội và phát triển bền vững
Quan hệ giữa kinh tế với Nhà nước và pháp luật là mối quan hệ biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng, trong dó điều kiện kinh tế
là tiền đề cơ sở quyết định hình thức và nội dung điều chỉnh pháp luật và
ngược lại, tính năng động và hiệu quả của Nhà nước và pháp luật đảm bảo và
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Hội nghị T.Ư lần này đã làm rõ khái niệm nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN mà nước ta xây dựng. Đó là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng
bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng
XHCN phù hợp từng giai đoạn phát triển của đất nước; là nền kinh tế thị
trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền
XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhằm mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Với nhận thức như vậy, đổi mới kinh
tế trong giai đoạn đến năm 2020 là việc tiếp tục thực hiện các giải pháp thúc
đẩy chuyển đổi mạnh mẽ nền kinh tế Việt Nam sang kinh tế thị trường hiện
đại và hội nhập quốc tế theo các chuẩn mực được quốc tế thừa nhận, trong đó,
trọng tâm là việc Nhà nước chủ động thay đổi vai trò bảo đảm thực hiện đúng
và đủ các chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, thay đổi mối
quan hệ giữa Nhà nước và thị trường; làm cho thị trường, nhất là thị trường
các yếu tố sản xuất hoạt động đầy đủ, không méo mó, không sai lệch và trở
thành yếu tố quyết định trong phân bổ nguồn lực xã hội.[1]

11


1.3.3. Xu thế dân chủ hóa và tăng cường bảo vệ quyền con người

Một trong những điều kiện chính trị cần thiết của dân chủ là sự hiện
diện nhà nước pháp quyền. Trên một phương diện, lý thuyết về nhà nước pháp
quyền là lý thuyết về dân chủ còng như bảo đảm pháp luật việc thực hiện
quyền con người, quyền công dân. Tự do của con người đồng nghĩa với sự thu
hẹp tự do của nhà nước. Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm quyền
của con người, quyền công dân, đồng thời đòi hỏi sự tuân thủ, thi hành pháp
luật không có ngoại lệ, trước hết là từ phía những người được giao giữ công
quyền. Tóm lại, nhà nước pháp quyền trước hết là giá trị có tính phổ quát, đó
là nhà nước bảo đảm quyền con người, quyền công dân và là nhà nước dân
chủ. Tuy nhiên, nhà nước pháp quyền ở mỗi quốc gia bao giờ còng có đặc thù.
Nhìn tổng quát, ở nước ta, sự hiện diện của Nhà nước pháp quyền đang
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, cùng với nó là kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa dù chưa được hoàn chỉnh đang là tiền đề, điều kiện cơ
bản cho việc xây dựng, mở rộng nền dân chủ thực sự. Trong đó, kinh tế thị
trường là yếu tố bên trong với tư với là cơ sở hạ tầng thúc đẩy và quyết định
dân chủ với tính cách là yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng. Nhà nước pháp
quyền là nhân tố chính trị tương thích với kinh tế và là thể hiện trên phương
diện chính trị của yếu tố kinh tế, đồng thời là nhân tố trực tiếp gắn với dân
chủ. Tuy nhiên, còng cần nhấn mạnh một lần nữa rằng kinh tế thị trường và
nhà nước pháp quyền mới chỉ là các cơ sở, tiền đề cho dân chủ. Còn dân chủ
chỉ có thể là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài đưa lại, chứ không phải là quà
tặng của “thượng đế”. Dân chủ còn là kết quả của sự tích luỹ của nhiều nhân
tố khác nhau: sự kế thừa các thành quả đạt được, kinh nghiệm chính trị, trình
độ dân trí và vai trò tích cực của công dân và còng rất đáng chú ý là xu hướng
toàn cầu hoá…
1.3.4. Sự phát triển khoa học công nghệ và kinh tế tri thức

12



Sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin
đó làm thay đổi rất nhiều mặt của đời sống xã hội, tác động lớn đến những
vấn đề lý luận và thực tiễn của nhà nước và pháp luật. Những thành tựu của
khoa học công nghệ còng tạo điều kiện thúc đẩy hiện đại hóa tổ chức bộ máy
nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước, trong đó có quyền lập pháp. Mặt
khác, quyền lập pháp phải tạo cơ sở pháp lý, các chính sách để phát triển khoa
học – công nghệ, đảm bảo thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
cơ sở cho mục tiêu xây dựng CNXH ở Việt Nam.

13


Chương 2.
Thực trạng nhận thức và tổ chức và thực hiện quyền lập pháp trong quá
trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam
2.1. Thực trạng nhận thức về quyền lập pháp trong cơ chế quyền lực Nhà
nước pháp quyền Việt nam
2.1.1. Khái quát chung
Một điều đáng lưu ý là nhận thức về tính phổ biến trong cơ chế quyền
lực nhà nước đó là nội hàm của quyền lập pháp không chỉ có mỗi việc làm ra
luật; tiếp theo (vì cả trước khi) làm ra luật, thiết chế lập pháp còn thực hiện
việc thành lập( cùng việc ban hành các luật tổ chức bộ máy) các thiết chế
hành pháp và tư pháp, thực hiện quyền kiểm soát (giám sát) thực hiện quyền
lực nhà nước.
Đặc biệt của quyền lập pháp trong cơ chế quyền lực thống nhất có sự
phân công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp, vài trò của Hiến pháp trong tổ chức và giới hạn quyền lực, sự độc lập
của tư pháp, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền tự do dân chủ của
nhân dân, sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.
Vậy nên cần phân biệt quyền lập pháp (khách quan) với quyền lập pháp

chủ quan (tức là quyền năng lập pháp) trong hoạt động lập pháp. Trưng cầu
dân ý là một phương thức của hoạt động lập pháp, quyền năng cụ thể để thực
hiện quyền lập pháp. Hoạt động này mang tính chất quyền lực Nhà nước, phải
do cơ quan quyền lực đứng ra tổ chức thực hiện và kiểm soát, cơ quan đó là
Quốc hội. Hiến pháp Việt Nam đã ghi nhận điều này.
2.1.2. Nhận thức về mối quan hệ giữa chủ quyền tối cao của nhân
dân với quyền lập pháp và cơ chế quyền lực nhà nước trong Nhà nước
pháp quyền XHCN

14


Mục tiêu và bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN có một số đặc
điểm sau đây:
Trước hết, mục tiêu và định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam bắt nguồn từ yêu cầu khẳng định và nhằm bảo đảm trên thực tế chủ
quyền nhân dân: thể hiện ở hiệu lực tối cao của Hiến pháp
Thứ hai, sự thống nhất của quyền lực thể hiện ở sự thống nhất của hệ
thống chính sách và pháp luật, công cụ thể hiện và thực hiện ý chí, lợi ích của
nhân dân.
Thứ ba, cơ chế kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền
Thứ tư, sự lãnh đạo của Đảng
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện quyền lập pháp ở Việt Nam
2.2.1. Nguyên tắc tổ chức quyền lực của Nhà nước Việt Nam
Quyền lực nhà nước nói chung, quyền lập pháp nói riêng được tổ chức
và thực hiện theo những nguyên tắc sau đây:
Một là, Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Hai là, Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Ba là, Nguyên tắc tập trung dân chủ

Bốn là, Nguyên tắc pháp chế
Năm là, Nguyên tắc Đảng lãnh đạo.
2.2.2. Chủ thể và cơ quan lập pháp
Điều 2 Hiến pháp 2013 đã khẳng định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân
dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí

15


thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp.
Vị trí, tính chất của Quốc hội, “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất
của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp,
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với
hoạt động của Nhà nước”[7], vì vậy thể hiện tính đại diện nhân dân và tính
quyền lực nhà nước trong tổ chức và hoạt động của mình.
Về cơ cấu, tổ chức Quốc hội
Quốc hội được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ dưới sự lãnh
đạo của Đảng. “Tổng số đại biểu Quốc hội không quá năm trăm người, bao
gồm đại biểu hoạt động chuyên trách và đại biểu hoạt động không chuyên
trách”[9].
Ngoài Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc
hội, Quốc đã thành lập Hội đồng dân tộc và 9 Ủy ban thường trực theo Luật
Tổ chức Quốc hội. Quốc hội Việt Nam tự giám sát hoạt động của mình, chịu
sự giám sát của nhân dân. Phần lớn các đại biểu Quốc hội hoạt động kiêm

nhiệm, có thể kiêm nhiệm chức vụ trong các cơ quan hành pháp và tư pháp.
Đại biểu Quốc hội có thể là thành viên hoặc không phải là thành viên của Hội
đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội; các Phó Chủ tịch Quốc hội có thể kiêm
nhiệm chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội.
Phương thức hoạt động của Quốc hội
Quốc hội họp thường lệ mỗi năm hai kỳ, mỗi kỳ họp kéo dài trên một
tháng. Quốc hội làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số. Các
Ủy ban thường trực của Quốc hội giữ vai trò quan trọng trong hoạt động giám
sát và thẩm tra các dự án, báo cáo trình Quốc hội. Hội đồng dân tộc, các Ủy

16


ban của Quốc hội làm việc không thường xuyên; tiến hành họp theo yêu cầu
công việc, phần lớn các thành viên của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của
Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm.
2.2.3. Quyền lập pháp của Quốc hội
Từ tổng kết thực tiễn xây dựng pháp luật của nước ta trong những năm
qua, có thể nói rằng Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp. Chí có
Quốc hội mới có quyền định ra các quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý
cao nhất, điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản. Các văn bản quy phạm pháp
luật của các cơ quan khác của nhà nước phải căn cứ và không được trái với
các quy định của hiến pháp và luật. Hoạt động lập pháp của Quốc hội được
bắt đầu từ giai đoạn cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền trình dự án luật, trình
dự án pháp lệnh ra trước các cơ quan của Quốc hội. Theo đó bắt đầu công
đoạn trình dự án ra trước Quốc hội. Quốc hội phải chịu trách nhiệm về chất
lượng của dự án luật được xem xét, thông qua. Việc thể hiện nội dung cũng
như hình thức văn bản, kể cả kỹ thuật lập pháp là thuộc trách nhiệm của Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội, chứ không phải của cơ quan, tổ chức, cá nhân
trình dự án luật.

Hiện nay, một vấn đề thời sự là cần làm rõ việc uỷ quyền lập pháp của
Quốc hội trong điều kiện hiện nay ở nước ta.
2.2.4. Quyền lập pháp với tư cách là quyền của cơ quan quyền lực
Nhà nước cao nhất
- Điều 69 Hiến pháp 2013 quy định Quốc hội thực hiện quyền lập
hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám
sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước tức là quyền thông qua Hiến pháp
và sửa đổi Hiến pháp, thông qua Luật và sửa đổi luật.

17


Trong hệ thống pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội
ban hành chiếm vị trí quan trọng và chủ yếu. Đây là các văn bản điều chỉnh
những vấn đề quan trọng và cơ bản nhất của đời sống kinh tế - xã hội của đất
nước.
Việc xác định rõ nội dung của văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội
ban hành có ý nghĩa quan trọng, không chỉ liên quan đến hoạt động ban hành
văn bản quy phạm pháp luật mà còn liên quan đến việc xác định vị trí, chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, thể hiện sự phân
định thẩm quyền của Quốc hội với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước.
Đây cũng là cơ sở cho việc xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất, khắc
phục được những mâu thuẫn, chồng chéo, đáp ứng những đòi hỏi của việc xây
dựng nhà nước pháp quyền. Do đó, vấn đề này, trong thời gian tới cần phải
được tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi theo hướng xác định rõ ràng, cụ thể nội
dung của văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành.
Bên cạnh đó, Quốc hội còn giao cho Ủy ban thường vụ Quốc “ra pháp
lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao; giải thích Hiến pháp, luật, pháp
lệnh”;[8]
Trong thực tiễn thực hiện, vấn đề Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành

pháp lệnh hay nghị quyết để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong một số
trường hợp sẽ không tránh khỏi có sự tranh cãi.
Hoạt động lập pháp của Quốc hội: Quốc hội tổ chức và quyết định
lập pháp
Hoạt động lập pháp là một trong những hình thức hoạt động cơ bản
nhất của Quốc hội. Việc tạo ra các văn bản quy phạm pháp luật, phản ánh
được nhu cầu phát triển khách quan của xã hội là vấn đề có ý nghĩa quyết
định đối với chất lượng và hiệu quả của quản lý nhà nước. Hoạt động lập
pháp là hoạt động mang tính sáng tạo, là quá trình nhận thức các quy luật xã

18


hội, đặc biệt là vấn đề lợi ích, xác định tầm quan trọng của các quan hệ xã hội,
từ đó xác định phạm vi và phương pháp điều chỉnh đúng đắn đối với chúng.
Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền phụ thuộc rất lớn vào viêc xây
dựng pháp luật và thi hành pháp luật mà nội dung trọng tâm là hoạt động làm
luật của Quốc hội. Quyền lực của Quốc hội được kết tinh trong các quy định
của luật. Do vậy, có thể nói, quyền lực thực tế của Quốc hội được đo bằng
hiệu lực thực tế của các đạo luật trong thực tiễn.
2.2.5. Hình thức tổ chức thực hiện quyền lập pháp của Quốc hội
Nội dung của quy trình lập pháp chính là việc xác định các thủ tục,
trình tự, các giai đoạn hoạt động có quan hệ chặt chẽ với nhau mà Quốc hội,
các cơ quan Quốc hội, đại biểu Quốc hội, các cơ quan khác, tổ chức và cá
nhân có trách nhiệm trong hoạt động lập pháp phải tuân theo một cách
nghiêm chỉnh và triệt để. Trong quy trình lập pháp, sự tham gia phối hợp giữa
các cơ quan đóng một vai trò hết sức quan trọng.
Điều 69 Hiến pháp 2013 quy định “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến,
quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối
cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Như vậy, Quốc hội vừa làm luật và sửa

đổi luật, vừa giám sát, quyết định về việc một đạo luật, nghị quyết có chứa
quy phạm pháp luật do chính Quốc hội ban hành có phù hợp với Hiến pháp
hay không. Đồng thời, Quốc hội còn thực hiện quyền giám sát tối cao việc
tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội đối với hoạt động của các
chủ thể khác trong việc thực thi quyền lực nhà nước, trong đó có việc thực thi
quyền lập pháp.
2.3. Quốc hội và các chủ thể khác của quyền lập pháp
Với tư cách là cơ quan QLNN cao nhất thay mặt nhân dân Quốc hội đã
đảm đương vai trò chủ thể lập pháp. Vai trò này đã và đang ngày càng được

19


khẳng định. Lập pháp là một trong những hoạt động quan trọng và đặc trưng
nhất của Quốc hội. Thông qua hoạt động này, Quốc hội thể hiện quyền lực
cao nhất, tập trung và thống nhất ở nhân dân.
Trong hoạt động lập pháp còn có sự tham gia của đông đảo tầng lớp
nhân dân – một chủ thể của sáng tạo pháp luật. Nhân dân không chỉ uỷ quyền
cho Quốc hội lập pháp, mà còn trực tiếp tham gia đóng góp ý kiến xây dựng
các dự án luật. Bảo đảm cho nhân dân phát huy được quyền làm chủ của mình
trong hoạt động lập pháp vừa là nguyên tắc lập pháp, vừa là điều kiện tiên
quyết nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp.

20


Chương 3
Quan điểm, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện quyền
lập pháp trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam
3.1. Nhu cầu khách quan và những định hướng cơ bản trong việc hòan

thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện quyền lập pháp trong Nhà nước
pháp quyền Việt Nam.
3.1.1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và bảo đảm tính chính
đáng của quyền lập pháp
- Tính chính đáng ở đây được dùng để nói về chủ thể của quyền lực nhà
nước. Chỉ có nhân dân lao động mới là chủ thể đích thực của quyền lực nhà
nước: Quyền lập pháp; Quyền hành pháp; Quyền tư pháp.
- Có thể hiểu, có chính phủ chính đáng và cũng có chính phủ không chính
đáng. Tính chính đáng của Chính phủ được quy định bởi sự tuân thủ pháp
luật, cái mà do nhân dân làm ra. Nói cách khác, tính chính đáng phải có cơ sở
để xác định. Trong trường hợp này là pháp luật chính đáng, tức là pháp luật do
nhân dân làm ra.
- Trên lĩnh vực chính trị học, TS. Đặng Đình Tân, Viện Chính trị học, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh có đề cập đến “Tính chính
đáng của đảng cầm quyền trong các thể chế chính trị tư bản” và nêu ra 4 tiêu
chí để xác nhận tính chính đáng như sau:
Một là, tính hợp Hiến, hợp pháp, tức là vai trò cầm quyền phải được thừa
nhận bằng đa số trong xã hội;
Hai là, các cuộc tranh cử trong bầu cử các cơ quan quyền lực công phải
diễn ra thật sự dân chủ;
Ba là, tính chính đáng của Đảng cầm quyền phải thể hiện ở tính hợp lý
trong các quyết định của đảng về các chính sách công: phải đáp ứng các yêu
cầu phát triển của xã hội; phân bổ hợp lý các giá trị; tháo gỡ được những bức

21


xúc; giải quyết được các xung đột lợi ích giữa các lực lượng, các cộng đồng,
các giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
Bốn là, thể hiện trong vai trò của Nhà nước – một Nhà nước hiệu quả.

Tính chính đáng ở đây đòi hỏi các công đoạn làm luật phải được cụng
khai, minh bạch để chủ thể đích thực của quyền lập pháp cú thể kịp thời biết,
kịp thời bàn và kịp thời kiểm tra. Mặt khác, tính chính đáng phải được thể
hiện trong toàn bộ quá trình hoạt động làm Luật, xem quá trình này là một
chỉnh thể và được thể hiện trong từng công đoạn làm Luật.
Tính chính đáng của hoạt động làm Luật với tính cách là một
quá trình thống nhất
Từ những bản chất và vai trò của pháp luật cho phép rút ra được những
nguyên tắc gì của việc làm Luật ở nước ta hiện nay?
Một là, nguyên tắc khách quan và khoa học. [11 – tr408-412]
Hai là, nguyên tắc dân chủ.
Ba là, nguyên tắc pháp chế.
Pháp chế ở đây được hiểu là tuân thủ pháp luật. Làm Luật càng không
được vi phạm pháp luật, cả về nội dung, hình thức và thẩm quyền.
Bốn là, nguyên tắc điều chỉnh đồng bộ, có hệ thống.
3.1.2. Hoàn thiện quyền lập pháp đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế
- xã hội
Thể chế nhà nước, trong nền kinh tế toàn cầu ngày nay cũng là một
trong những yếu tố của chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia. Nhưng điều quan
trọng nhất, là quyền lập pháp và hệ thống pháp luật phải được hoàn thiện, đảm
bảo tính thống nhất, đồng bộ làm cơ sở cho sự phát triển bền vững của nền
kinh tế.
Cần tăng cường hơn nữa vai trò của Quốc hội thông qua năng lực của
đại biểu, các cơ quan Quốc hội trong việc giám sát hành pháp và sự độc lập

22


của Tư pháp cũng như của các bộ phận quyền lực gắn kết nhiều hơn nữa với
trách nhiệm trước nhân dân.

3.1.3. Nhu cầu mở rộng và phát triển nền dân chủ XHCN trong Nhà
nước pháp quyền
Sự tham gia của nhân dân vào quyền lập pháp của Quốc hội là cần thiết
bởi các lý do sau đây:
- Thông qua bầu cử, nhân dân lựa chọn cho mình các đại biểu có phẩm
chất và năng lực cần thiết để thay mặt họ thực hiện các hoạt động lập pháp. Phát huy trí tuệ của nhân dân trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật..
- Bảo đảm để luật phản ánh đúng thực chất ý chí, nguyện vọng của
nhân dân. Nhân dân là chủ. ý chí của họ cần phải được thể hiện trong luật.
- Dân chủ hoá quyền lập pháp còn là cách thức làm cho luật phù hợp
với đời sống thực tế, nâng cao hiệu quả điều chỉnh của nó trong đời sống xã
hội.
- Dân chủ hoá quyền lập pháp còn là phương thức nâng cao uy tín của
Đảng và Quốc hội, tạo nên sự gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
- Thông qua việc biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý kiến
nhân dân về các luật.
3.1.4. Đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
Nền kinh tế Việt Nam đang trên con đường phát triển và chuyển đổi từ
nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã có nhiều nỗ lực về mọi mặt trong đó có
sự nỗ lực to lớn trong công tác lập pháp, lập quy. Khuôn khổ pháp lý mới cho
các hoạt động đầu tư kinh doanh về cơ bản đã được thiết lập nhưng dẫu sao
vẫn còn dáng dấp và hình bóng của cơ chế cũ mà không dễ gì ngày một ngày
hai có thể bỏ qua, đó chính là thách thức hết sức to lớn đối với chúng ta. Đơn
cử khi chúng ta ký Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ thì một loạt các vấn đề

23


như đòi hỏi tính minh bạch của pháp luật cần phải được nghiên cứu giải quyết
(chẳng hạn như đòi hỏi pháp luật phải được xây dựng và phổ biến công khai,

phải được biết trước; phải rõ ràng, nhất quán; phải có tính ổn định tương đối);
hay vấn đề rà soát các văn bản có liên quan sao cho đảm bảo tính thực thi của
hiệu lực Hiệp định (như vấn đề đăng công báo và công tác công báo; vấn đề
các văn bản có tính chất áp dụng chung nhưng không phải là văn bản quy
phạm pháp luật; vấn đề thời hạn có hiệu lực của văn bản pháp luật mới; vấn
đề được quyền góp ý vào dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; vấn đề bảo
đảm văn bản quy phạm pháp luật với các điều ước quốc tế; vấn đề công bố
các văn bản chưa được công bố,...), chưa nói đến Luật thương mại Việt Nam
chưa có quy định về thương mại dịch vụ, pháp luật chuyên ngành cũng chưa
đầy đủ như trong các lĩnh vực bảo hiểm, xây dựng, vận tải,... Đó là những cản
trở lớn đối với quá trình đàm phán, ký kết và hội nhập của nước ta.
Nhà nước trong quá trình cải cách sẽ tiến tới tổ chức một Quốc hội với
những đại biểu của dân mang tính chuyên nghiệp cao, tăng số lượng đại biểu
Quốc hội hoạt động chuyên trách, có trình độ học vấn cao, nhất là năng lực
am hiểu luật pháp, năng lực làm công tác xã hội, vận động quần chúng. Chính
quyền địa phương và chính quyền cơ sở là những mắt xích quan trọng trong
hệ thống tổ chức quyền lực. Cấp cơ sở từ bao lâu nay vẫn chưa trở thành một
cấp hoàn chỉnh (không có công chức, không có lương theo chế độ công chức)
sẽ phải được tổ chức lại.
3.1.5. Nhu cầu hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền con người trong
Nhà nước pháp quyền
Hiện nay, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, hội nhập khu vực và
quốc tế, việc đổi mới tư duy, tổ chức, phương thức hoạt động của Nhà nước
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước và bảo đảm, bảo vệ quyền con
người là một đòi hỏi khách quan và cấp bách.

24


Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó con người là giá trị cao

quý và là mục tiêu cao nhất, vì vậy, pháp luật phải bảo đảm cho công dân sự
an toàn, được hưởng các quyền và tự do cơ bản và bảo vệ cho họ khi các
quyền tự do cơ bản đó bị vi phạm. Với mục tiêu đó thì hoạt động xây dựng
pháp luật đã trở thành một khâu cơ bản trong công tác bảo đảm và bảo vệ
quyền con người.
“Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận,
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”[5]. Quy định này đã
đảm bảo cho quyền con người và các giá trị liên quan đến quyền con người
luôn được đề cao và luôn có giá trị pháp lý cao nhất.
Bảo đảm quyền con người, quyền công dân thông qua hoạt động
giám sát
Bảo đảm quyền con người thông qua việc quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước
3.2. Những quan điểm cơ bản của việc tiếp tục hoàn thiện quyền lập pháp
trong Nhà nước pháp quyền XHCN
3.2.1. Quan điểm tổng quát
Xây dựng và thực hiện quyền lập pháp là một bộ phận cấu thành quyền
lực nhà nước thống nhất mà thiết chế của nó là Quốc hội có đủ năng lực thực
hiện vai trò đạo diện cho quyền lực nhân dân tạo nền tảng pháp lý thống nhất
đồng bộ, với vai trò thượng tôn của Hiến pháp cho toàn bộ tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, xã
hội nghề nghiệp và các cá nhân, chủ thể khác theo những nguyên tắc và thuộc
tính của Nhà nước pháp quyền nhằm bảo vệ quyền con người, trong chế độ xã
hội XHCN.

25



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×