BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
NGUYỄN THỊ THU
ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI
CHĂN NUÔI LỢN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TÂN
YÊN, TỈNH BẮC GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
HÀ NỘI, NĂM 2015
MỤC LỤC
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Tân Yên, 2011- 2013........................................45
PHỤ LỤC 1: PHIẾU ĐIỀU TRA
PHỤ LỤC 2: MỘT SỐ HÌNH ẢNH
2
DANH MỤC BẢNG
TÊN DANH MỤC
Bảng 1.1: Số lượng đầu lợn của thế giới năm 2003 – 2007
Trang
9
Bảng 1.2: Số lượng lợn phân theo vùng giai giai đoạn 2008 – 2011
11
Bảng 1.3: Số lượng trang trại chăn nuôi phân theo vùng năm 2013
12
Bảng 1.4: Số lượng lợn của tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn 2011 – 2013
13
14
Bảng 1.5: Phân bố đàn lợn của tỉnh Bắc Giang năm 2012
Bảng 1.6: Lượng phân gia súc, gia cầm thải ra hằng ngày tính trên %
khối lượng cơ thể
Bảng 1.7: Lượng chất thải chăn nuôi 1000 kg lợn trong 1 ngày
Bảng 1.8: Thực trạng quản lý và xử lý chất thải chăn nuôi
17
Bảng 3.1: Kết quả sản xuất các ngành kinh tế của huyện Tân Yên giai
17
27
38
đoạn 2011-2013
Bảng 3.2: Tình hình dân số và lao động của huyện Tân Yên 2011 -
41
2013
Bảng 3.3: Thực trạng hạ tầng kỹ thuật của huyện năm 2013
Bảng 3.4: Quy mô chăn nuôi lợn xã Cao Xá và xã Cao Thượng giai
44
46
đoạn 2011 – 2013
Bảng 3.5: Đặc điểm chung của các hộ nghiên cứu xã Cao Xá
47
Bảng 3.6: Đặc điểm chung của các hộ nghiên cứu xã Cao Thượng
Bảng 3.7:Thông tin về các chủ hộ nghiên cứu
Bảng 3.8: Số lượng lợn nuôi trung bình theo quy mô nghiên cứu
Bảng 3.9: Khối lượng chất thải rắn phát sinh
Bảng 3.10: Tổng lượng nước thải phát sinh theo quy mô chăn nuôi của
47
49
51
53
55
các hộ nghiên cứu
Bảng 3.11: Tần suất thu gom chất thải
Bảng 3.12: Tỷ lệ CTR được xử lý bằng các phương pháp khác nhau
Bảng 3.13. Tỷ lệ lượng chất thải lỏng được xử lý bằng các phương pháp
56
58
60
3
Bảng 3.14: Quy mô chăn nuôi lợn xã Cao Xá và xã Cao Thượng giai
62
đoạn 2011 – 2013
Bảng 3.15. Đặc điểm chung của các hộ nghiên cứu xã Cao Xá
63
Bảng 3.16. Đặc điểm chung của các hộ nghiên cứu xã Cao Thượng
Bảng 3.17. Thông tin về các chủ hộ nghiên cứu
Bảng 3.18. Số lượng lợn nuôi trung bình theo quy mô nghiên cứu
Bảng 3.19. Khối lượng chất thải rắn phát sinh
63
65
67
69
Bảng 3.20: Tổng lượng nước thải phát sinh theo quy mô chăn nuôi của
71
các hộ nghiên cứu
Bảng 3.21: Tần suất thu gom chất thải
73
Bảng 3.22: Tỷ lệ CTR được xử lý bằng các phương pháp khác nhau
74
Bảng 3.23: Tỷ lệ lượng chất thải lỏng được xử lý bằng các phương pháp
76
Bảng 3.24: Đặc điểm bể biogas của các hộ nghiên cứu.
77
Bảng 3.25: Tỷ lệ xử lý của bể biogas
79
4
DANH MỤC HÌNH, ĐỒ THỊ
TÊN DANH MỤC
Trang
Hình 1.1: Số lượng lợn ở Việt Nam giai đoạn 2005 – 2011
12
Hình 1.2: Mô hình quản lý chất thải rắn chăn nuôi trên thế giới
25
Hình 3.1: Bản đồ hành chính huyện Tân Yên
33
Hình 3.2: Kết quả sản xuất các ngành kinh tế của huyện Tân Yên giai
41
đoạn 2011-2013
Hình 3.3 Đánh giá của các chủ hộ chăn nuôi về các biện pháp xử lý chất
82
thải rắn
Hình 3.4: Đánh giá của các chủ hộ chăn nuôi về các biện pháp xử lý
83
chất thải lỏng
Hình 3.5: Đánh giá của người dân sống xung quanh các hộ chăn nuôi về
hiện trang môi trường ở khu vực nghiên cứu
5
84
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN
Liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của các
Quốc gia trong khu vực Đông Nam Á
ATSH
An toàn sinh học
FAO
Tổ chức Nông Lương Thế giới
CARTAGENA
Nghị định thư về an toàn sinh học
CBD
Công ước Đa dạng sinh học
ĐDSH
Đa dạng sinh học
GDMT
Giáo dục môi trường
GIS
Hệ thống thông tin địa lý
GPS
Hệ thống định vị toàn cầu
HĐND
Hội đồng nhân dân
IUCN
Tổ chức bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế
KBTTN
Khu bảo tồn thiên nhiên
KHHĐ
Kế hoạch hành động
NNPTNT
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
PRA
Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia
TNMT
Tài Nguyên và Môi Trường
UBND
Ủy Ban Nhân Dân
VAC
Vườn – Ao – Chuồng
6
MỞ ĐẦU
• Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, trên thế giới nói chung cũng như ở Việt Nam nói riêng, người ta rất
chú trọng đến việc phát triển hệ thống sản xuất nông nghiệp bền vững, trong đó
ngành chăn nuôi là một bộ phận cấu thành quan trọng của tổng thể (chăn nuôi thế
giới chiếm 70% diện tích đất nông nghiệp, 30% diện tích đất tự nhiện, đóng góp
khoảng 40% tổng GDP nông nghiệp toàn cầu).
Cùng với sự phát triển nhanh của nền kinh tế thị trường thì vấn đề về môi
trường ngày càng trở nên nghiêm trọng. Hiện tượng ô nhiễm môi trường không phải
chỉ diễn ra ở các nước phát triển mà còn ở ngay cả các nước đang phát triển trong
đó có đất nước Việt Nam ta. Hiện nay,ô nhiễm môi trường đang ngày càng trầm
trọng hơn. Ô nhiễm không khí, đất, nước… và hậu quả mà chúng mang lại là ảnh
hưởng xấu tới nhiều mặt cuộc sống của con người. Càng ngày các chất thải càng
nhiều và đa dạng hơn. Một trong những nguồn chất thải gây ô nhiễm lớn tới môi
trường là từ chăn nuôi.
Ngành chăn nuôi ở nước ta những năm gần đây đã và đang phát triển nhanh
chóng về cả chất lượng và quy mô góp phần tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống
của người dân, đặc biệt là ở vùng nông thôn. Tuy nhiên, chăn nuôi hộ gia đình nhỏ
lẻ cũng như trại chăn nuôi lớn việc quản lý và sử dụng các nguồn chất thải từ chăn
nuôi còn nhiều bất cập.
Một số trang trại lớn đã có những biện pháp xử lý nguồn chất thải chăn nuôi.
Trong khi đó, việc xử lý chất thải ở một số trang trại chưa được quan tâm. Đặc biệt,
chăn nuôi nhỏ lẻ hộ gia đình việc xử lý chất thải hầu như còn bị thả nổi. Một trong
những nguyên nhân là do người chăn nuôi chưa hiểu rõ tầm quan trọng của việc xử
lý nguồn chất thải; kinh phí phục vụ cho việc xử lý chất thải còn thấp; luật xử lý
chất thải còn chưa đồng bộ và khó áp dụng; chăn nuôi nhỏ lẻ cũng là một trong
những nguyên nhân làm việc quản lý và xử lý chất thải còn gặp nhiều khó khăn.
7
Tân Yên là một huyện miền núi đời sống của người dân còn gặp nhiều khó
khăn, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Trong những năm qua, chăn nuôi có sự tăng
trưởng nhanh cả về quy mô và giá trị thu nhập, đặc biệt là chăn nuôi lợn. Chăn nuôi
lợn đã có từ lâu đời góp phần cung cấp thực phẩm cho con người, tạo công ăn việc
làm, khai thác nguồn lực ở địa phương, tăng thu nhập, góp phần xóa đói giảm
nghèo, làm giàu cho các nông hộ. Ngoài ra chăn nuôi lợn còn cung cấp phân bón
phục vụ cho ngành trồng trọt.... Quy mô các trang trại chăn nuôi của các hộ trong
huyện ngày càng được mở rộng kéo theo các hệ lụy không thể tránh khỏi đến môi
trường khi công tác quản lý chất thải sinh ra chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều
nơi trong địa bàn huyện các chất thải chăn nuôi lợn được thải trực tiếp ra ngoài môi
trường mà chưa hề qua một biện pháp xử lý nào. Điều này gây ảnh hưởng rất lớn
không chỉ tới cảnh quan môi trường mà còn ảnh hưởng lớn tới sức khỏe của người
dân và vật nuôi trong khu vực lân cận.
Thực trạng môi trường chăn nuôi huyện Tân Yên đang là đặc điểm chung của
nhiều làng xã ở nông thôn Việt Nam nên cần tìm biện pháp quản lý để tận dụng tối
đa nguồn chất thải và làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Đây cũng chính là lý do
đề tài: " Đánh giá hiện trạng quản lý chất thải chăn nuôi lợn trên địa bàn huyện
Tân Yên, tỉnh Bắc Giang." được tôi nghiên cứu thực hiện.
• Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá hiện trạng môi trường chất thải chăn nuôi lợn và công tác quản lý tại
huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý chất thải chăn nuôi
lợn nhằm cải thiện môi trường tại khu vực nghiên cứu.
• Yêu cầu của đề tài
- Các số liệu điều tra phải chính xác, khách quan, đáng tin cậy.
- Nội dung nghiên cứu phải thực hiện được các mục tiêu đề ra.
- Các giải pháp khả thi, đáp ứng các yêu cầu về xử lý ô nhiễm môi trường khu vực.
8
Chương 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1
Khái quát chung về tình hình chăn nuôi lợn trên thế giới và Việt Nam
1.1.1 Tình hình chăn nuôi lợn trên thế giới
Nghề chăn nuôi lợn ra đời rất sớm và rất phát triển. Cách đây một vạn năm
chăn nuôi lợn đã xuất hiện và phát triển ở châu Âu và châu Á. Sau đó vào khoảng
giữa thế kỷ XVI bắt đầu phát triển ở châu Mỹ, thế kỷ XVIII phát triển ở Châu Úc.
Trong giai đoạn 2003 – 2007 số lượng đầu lợn trên thế giới có xu hướng tăng rõ rệt.
Số lượng cụ thể được trình bày dưới bảng sau:
Bảng 1.1: Số lượng đầu lợn của thế giới năm 2003 – 2007
Năm
Số lượng lợn (con)
2003
894.004.389
2004
890.807.746
2005
903.104.218
2006
924.305.500
2007
918.278.483
Nguồn: FAO, 2008
Đến nay nuôi lợn đã trở thành nghề truyên thống của nhiều quốc gia. Nhiều
nước chăn nuôi lợn có công nghệ cao và tổng số đàn lợn lớn như: Mỹ, Braxin, Đức,
Tây Ban Nha,...Các nước tiên tiến có nền chăn nuôi lợn phát triển theo các hình
thức công nghiệp và đạt trình độ chuyên môn hóa cao. Tuy vậy đàn lợn trên thế giới
9
phân bố không đều ở các châu lục: 70 % số lợn được nuôi ở châu Á và châu Âu,
khoảng 30% ở các châu lục khác. Theo thống kê của tổ chức nông lương thế giới
(FAO) thì số lượng lợn trên thế giới năm 2009 là 877.569.546 con, trong đó riêng
khu vực châu Á là 534.329.449 con, châu Âu là 183.050.883 con.
Trung Quốc là nước ở khu vực châu Á có số lượng lợn lớn nhất trên thế giới
với số đầu lợn năm 2009 là 451.177.551 con, chiếm 51,4% số lượng lợn của thế
giới. Đến năm 2010, Trung Quốc đạt sản lượng 50,7 triệu tấn thịt lợn, chiếm 70%
tổng sản lượng thịt của nước này. Năm 2011, Trung Quốc sản xuất gần một nửa sản
lượng thịt lợn của thế giới, với 650 triệu con lợn nuôi. Trong khi đó nước Mỹ đứng
thứ 2 thế giới về sản xuất thịt lợn chỉ có khoảng 100 triệu con. Ở Trung Quốc, nuôi
quy mô nhỏ, với số lượng dưới 90 con/cơ sở chiếm tới 70 - 80 %. Chuyển dịch
nhanh, mạnh và vững chắc từ chăn nuôi nhỏ sang chăn nuôi bán công nghiệp và
công nghiệp là ưu tiên hàng đầu trong chính sách chăn nuôi lợn của nước này (Đỗ
Kim Tuyên, 2013).
Việt Nam là nước có số lượng lợn cũng khá lớn, năm 2009 Việt Nam đứng
thứ 4 trên thế giới với 27.627.700 con (Đỗ Kim Tuyên, 2013).
Phương thức chăn nuôi hiện nay của các nước trên thế giới vẫn là 3 hình thức
cơ bản: Chăn nuôi quy mô công nghiệp thâm canh công nghệ cao chủ yếu phát triển
ở các nước châu Âu, châu Mỹ, châu Úc và một số nước ở châu Á, Phi, Mỹ La Tinh.
Chăn nuôi công nghiệp thâm canh các công nghệ cao về cơ giới và tin học được áp
dụng trong chuồng trại, cho ăn, vệ sinh, thu hoạch sản phẩm, xử lý môi trường và
quản lý đàn. Các công nghệ sinh học và công nghệ sinh sản được áp dụng trong
chăn nuôi như nhân giống, lai tạo nâng cao khả năng sinh sản và điều khiển giới
tính. Chăn nuôi trang trại bán thâm canh và chăn nuôi nông hộ quy mô nhỏ và
quảng canh phần lớn ở các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, Mỹ La Tinh và
một số nước Trung Đông. Trong chăn nuôi quảng canh tận dụng và dựa vào thiên
nhiên, sản phẩm chăn nuôi năng suất thấp nhưng được thị trường xem như một phần
của chăn nuôi hữu cơ.
1.1.2 Tình hình chăn nuôi lợn ở Việt Nam
10
Theo đánh giá của Tổ chức Nông Lương Thế giới (FAO): Châu Á sẽ trở
thành khu vực sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm chăn nuôi lớn nhất. Chăn nuôi
Việt Nam, giống như các nước trong khu vực phải duy trì mức tăng trưởng cao
nhằm đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước và từng bước hướng tới xuất khẩu.
Trong thời gian qua, ngành chăn nuôi lợn của nước ta có biến động cả về tốc độ
phát triển, phân bố lại địa bàn và phương thức sản xuất, đồng thời xuất hiện nhiều
nhân tố bất ổn như gây ô nhiễm môi trường trầm trọng, vệ sinh an toàn thực phẩm
và nhiều dịch bệnh mới…
Trong giai đoạn 2005 – 2011, số đầu lợn trên cả nước có những thay đổi
đáng kể, được thể hiện qua hình dưới đây.
Hình 1.1: Số lượng lợn ở Việt Nam giai đoạn 2005 – 2011
Nguồn: Tổng cục thống kê,2011
Số liệu từ biểu đồ cho ta thấy số lượng lợn nuôi trên cả nước có biến động
đáng kể qua các năm trong giai đoạn 2005 – 2011. Từ năm 2005 – 2007 số lượng
lợn trên cả nước giảm hơn 3%. Nhưng số lượng lợn lại tăng khoảng 4% trong giai
đoạn 2007 – 2009 rồi lại tiếp tục giảm 2% cho đến năm 2011.
Năm 2014, số lượng lợn nuôi của nước ta là 26,7 triệu con, dự kiến năm
2015 là 27,1 triệu con (Cục chăn nuôi, 2015).
11
Chăn nuôi lợn ở nước ta cũng có sự khác nhau theo các vùng miền, cụ thể
như sau:
Bảng 1.2: Số lượng lợn phân theo vùng giai giai đoạn 2008 – 2011
Đơn vị: nghìn con
Năm
2011 so với
2008
2010
2011
7334,2
7301,0
7092,2
- 3,3
5927,4
6602,1
6424,9
+ 8,4
5880,0
5552,9
5253,3
- 10,7
Tây Nguyên
1557,2
1633,1
1711,7
+9,9
Đông Nam Bộ
2372,7
2485,3
2801,4
+18,1
3630,1
3798,8
3772,5
+3,9
Vùng
Đồng
bằng
sông
Hồng
Trung Du và miền
núi phía Bắc
2008 (%)
Bắc Trung Bộ và
Duyên
hải
miền
Trung
Đồng
bằng
Cửu Long
sông
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2011
Từ bảng cho thấy vùng Đồng Bằng Sông Hồng là khu vực có tình hình chăn
nuôi phát triển nhất trong cả nước, tiếp đó là Trung Du và miền núi phía Bắc và Bắc
Trung Bộ và Duyên Hải miền Trung. Tuy nhiên số lượng lợn ở vùng Đồng Bằng
Sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên Hải miền Trung đang có chiều hướng giảm từ
năm 2008– 2011. Bên cạnh đó các vùng như Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, Trung
Du và miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long lại có xu hướng tăng. Đặc biệt
là vùng Đông Nam Bộ tăng tới 18,1%.
12
Về quy mô chăn nuôi lợn ở Việt Nam qua các năm có nhiều biến động. Theo
Gautier và cộng sự (2009), phần lớn là chăn nuôi nhỏ lẻ trong các hộ nông dân.
Loại quy mô này (1 – 10 con) chiếm tới khoảng 80% tổng đàn lợn, các hình thức
chăn nuôi khác với quy mô lớn hơn chỉ mới chiếm khoảng 20%. Trong đó quy mô
chăn nuôi trung bình (5-10 nái hay 30 – 100 lợn thịt ) chiếm 10%, quy mô chăn
nuôi khá lớn (20-500 nái hay 100 – 4000 lợn thịt) chiếm 5%, cuối cùng là chăn nuôi
lớn (trên 500 nái hay trên 4000 lợn thịt) là 5% (Vũ Đình Tôn, 2009). Đến năm 2014,
theo ông Nguyễn Văn Trọng, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi, chăn nuôi lợn ở nước
ta phổ biến là quy mô nhỏ, chiếm 70% về đầu con và 60% về sản lượng, phân tán
trong nông hộ với trên 4 triệu hộ; trong đó chỉ có 1% số hộ nuôi từ 50 con trở lên,
12,7% số hộ nuôi 10-50 con, số hộ nuôi 1-2 con chiếm tới 51,8% (Báo Hà Nội Mới,
ngày 25/4/2014).
Tuy nhiên, các năm gần đây xu hướng chăn nuôi lợn theo quy mô trang trại
đang ngày càng phát triển. Năm 2011 cả nước có 6.267 trang trại chăn nuôi, năm
2012 là 8.133 trang trại và đến năm 2013 là 9.206 trang trại. Số lượng trang trại
chăn nuôi được phân bố ở các vùng khác nhau trên cả nước. Cụ thể được thể hiện
trong bảng dưới đây.
Bảng 1.3: Số lượng trang trại chăn nuôi phân theo vùng năm 2013
Trung du
Vùng
Đồng bằng và
miền
sông Hồng
phía
núi
Bắc
Số lượng
trang trại
3.779
917
Bắc trung
bộ
và
Duyên
hải miền
Đồng
Tây
Đông
Nguyên
Nam Bộ
Trung
886
Bằng
sông
Cửu
Long
478
2204
942
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2014
Chăn nuôi theo hướng trang trại sẽ có điều kiện tốt hơn về quy mô và mức
đầu tư để có thế áp dụng các kỹ thuật tiên tiến nhằm cải thiện năng suất sản xuất và
13
nâng cao hiệu quả chăn nuôi. Ngoài ra, chăn nuôi trang trại còn tận dụng tốt tiềm
năng quỹ đất ở các vùng gò đồi, đất hoang hóa, tạo công ăn việc làm tăng thu nhập
cho người dân. Việt Nam cần có chiến lược phát triển chăn nuôi trong thời kì hiện
nay. Ngày 16 tháng 01 năm 2008, thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số
10/2008/QĐ – TTg về việc phê duyệt “ Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm
2020”. Theo Chiến lược này:
+ Đến năm 2020 ngành chăn nuôi cơ bản chuyến sang sản xuất phương thức
trang trại, công nghiệp đáp ứng phần lớn nhu cầu thực phẩm đảm bảo chất lượng
cho tiêu dùng và xuất khẩu.
+ Tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp đến năm 2020 đạt trên 42%, trong
đó năm 2010 đạt khoảng 32% và năm 2015 đạt 38%.
+ Đảm bảo an toàn dịch bệnh và vệ sinh thực phẩm, khống chế các bệnh
nguy hiểm trong chăn nuôi.
+ Các cơ sở chăn nuôi, nhất là theo phương thức trang trại, công nghiệp và
giết mổ, chế biến gia súc phải có hệ thống xử lý chất thải, bảo vệ môi trường và
giảm ô nhiễm môi trường.
Cụ thể hơn, Bộ NN & PTNT đã ra Kế hoạch phát triển chăn nuôi lợn từ 2016
– 2020 như sau: Đến năm 2020, tổng đàn heo đạt 28,7 triệu con, tốc đô tăng bình
quân hàng năm 1,07%. Trong đó, đàn heo ngoại và heo lai đạt trên 90%, tổng đàn
heo nái khoảng 3,0 – 3,5 triệu con (Bộ NN & PTNT, 2008).
1.1.3 Tình hình chăn nuôi lợn ở Bắc Giang
Ngành chăn nuôi của Bắc Giang không ngừng phát triển và đóng góp ngày
càng cao hơn vào giá trị GDP của ngành nông nghiệp, nếu năm 2001 tỷ trọng ngành
chăn nuôi mới chỉ chiếm 30,6% thì đến năm 2012 tăng lên 51,97%. Trong những
năm qua, chăn nuôi của tỉnh Bắc Giang đạt tốc độ tăng trưởng cao so với vùng
TDMNPB và toàn quốc. Chăn nuôi lợn là một trong những ngành phát triển của
tỉnh. Theo công bố của Tổng cục thống kê năm 2012: đàn lợn của tỉnh xếp thứ 1
vùng TDMNPB và đứng thứ 3 so với toàn quốc, chỉ sau Hà Nội và Đồng Nai (Sở
14
NN&PTNT Bắc Giang, 2013). Số lượng lợn nuôi của tỉnh thay đổi đáng kể qua các
năm như sau:
Bảng 1.4: Số lượng lợn của tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn 2011 – 2013
(đơn vị : nghìn con)
Năm
2011
2012
2013
Số lượng
1168,2
1173,1
1193,6
Nguồn: TT Tin học& Thống kê- Bộ NN&PTNT, 2014
Như vậy, đàn lợn của tỉnh không ngừng tăng lên qua các năm. Các huyện có
tổng đàn tăng cao là: Tân Yên, Lạng Giang , Việt Yên,…
Hiện nay, hình thức chăn nuôi trang trại trên địa bàn tỉnh phát triển mạnh, đã
hình thành một số vùng chăn nuôi tập trung song hầu hết các hộ vẫn theo hình thức
chăn nuôi cá thể nên quy mô còn nhỏ lẻ và phân tán, việc đưa chăn nuôi ra ngoài
khu dân cư còn gặp khó khăn.
Bảng 1.5: Phân bố đàn lợn của tỉnh Bắc Giang năm 2012
Đơn vị tính: 1000 con
TT
Huyện, TP
Toàn Tỉnh
Tổng đàn
Lợn thịt
Lợn Nái
Lợn đực
1.173,12
974,90
196,86
1,37
50,54
46,73
3,80
0,01
1
TP. Bắc Giang
2
H. Lục Ngạn
134,96
123,00
11,87
0,09
3
H. Lục Nam
115,64
99,72
15,82
0,11
4
H. Sơn Động
58,65
52,81
5,81
0,03
5
H. Yên Thế
86,09
69,19
16,78
0,12
6
H. Hiệp Hoà
125,57
94,18
31,14
0,25
15
7
H. Lạng Giang
186,55
151,68
34,58
0,28
8
H. Tân Yên
202,72
166,48
36,07
0,18
9
H. Việt Yên
141,37
112,67
28,50
0,20
10
H. Yên Dũng
71,02
58,44
12,48
0,10
Nguồn: Niên Giám thống kê, tổng hợp từ các huyện
Tổng số hộ nuôi lợn trên địa bàn tỉnh Bắc Giang năm 2012 là 177.230 hộ,
chiếm 55,3% hộ nông nghiệp trên địa bàn tỉnh:
+ Số hộ nuôi từ 1-2 con chiếm tỷ lệ 50,40% tổng số hộ nuôi lợn.
+ Số hộ nuôi từ 3-5 con chiếm tỷ lệ 25,46% tổng số hộ nuôi lợn.
+ Số hộ nuôi từ 6 - 9 con chiếm tỷ lệ 8,7% tổng số hộ nuôi lợn.
+ Số hộ nuôi từ 10-20 con chiếm tỷ lệ 12,12% tổng số hộ nuôi lợn.
+ Số hộ nuôi từ 21-99 con chiếm tỷ lệ 3, 2% tổng số hộ nuôi lợn.
+ Số hộ nuôi từ >100 con chiếm tỷ lệ 0,13% tổng số hộ nuôi lợn.
Mặc dù các hộ chăn nuôi lợn trong khu dân cư vẫn chiếm đa số, tuy nhiên
chăn nuôi lợn trên địa bàn tỉnh đã chuyển dần sang hình thức chăn nuôi thâm canh.
Theo Quy hoạch phát triển chăn nuôi tỉnh Bắc Giang đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030 của Sở NN&PTNT Bắc Giang (2013): Mục tiêu tổng quát là
phát triển chăn nuôi theo hướng chăn nuôi nông hộ an toàn, trang trại sản xuất hàng
hóa, ứng dụng khoa học công nghệ gắn với đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo
vệ môi trường; tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi trong tổng giá trị sản xuất ngành nông
nghiệp; từng bước chuyển đổi cơ cấu giống vật nuôi nhằm tăng năng suất và chất
lượng sản phẩm, đảm bảo quản lý tốt công tác giết mổ gia súc, gia cầm và công tác
phòng chống dịch bệnh; phấn đấu đến năm 2020 tỉnh Bắc Giang là một trong những
tỉnh dẫn đầu cả nước về tổng đàn lợn và đàn gia cầm, góp phần thúc đẩy sự phát
triển kinh tế của tỉnh, tạo tiền đề quan trọng cho sự phát triển kinh tế nông thôn.
Năm 2015, dự kiến tổng đàn lợn là 1,25 triệu con. Từ 2016 – 2020, tăng tổng đàn
16
lợn lên khoảng 1,4 triệu con, tỷ trọng chăn nuôi lợn truyền thống đạt 38,40%, tỷ
trọng chăn nuôi lợn theo mô hình trang trại đạt 21% tổng đàn lợn. Đến năm 2020
hình thành 91 khu chăn nuôi tập trung xa dân cư theo đúng tiêu chí của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn; chăn nuôi nhỏ lẻ trong khu dân cư đến năm 2020
vẫn còn nhưng được kiểm soát về vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường… Định
hướng đến năm 2030, cơ cấu ngành chăn nuôi được giữ vững ở mức 55% giá trị sản
xuất nông nghiệp, tăng tổng đàn lợn dự kiến là 1,6 triệu con (Sở NN&PTNT Bắc
Giang, 2013).
1.2
Khái quát chung về chất thải chăn nuôi lợn
1.2.1 Khối lượng chất thải chăn nuôi lợn
Hằng ngày, gia súc và gia cầm thải ra một lượng phân và nước tiểu rất lớn.
Khối lượng phân và nước tiểu được thải ra có thể chiếm từ 1,5 – 6 % khối lượng cơ
thể gia súc. Các chất thải này chứa hàm lượng cao các chất ô nhiễm. Theo Joehr
(1970), các chỉ tiêu ô nhiễm trong chất thải của gia súc đều cao hơn của người theo
tỷ lệ tương ứng BOD5 là 5:1, Ntổng là 7:1, TS là 10:1...
Khối lượng chất thải chăn nuôi tùy thuộc vào giống, độ tuổi, giai đoạn phát
triển, khẩu phần ăn và thể trọng gia súc và gia cầm. Riêng đối với gia súc, lượng
phân và nước tiểu tăng nhanh theo quá trình tăng thể trọng. Nếu tính trung bình theo
khối lượng cơ thể thì lượng phân thải ra mỗi ngày của vật nuôi rất cao,nhất là đối
với gia súc cao sản (Bùi Hữu Đoàn, 2011).
Bảng 1.6: Lượng phân gia súc, gia cầm thải ra hằng ngày tính trên %
khối lượng cơ thể
Loại gia súc
Tỷ lệ phân so với khối lượng cơ thể
Lợn
6-8
Bò sữa
7-8
Bò thịt
5-8
Gà, vịt
5
17
Nguồn: Lochr,1984
Ngoài phân và nước tiểu, lượng thức ăn thừa, ổ lót, xác súc vật chết, các vật
dụng chăm sóc, nước tăm gia súc và vệ sinh chuống nuôi cũng đóng góp đáng kể
làm tăng khối lượng chất thải. Đây là nguồn ô nhiễm và lan truyền dịch bệnh rất
nguy hiểm, vì vậy chúng cần được xử lý thích hợp trước khi trả lại cho môi trường.
Bảng 1.7: Lượng chất thải chăn nuôi 1000 kg lợn trong 1 ngày
Chỉ tiêu
Khối lượng
Chỉ tiêu
(Kg)
Khối lượng
(Kg)
Tổng lượng phân
84
BOD5
3.1
Tổng lượng nước tiểu
39
NH4 – N
0.29
TS
11
SS
0.027
Nguồn:Bùi Hữu Đoàn, 2011.
1.2.2 Thành phần chất thải chăn nuôi lợn
1.2.2.1 Nước thải chăn nuôi lợn
Nước thải chăn nuôi là hỗn hợp bao gồm cả nước tiểu, nước tắm gia súc,
nước rửa chuồng. Trong đó, nước tiểu gia súc là sản phẩm bài tiết của con vật, chứa
nhiều độc tố, là sản phẩm cặn bã từ quá trình sống của gia súc, khi phán tán vào môi
trường có thể chuyển hóa thành các chất ô nhiễm gây tác hại cho con người và môi
trường. Thành phần chính của nước tiểu là nước, chiếm 99% khối lượng. Ngoài ra
một lượng lớn Nitơ (chủ yếu dưới dạng urê) và một số chất khoáng, các hormone,
creatin, sắc tố, axit mật và nhiều sản phẩm phụ của quá trình trao đổi chất của con
vật (Bùi Hữu Đoàn, 2011).
Theo Trương Thanh Cảnh và ctv (1997,1998) thì thành phần hóa học nước
tiểu của lợn có khối lượng 70 – 100 kg chủ yếu là Urê với giá trị 123 – 196 (g/kg),
tiếp đó là Vật chất khô 30,9 – 35,9 (g/kg). Ngoài ra là tro 8,5 – 16,3 (g/kg), N tổng là
4,9 – 6,63 (g/kg), NH4 0,13 – 0,4 (g/kg), cuối cùng là Carbonat là 0,11 – 0,19 (g/kg)
(Bùi Hữu Đoàn, 2011).
18
Thành phần nước tiểu thay đổi phụ thuộc vào tuổi, chế độ dinh dưỡng và
điều kiện khí hậu. Ngoài ra nước thải chăn nuôi còn có thể chứa một phần hay toàn
bộ lượng phân gia súc. Theo khảo sát của Trương Thanh Cảnh và ctv (2006) trên
gần 1000 trại chăn nuôi lợn quy mô vừa và nhỏ ở các tỉnh phía Nam cho thấy hầu
hết các cơ sở chăn nuôi đều sử dụng một khối lượng lớn nước cho gia súc. Cứ 1 kg
chất thải chăn nuôi do lợn thải ra được pha thêm từ 20 – 49 kg nước. Nước thải
chăn nuôi còn chứa rất nhiều vi sinh vật, ký sinh trùng, nấm, nấm men và các yếu tố
gây bệnh sinh học khác (Bùi Hữu Đoàn, 2011).
Nồng độ chất ô nhiễm trong nước thải phụ thuộc vào thành phần của phân,
nước tiểu gia súc, lượng thức ăn rơi vãi, mức độ và phương thức thu gom (số lần
thu gom, vệ sinh chuồng trại và có hót phân hay không hót phân trước khi rửa
chuồng), lượng nước dùng để tắm cho lợn và vệ sinh chuồng trại.
Đây là nguồn dinh dưỡng dễ tiêu và có giá trị về mặt phân bón. Đồng thời
cũng là các chất có khả năng gây ô nhiễm (nước ngầm) nếu khâu thu gom và quản
lý không đúng.
1.2.2.2 Chất thải rắn chăn nuôi lợn
Chất thải rắn trong chăn nuôi không chỉ là phân mà còn là lượng chất thải
độn chuồng, thức ăn thừa, xác gia súc chết. Phân là sản phẩm thải loại của quá trình
tiêu hóa gia súc bị bài tiết ra ngoài theo đường tiêu hóa. Thành phần hóa học của
phân bao gồm:
Các chất hữu cơ: chất protein, carbohydrate, chất béo và các sản phẩm trao đổi
của chúng. Các chất vô cơ bao gồm các hợp chất khoáng ( đa lượng, vi lượng).
Nước: là thành phần chiếm tỷ trọng lớn nhất, chiếm 65 – 80% khối lượng của
phân.
Ngoài ra còn dư lượng thức ăn bổ sung cho gia, các thành phần tạp từ môi
trường thâm nhập đá, cát,...). Các yếu tố gây bệnh như các vi khuẩn hay kí sinh
trùng bị nhiễm trong đường tiêu hóa gia súc hay thức ăn (Bùi Hữu Đoàn, 2011).
19
Còn theo Trương Thanh Cảnh và ctv (1997,1998) thì thành phần hóa học của
phân lợn từ 70 – 100 kg chủ yếu là vật chất khô, chất xơ, tro. Cụ thể là vật chất khô
chiếm 213 – 342 (g/ kg), chất xơ là 151 – 261 (g/ kg), tro chiếm 32,5 – 93,3 (g/kg).
Ngoài ra còn có NH4 –N, Ntổng, carbonat, các axit ngắn mạch (Bùi Hữu Đoàn, 2011).
Xác gia súc chết là một loại chất thải đặc biệt của chăn nuôi. Thường thì gia
súc chết do nguyên nhân bệnh lý cho nên chúng là một nguồn phát sinh ô hiễm
nguy hiểm, dễ lây lan các dịch bệnh. Xác gia súc chết có thể bị phân hủy tạo nên
các sản phẩm độc. Các mầm bệnh và độc tố có thể được lưu giữ trong đất trong thời
gian dài hay lan truyền trong môi trường nước và không khí, gây nguy hiểm cho
người, vật nuôi và các khu hệ sinh vật trên cạn hay dưới nước.
Trong các chuồng trại chăn nuôi lợn, người chăn nuôi thường dùng rơm, rạ
hay các chất độn chuồng khác,... để lót chuồng. Sau một thời gian sử dụng, những
vật liệu này sẽ được thải bỏ đi. Loại chất thải này tuy chiếm khối lượng không lớn,
nhưng chúng cũng là một nguồn gây ô nhiễm quan trọng do phân, nước tiểu các
mầm bệnh có thể bám theo chúng. Vì vậy cũng phải được thu gom và xử lý hợp vệ
sinh, không được vứt bỏ ra ngoài môi trường tạo điều kiện cho chất thải và mầm
bệnh phát tán vào môi trường.
Ngoài ra, thức ăn thừa, thức ăn bị rơi vãi cũng là nguồn gây ô nhiễm vì thức
ăn chứa nhiều chất dinh dưỡng dễ bị phân hủy trong môi trường tự nhiên. Khi
chúng phân hủy sẽ tạo ra các chất kể cả chất gây mùi hôi, gây ô nhiễm môi trường
xung quanh, ảnh hưởng đến sự sinh trưởng phát triển của gia súc và sức khỏe con
người (Bùi Hữu Đoàn, 2011).
12.2.3 Chất thải khí
Chăn nuôi là một ngành sản xuất tạo ra nhiều loại khí thải nhất. Theo Hobbs
và cộng sự (1995), có tới trên 170 chất khí có thể phất sinh ra từ chăn nuôi, điển
hình là các khí CO2, CH4, NH3, NO2, NO, H2S, indol, schatol, mecaptan... và hàng
loạt các khí gây mùi khác. Hầu hết các khí thải chăn nuôi có thể gây độc cho gia
súc, cho con người và môi trường.
20
Trong những các khí sinh ra từ quá trình phân giải thì những chất khí có mặt
thường xuyên, liên quan chặt chẽ tới mùi như amoniac, hydrosunfua,.. và một số
hợp chất khác như: skatol, indol, amin, mecaptan, phenol, axit hữu cơ, Nitơ dị
vòng...( Yokoyama, 1994). Những khí này có thể tạo ra tùy thuộc vào những cơ sở
chuồng trại thiếu thông thoáng (Trần Thị Anh Phương, 2009).
1.3
Ảnh hưởng của chăn nuôi lợn tới môi trường
1.3.1 Ảnh hưởng tới môi trường đất
Chất thải chăn nuôi khi không được xử lý sẽ gây ra ô nhiễm đất. Nhiều nghiên
cứu cho thấy khả năng tồn tại của mầm bệnh trong đất, cây cỏ có thể gây bệnh cho
người và gia súc, đặc biệt là các mầm bệnh về đường ruột như thương hàn, phó
thương hàn, viêm gan, giun đũa, sán lá gan..
Khi dùng nước thải chưa xử lý người ta thấy rằng có Salmonella trong đất ở
độ sâu 50 cm và tồn tại được 2 năm, trứng ký sinh trùng cũng khoảng 2 năm. Mẫu
cỏ sau 3 tuần ngưng tưới nước thải có 84% trường hợp có Salmonella và vi trùng
đường ruột khác, phân tươi cho vào đất có E.coli tồn tại được 62 ngày, ngoài ra
khoáng và kim loại nặng bị giữ lại trong đất với liều lượng lớn có thể gây ngộ độc
cho cây trồng (Cục Chăn nuôi, 2009).
Kết quả nghiên cứu của Chang 1968, Mosley, Kolf 1970 đã cho thấy nhiều
loại vius gây bệnh được đào thải qua phân và sống sót với thời gian từ 5 – 15 ngày
trong phân và đất, trong đó đáng chú ý nhất là các nhóm virus gây bệnh viêm gan,
Rheovirus, Adenovirus. Các nghiên cứu của G.V Xoxibarov 1974, R. Alexan
drennus và cộng tác viên cho thấy trong 1 kg phân tươi có 2100 – 5000 trứng giun
sán. Trong đó có 39 – 83 % là Acaris suvum, 60 – 68,7 % là Oesophagostomum và
47 – 58,3 % Trichocephalus sp. Điều kiện thuận lợi cho mỗi loại tồn tại và gây bệnh
phụ thuộc vào lượng mưa, nhiệt độ, ánh sáng, kết cấu độ ẩm của đất, phân và môi
trường xung quanh (Nguyễn Thị Hoa lý, 2004).
Năm 2012, báo chí đã phản ánh về trang trại chăn nuôi heo của Công ty
TNHH Hùng Vân tại thôn 2, xã Tiên Phong (Tiên Phước) gây ô nhiễm môi
21
trường khiến người dân nơi đây hết sức bức xúc. Cánh đồng rộng hơn 1 ha của
người dân thôn 2 xã Tiên Mỹ bị chất thải từ trang trại chăn nuôi heo không trổ
được. Việc khắc phục tình trạng ô nhiễm của Công ty TNHH Hùng Vân chỉ giảm
đôi chút trong thời gian ngắn, rồi đâu lại vào đấy (Phước Tân, 2013).
1.3.2 Ảnh hưởng tới môi trường nước
Khi lượng chất thải chăn nuôi không được xử lý đúng cách thải vào môi
trường quá lớn làm gia tăng hàm lượng chất hữu cơ, vô cơ trong nước, làm giảm
quá mức lượng oxy hòa tan, làm giảm chất lượng nước mặt, ảnh hưởng đến hệ vi
sinh vật nước, là nguyên nhân tạo nên dòng nước chết (nước đen, hôi thối, sinh vật
không thể tồn tại) ảnh hưởng đến sức khỏe con người, động vật và môi trường sinh
thái. Hai chất dinh dưỡng trong nước thải dễ gây nên vấn đề ô nhiễm nguồn nước
đó là nitơ (nhất là ở dạng nitrat) và photpho (Cục Chăn nuôi, 2009).
Trong nước thải chăn nuôi còn chứa một lượng lớn vi sinh vật gây bệnh và
trứng ký sinh trùng. Theo nghiên cứu của nhiều tác giả ( A. Kigirov, 1982; G.
Rheiheinmer, 1985...) vi trùng gây bệnh đóng dấu Erysipelothris insidiosa có thể tồn
tại 92 ngày, Brucella 74 – 108 ngày, Salmonella 6 -7 tháng, Mycobacteria
tuberculosis 75 – 150 ngày, vius lở mồm long móng sống trong nước thải 100 – 120
ngày... Các vi trùng có nha bào như Bacillus anthracis có thể tồn tại hơn 10 năm,
Bacillus tetani 3 – 4 năm. Trứng giun sán với các loại điển hình có thể phát triển
đến giai đoạn gây nhiễm sau 6 – 28 ngày và tồn tại 5 – 6 tháng. Các vi trùng có thể
xâm nhập vào mạch nước ngầm. Salmonella có thể thấm sâu xuống lớp đất dày 30 –
40 cm. Ở những nơi thường xuyên tiếp nhận nước thải, trứng giun sán, vi trùng gây
bệnh có thể được lan truyền đi rất xa và nhanh, khi bị nhiễm vào nước mặt tạo thành
dịch cho người và gia súc (Nguyễn Thị Hoa lý, 2004).
Theo nghiên cứu của PGS. TS. Hồ Thị Lam Trà và các cộng sự tại xã Lai Vu,
huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương kết luận: Hoạt động chăn nuôi lợn tại gia đình
trên địa bàn xã Lai Vu không ngừng tăng lên trong những năm gần đây, mật độ chăn
nuôi cao và số lượng chăn nuôi lớn đã phát sinh một số lượng phân thải, nước rửa
chuồng trại khổng lồ gây tác động xấu tới môi trường nước mặt trên địa bàn xã.
22
Theo QCVN 08/A2, hầu hết các chỉ tiêu BOD 5, COD, DO, NH4 và PO42- đều vượt
quá ngưỡng cho phép nhiều lần (Hồ Thị Lam Trà, 2001).
Trường hợp khác, Công ty TNHH lợn giống ngoại Thái Dương là trại chăn
nuôi có quy mô lớn với diện tích 28 ha đóng tại xóm 9 xã Đại Sơn ( Đô Lương), có
thời điểm nuôi gần 25.000 con lợn các loại nhưng hệ thống xử lý chất thải của đơn
vị này rất sơ sài và nhiều lần xả thẳng nước thải xuống đập Chọ Ràn – nguồn nước
tưới chủ yếu của xã Đại sơn gây nên ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng
trực tiếp tới sinh hoạt và sản xuất của nhân dân (Tinmoi.vn, 2/3/2013).
Đáng lưu ý nữa là nước thải chưa qua xử lý từ các cơ sở chăn nuôi heo nằm
dọc kênh Trần Quang Cơ gây nguy cơ ô nhiễm nước sông Sài Gòn. Theo chi cục
Bảo vệ môi trường, nguồn nước thải từ chăn nuôi là một trong những nguồn thải
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn nước ăn uống, sinh hoạt của người dân
thành phố, bởi lẽ, nước thải chăn nuôi sau khi bị thải ra hệ thống kênh rạch thì chảy
thẳng ra sông Sài Gòn, nguồn nước thô cung cấp cho nước sinh hoạt của cả thành
phố. Nguồn nước thải này trước đây đã bị “bỏ sót”, mãi đến năm nay mới được
“phát hiện” để đưa vào danh sách nguồn thải cần thống kê và kiểm soát chặt chẽ
trong chương trình bảo vệ chất lượng nước hệ thống sông Đồng Nai – Sài Gòn
(Baomoi.com, 1/3/2013)
1.3.3 Ảnh hưởng tới môi trường không khí
Chăn nuôi sử dụng tới 70% diện tích đất giành cho nông nghiệp hoặc 30%
diện tích bề mặt của hành tinh. Chăn nuôi sản sinh ra tới 18% tổng số khí của nhà
kính tính quy đổi theo CO2, trong đó ngành giao thông chỉ chiếm 13,5%. Chăn nuôi
sinh ra 65% tổng lượng NO2, 37% tổng lượng CH4 64% tổng lượng NH3 do hoạt
động của loài người tạo nên. Chăn nuôi góp phần đáng kể đến việc làm tăng nhiệt
độ trái đất do sản sinh các khí gấy hiệu ứng nhà kính như: CH 4, CO2, NH3,.. gây
nhiều hậu quả cho sản xuất, sinh hoạt và biến đổi khí hậu toàn cầu. Các chất khí
dioxyt carbon ( CO2), metan (CH4), oxyt nito (NO2) là 3 loại khí hàng đầu gây hiệu
ứng nhà kính và làm tăng nhiệt độ trái đất, trong đó khí metan và và oxyt nito là hai
khí chủ yếu tạo ra từ hoạt động chăn nuôi và sử dụng phân bón hữu cơ. Tác dụng
23
gây hiệu ứng nhà kính của chúng tương ứng gấp 25 và 296 lần so với khí CO 2 sinh
ra chủ yếu từ việc đốt các nhiên liệu hóa thạch (Bùi Hữu Đoàn, 2011).
Tại xã Trực Thái (Nam Định) có 91,13% hộ nuôi. Kết quả mà cơ quan chức
năng thu được là mức khí độc NH 3, H2S cao hơn mức cho phép là 4,7 lần, mức
nhiễm khuẩn không khí trong chuồng nuôi trung bình là 18.675 vi sinh vật (cao hơn
tiêu chuẩn của Nga 12 lần) (Đào Lệ Hằng, 2013).
1.3.4 Ảnh hưởng tới việc lây lan dịch bệnh
Ô nhiễm môi trường còn làm phát sinh dịch bệnh, ảnh hưởng lớn đến hiệu
quả chăn nuôi. Từ năm 1997 đến nay, dịch lở mồm, long móng trên gia súc đã
hoành hành và đến nay chưa được khống chế triệt để. Từ cuối năm 2003, dịch cúm
gia cầm đã bùng phát tại Việt Nam, qua 4 năm, dịch đã tái phát 5 đợt, đã phải tiêu
huỷ trên 51 triệu gia cầm các loại, thiệt hại ước tính lên đến hàng ngàn tỷ đồng.
Bệnh đã có nhiễm sang người, đến nay đã có 100 người mắc và đã tử vong 46
người. Từ đầu năm 2007 đến nay đã bùng phát hội chứng rối loạn hô hấp và sinh
sản (bệnh tai xanh- PSSR) trên lợn đã gây thiệt hại nặng nề cho ngành chăn nuôi
lợn tại nhiều địa phương. Diễn biến của bệnh khá phức tạp, khả năng gây dịch còn
rất lớn. Dịch bệnh đã gây tổn thất lớn cho ngành chăn nuôi, gây mất an toàn thực
phẩm và còn có nguy cơ lây nhiễm sang người nguy hiểm như bệnh cúm gia cầm,…
(Cục Chăn nuôi, 2009).
Trong năm 2012, tình hình dịch bệnh có nhiều diễn biến phức tạp và căng
thẳng, đáng chú ý là dịch heo tai xanh và tiêu chảy cấp trên heo con xảy ra vào giữa
năm tại một số tỉnh thành trên cả nước. Cả nước có 22 tỉnh công bố phát dịch gây
thiệt hại không nhỏ tới sản xuất chăn nuôi cũng như người chăn nuôi. Đợt dịch heo
tai xanh xảy ra trên địa bàn tỉnh Đak Lak vừa qua đã gây thiệt hại nặng cho ngành
chăn nuôi. Đã có 13 huyện, thị xã, thành phố (trừ huyện Lak và Krông Bông) với
115 xã, 707 thôn, 2.287 hộ có dịch heo tai xanh. Tổng số heo mắc bệnh 23.249 con,
số chết và tiêu hủy 12.070 con (tương đương gần 413 tấn thịt hơi); tổng thiệt hại
ước tính 24 tỷ đồng (2lua.vn, ngày 2/3/2013).
24
1.4
Tình hình quản lý và xử lý chất thải chăn nuôi
1.4.1 Tình hình quản lý và xử lý chất thải chăn nuôi trên thế giới
Việc quản lý và xử lý chất thải chăn nuôi lợn đã được nghiên cứu triển khai ở
các nước phát triển từ cách đây vài chục năm. Các nghiên cứu của các tổ chức và
các tác giả như (Zhang và Felmann, 1997), (Boone và cs,1993; Smith & Frank,
1988)... Các công nghệ áp dụng cho xử lý nước thải trên thế giới chủ yếu là các
phương pháp sinh học. Ở các nước phát triển, quy mô trang trại hàng trăm hecta,
trong trang trại ngoài chăn nuôi lợn quy mô lớn (trên 10.000 con lợn), phân lợn và
chất thải lợn chủ yếu làm phân vi sinh và năng lượng Biogas cho máy phát điện,
nước thải chăn nuôi được sử dụng cho các mục đích nông nghiệp.
Hình 1.2: Mô hình quản lý chất thải rắn chăn nuôi trên thế giới
Tại các nước phát triển việc ứng dụng phương pháp sinh học trong xử lý nước
thải chăn nuôi đã được nghiên cứu, ứng dụng và cải tiến trong nhiều năm qua.
25