TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
**********
DƯƠNG THỊ HOA
BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
“TẬP TRUNG DÂN CHỦ” ĐỐI VỚI
TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh
HÀ NỘI – 2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
**********
DƯƠNG THỊ HOA
BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
“TẬP TRUNG DÂN CHỦ” ĐỐI VỚI
TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh
Người hướng dẫn khoa học
ĐẠI TÁ. THS NGUYỄN VĂN PHONG
HÀ NỘI – 2018
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, bên cạnh sự cố gắng, nỗ lực của bản thân
và những kiến thức được học ở trường, cùng với sự hướng dẫn tận tình của
thầy Đại tá. ThS Nguyễn Văn Phong - Trưởng khoa Đường lối quân sự Trung
tâm giáo dục quốc phòng và an ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, tôi
đã hoàn thành khóa luận này. Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
nhất đến thầy giáo Đại tá. ThS Nguyễn Văn Phong đã trực tiếp hướng dẫn,
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô giáo trong Trung tâm giáo dục
quốc phòng và an ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Vì mới làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học nên khóa luận
này không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong nhận được ý kiến đóng góp
quý báu của quý thầy, cô giáo trong Trung tâm giáo dục quốc phòng và an
ninh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 và các bạn đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 04 năm 2018
Tác giả đề tài
Dương Thị Hoa
LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận này được hoàn thành với sự hướng dẫn của thầy Đại tá. ThS
Nguyễn Văn Phong. Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong đề tài này
đích thực của riêng tôi.
Đề tài của tôi không trùng lặp với kết quả nghiên cứu của tác giả khác.
Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 15 tháng 04 năm 2018
Tác giả đề tài
Dương Thị Hoa
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu ...............................................................................................1
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................................................1
4. Đối tượng nghiên cứu..............................................................................................2
5. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................................2
6. Phương pháp nghiên cứu .........................................................................................2
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.................................................................................2
8. Bố cục của đề tài .....................................................................................................3
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGUYÊN TẮC “TẬP
TRUNG DÂN CHỦ” ĐỐI VỚI TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY .....................................................................4
1.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc “Tập trung dân chủ” đối với tổ chức Đảng trong
Quân đội nhân dân Việt Nam ......................................................................................4
1.1.1. Các khái niệm cơ bản ........................................................................................4
1.1.2. Sự hình thành và phát triển nguyên tắc “Tập trung dân chủ” .........................9
1.1.3. Vị trí, vai trò của nguyên tắc “Tập trung dân chủ” .......................................12
1.1.4. Bản chất nguyên tắc “Tập trung dân chủ” .....................................................13
1.2. Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc “Tập trung dân chủ” được thể hiện ở các tổ
chức Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam ........................................................22
1.2.1. Thực tiễn sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản các nước trên thế giới ................22
1.2.2. Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong năm 1929 ............................................24
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................25
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG “TẬP TRUNG DÂN CHỦ” ĐỐI VỚI TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY ..............................................26
2.1. Thực trạng và tính cấp thiết phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc “Tập trung
dân chủ” đối với tổ chức Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay .........26
2.1.1. Thực trạng nguyên tắc “Tập trung dân chủ” ở các tổ chức Đảng trong Quân
đội nhân dân Việt Nam hiện nay ...............................................................................26
2.1.2. Tính cấp thiết phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc “Tập trung dân chủ” đối
với tổ chức Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay ..............................34
2.2. Những biện pháp nâng cao chất lượng “Tập trung dân chủ” đối với tổ chức
Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay ..................................................36
2.2.1. Bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh nâng cao
phẩm chất năng lực mọi mặt cho cán bộ đảng viên cấp ủy các cấp .........................36
2.2.2. Tiếp tục thực hiện nghị quyết 79 của Đảng ủy Quân sự Trung ương để xây
dựng ban hành các quy định, quy chế chặt chẽ khoa học nhằm cụ thể hóa hơn nữa
các nội dung nguyên tắc “Tập trung dân chủ” nhất là bảo đảm tập thể lãnh đạo cá
nhân phụ trách ..........................................................................................................37
2.2.3. Nâng cao chất lượng sinh hoạt của các tổ chức Đảng duy trì nề nếp chế độ tự
phê bình và phê bình thực hành dân chủ đầy đủ trong sinh hoạt Đảng tăng cường
công tác điều tra thực điều lệ, chỉ thị, nghị quyết và các quy định quy chế hoạt động
của tổ chức Đảng ......................................................................................................38
2.2.4. Nâng cao cảnh giác và kiên quyết đấu tranh với âm mưu thủ đoạn xuyên tạc
phủ nhận của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch với nguyên tắc “Tập trung
dân chủ” và khắc phục những hiện tượng sai trái trong nội bộ ...............................40
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................................42
KẾT LUẬN ..............................................................................................................43
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................45
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trung thành với những nguyên lý xây dựng Đảng kiểu mới của chủ
nghĩa Mác-Lênin Tư tưởng Hồ Chí Minh từ khi thành lập đến nay Đảng ta
luôn giữ vững và khẳng định “Tập trung dân chủ” là nguyên tắc cơ bản trong
xây dựng tổ chức và hành động của Đảng là điều kiện không thể thiếu để phát
huy dân chủ giữ vững kỷ cương bảo đảm cho hoạt động thông suốt từ Trung
ương đến chi bộ. Vì vậy đối với tổ chức Đảng trong quân đội hiện nay là phải
nắm vững bản chất nguyên tắc “Tập trung dân chủ” đây là cơ sở hết sức quan
trọng để trung thành và tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc “Tập trung dân chủ”
trong xây dựng tổ chức và hành động của Đảng là cơ sở giữ vững và đấu
tranh phê phán với mọi biểu hiện sai trái thù địch nhằm phủ nhận nguyên tắc
“Tập trung dân chủ” âm mưu phi chính trị hóa quân đội làm Đảng tan rã từ
bản chất không còn lãnh đạo quân đội trực tiếp tuyệt đối về mọi mặt. Từ
những cơ sở như vậy cho nên tôi chọn đề tài “Biện pháp nâng cao chất
lượng “Tập trung dân chủ” đối với tổ chức Đảng trong Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận, thực tiễn trên cơ sở
đó đề xuất một số biện pháp thực hiện nguyên tắc “Tập trung dân chủ”.
Phê phán những quan điểm sai trái thù địch đối với tổ chức Đảng trong
quân đội hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu, luận giải làm rõ nguyên tắc “Tập trung dân chủ”.
Đánh giá thực trạng việc thực hiện nguyên tắc “Tập trung dân chủ” đối
với tổ chức Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
1
Đề xuất một số biện pháp góp phần tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc
“Tập trung dân chủ” đối với tổ chức Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam
hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp nâng cao chất lượng “Tập trung dân chủ” đối với tổ chức
Đảng trong Quân đội nhân dân Việt nam hiện nay.
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung vào nghiên cứu nguyên tắc lãnh đạo của Đảng - nguyên
tắc “Tập trung dân chủ”.
Giáo trình Công tác đảng, công tác chính trị Nxb Tổng cục chính trị
Quân đội nhân dân Việt Nam.
Các văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII, VIII, IX.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật Mác-Lênin, sử dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành, trong đó
sử dụng phương pháp lôgic-lịch sử, phân tích, điều tra, tổng kết thực tiễn và
phương pháp chuyên gia.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
7.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần tăng thêm cơ sở lý luận, thực
tiễn cho việc nâng cao chất lượng “Tập trung dân chủ” đối với tổ chức Đảng
trong quân đội hiện nay. Từ đó thúc đẩy thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc
“Tập trung dân chủ”.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nội dung nghiên cứu và những biện pháp được đề ra trong đề tài này sẽ
làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu những công trình tiếp theo về lĩnh
vực công tác đảng.
2
8. Bố cục của đề tài
Ngoài mục lục, mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo đề tài nghiên
cứu bao gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc “Tập trung dân
chủ” đối với tổ chức Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng và những biện pháp nâng cao chất lượng “Tập
trung dân chủ” đối với tổ chức Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam
hiện nay.
3
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGUYÊN TẮC
“TẬP TRUNG DÂN CHỦ” ĐỐI VỚI TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc “Tập trung dân chủ” đối với tổ chức
Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Tổ chức và vai trò của tổ chức
Tổ chức là sự liên kết con người với nhau theo nguyên tắc, chế độ điều
lệ quy định nhất định để hành động nhằm đạt những mục đích nhất định. Tổ
chức do con người lập ra, con người là yếu tố chủ yếu cấu thành tổ chức.
Trong đời sống xã hội, tổ chức chính là biểu hiện cụ thể của các mối quan hệ
xã hội của con người thông qua hình thức tổ chức.
Tổ chức là một chỉnh thể mà trong đó các bộ phận, các hệ thống hoạt
động quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng nhau tác động lẫn nhau, cùng phát triển
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và điều kiện hoàn cảnh xã hội trong từng
giai đoạn cụ thể. Tổ chức ở đây bao gồm: Các tổ chức Đảng, tổ chức quân sự
và các tổ chức khác trên lĩnh vực đời sống của con người.
Do nhu cầu tồn tại và phát triển, con người tự liên kết với nhau thành tổ
chức và hoạt động trong sự quy định của tổ chức. Cho nên tổ chức vừa là sản
phẩm của con người, vừa là chủ thể quy định con người, điều khiển hành vi
của con người và phát triển ở con người những phẩm chất, năng lực, tính cách
cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình.
Theo tinh thần của Ăng-ghen, chỉ có một tổ chức một cách tự giác nền sản
xuất xã hội sao cho sản xuất và phân phối được kế hoạch hóa thì về mặt xã hội
mới nâng được loài người lên trên giới súc vật, cũng như bản thân lao động đã
nâng con người lên về phương diện sinh lý. Sống trong tổ chức, con người sẽ
4
được nâng lên cả về nhận thức và năng lực, kinh nghiệm hành động. Tổ chức tạo
cho con người một chất lượng mới, một năng lực mới, năng lực cộng thể. Tổ
chức nhân sức mạnh của con người lên gấp bội và hạn chế, khắc phục được
những điểm yếu của con người. Tổ chức giúp con người “xóa bỏ được sự hạn
chế do cá nhân mình gây ra và sẽ phát triển được năng lực cộng thể của mình”.
Tổ chức hình thành do nhu cầu của con người, nhưng hình thành một
cách tự giác và theo quy luật riêng của nó. Tổ chức bao giờ cũng là để thực
hiện nhiệm vụ, do đó tổ chức phải phù hợp với những yếu tố cấu thành nên
nó: Chức năng, nhiệm vụ, điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nhiệm vụ khác
nhau lĩnh vực hoạt động khác nhau. Vì vậy, vấn đề tổ chức chỉ có thể xem xét
và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ biện chứng với đường lối nhiệm vụ
chính trị, với điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của từng thời kỳ cách mạng.
Đối với một chính đảng thì tổ chức và cương lĩnh của Đảng hợp
thành một chỉnh thể thống nhất hữu cơ để cấu thành nên Đảng. Cương lĩnh,
đường lối chính trị là nội dung, còn tổ chức là biểu hiện hình thức của
Đảng. Hai yếu tố này có quan hệ biện chứng với nhau trong quá trình vận
động và phát triển của Đảng.
Vai trò của tổ chức: Tổ chức là phương thức tập hợp lực lượng cách
mạng của Đảng. Trong cuộc đấu tranh với giai cấp tư sản, giai cấp công nhân
không còn con đường nào khác là phải tổ chức lại thành lực lượng, tổ chức ra
chính đảng của mình. Không những thế, giai cấp công nhân thông qua đội tiên
phong còn phải tập hợp xung quanh mình những lực lượng cách mạng mạnh
hơn hẳn lực lượng phản cách mạng.
Bằng tổ chức, Đảng quy tụ nhiều lực lượng quần chúng mà lực lượng
này tuy rất hùng hậu nhưng cũng rất tản mạn, tổ chức họ lại và lãnh đạo họ
đấu tranh. V.I.Lênin đã từng chỉ ra cho giai cấp vô sản biết rằng: “Trong cuộc
đấu tranh để giành chính quyền, giai cấp vô sản không có vũ khí nào khác
hơn là sự tổ chức”.
5
Tổ chức còn được thể hiện thông qua mối quan hệ biện chứng với
cương lĩnh và đường lối chính trị của Đảng. Tổ chức hình thành trên cơ sở
cương lĩnh đường lối chính trị.
Chức năng của tổ chức là thực hiện thắng lợi cương lĩnh và đường lối
chính trị của Đảng. Tổ chức vững mạnh, hoạt động có hiệu quả cao thì đường
lối, chủ trương chính sách của Đảng được thực hiện tốt. Ngược lại, tổ chức
yếu kém, năng lực và hiệu quả hoạt động của tổ chức thấp thì đường lối,
chính sách của Đảng không được thực hiện tốt.
Mặt khác, tổ chức không chỉ có chức năng tổ chức thực hiện đường lối
mà còn có chức năng góp phần xây dựng đường lối, cụ thể hóa đường lối và
qua hoạt động tổng kết thực tiễn, đúc kết kinh nghiệm, bổ sung phát triển
đường lối, chính sách của Đảng cho đúng đắn hơn, phù hợp hơn.
Tổ chức có vai trò quan trọng như vậy nên trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng công tác tổ chức và ra sức xây dựng
các tổ chức cách mạng ngày một vững mạnh, đủ sức đảm đương các nhiệm vụ
cách mạng.
1.1.1.2. Vai trò công tác tổ chức của Đảng
Công tác tổ chức là một trong hai mặt công tác cơ bản của Đảng:
Công tác tư tưởng và công tác tổ chức, đó là hai mặt công tác xây dựng
Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng và phát huy sức mạnh của các tổ
chức này nhằm thực hiện thắng lợi đường lối nhiệm vụ chính trị của Đảng,
biến sức mạnh chính trị - tinh thần thành sức mạnh vật chất, biến ý chí quyết
tâm thành hành động cách mạng. Công tác tư tưởng và công tác tổ chức
được tiến hành ở trình độ cao là điều kiện quyết định việc thực hiện thắng
lợi đường lối chủ trương của Đảng. Nhưng trong những thời điểm và điều
kiện cách mạng nhất định, có khi công tác tổ chức góp phần quyết định trực
tiếp nhất đến thắng lợi đó.
6
Bằng công tác tổ chức, Đảng nghiên cứu nắm vững tính quy luật của sự
hình thành và phát triển của tổ chức; nghiên cứu xác định chức năng, nhiệm
vụ, hình thức, quy mô phương thức hoạt động của tổ chức để xây dựng tổ
chức và các thành viên của tổ chức.
Cũng bằng công tác tổ chức, Đảng tiến hành quản lý, sắp xếp, phân
công lực lượng một cách khoa học, phối hợp một cách đồng bộ nhịp nhàng
hoạt động của các đảng viên, các bộ phận và toàn Đảng, thiết lập mối quan
hệ đúng đắn, gắn bó giữa cấp trên và cấp dưới, giữa các tổ chức Đảng với
các tổ chức quần chúng.
Công tác tổ chức còn góp phần tăng cường kỷ luật trong Đảng, làm cho
Đảng đoàn kết thống nhất một khối về ý chí và hành động, góp phần làm
trong sạch nội bộ và bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, chống lại mọi âm mưu và
thủ đoạn của kẻ thù phá hoại, chia rẽ nội bộ Đảng, nội bộ quân đội.
Đảng ta khẳng định công tác tổ chức bao giờ cũng là một nhiệm vụ chính
trị quan trọng và cấp bách, vì thế Đảng yêu cầu mọi cấp, mọi ngành, mọi cán bộ,
đảng viên đều phải có trách nhiệm chăm lo đến sự vững mạnh của tổ chức. “Cơ
quan lãnh đạo và người phụ trách phải đích thân làm công tác tổ chức”.
Nghiên cứu vai trò tổ chức và công tác tổ chức của Đảng có ý nghĩa
thực tiễn to lớn đối với việc xây dựng hệ thống tổ chức và bộ máy của Đảng,
xây dựng các tổ chức quần chúng trong quân đội.
Trước hết phải làm cho các cấp, các ngành, mọi cán bộ, đảng viên nhận
thức đúng vị trí, vai trò của tổ chức và công tác tổ chức, trên cơ sở đó đề cao
trách nhiệm chính trị trong việc chăm lo xây dựng các tổ chức mà trước hết là
tổ chức Đảng và cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng.
Phải gắn việc xây dựng tổ chức với thực hiện nhiệm vụ chính trị, phù
hợp tính chất, đặc điểm từng đơn vị; phải chấp hành nghiêm túc nguyên tắc tổ
chức và các chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên, bảo đảm tính đúng đắn, chặt chẽ
trong mọi hoạt động; phải kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện coi nhẹ
7
vai trò của tổ chức và công tác tổ chức, mặt khác cũng không tuyệt đối hóa
công tác tổ chức mà coi nhẹ công tác khác.
1.1.1.3. Vị trí công tác tổ chức của Đảng trong quân đội
Công tác tổ chức của Đảng trong quân đội là một bộ phận của công tác
tổ chức Đảng, một nội dung cơ bản của công tác đảng, công tác chính trị.
Công tác tổ chức Đảng trong quân đội nhằm mục đích góp phần xây dựng các
tổ chức Đảng, bộ máy của Đảng và các tổ chức quần chúng trong quân đội
vững mạnh, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.
Công tác tổ chức cùng với công tác tư tưởng của Đảng trong quân đội
thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội làm cho quân đội trung
thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, với nhân dân, sẵn sàng
chiến đấu hy sinh vì lý tưởng cộng sản và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ
mà Đảng và Nhà nước giao cho.
1.1.1.4. Khái niệm nguyên tắc “Tập trung dân chủ”
Nguyên tắc “Tập trung dân chủ” là một trong những nguyên tắc cơ bản
của các tổ chức Đảng Cộng sản và được trình bày trong điều lệ chính thức của
các Đảng Cộng Sản. V.I.Lênin người đầu tiên nhắc tới khái niệm “Tập trung
dân chủ”, giải thích rằng “Tập trung dân chủ” là tự do trong thảo luận nhưng
thống nhất trong hành động.
Như bất kỳ một tổ chức chính trị nào khác, sự tồn tại và phát triển
của Đảng Cộng sản cũng phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản. Đối với
Đảng Cộng sản, nguyên tắc sống còn, cơ bản nhất là nguyên tắc “Tập trung
dân chủ”. Nguyên tắc “Tập trung dân chủ” là sự kết hợp hài hòa giữa hai
mặt tập trung và dân chủ. Cả hai mặt tập trung và dân chủ tạo thành một
chỉnh thể thống nhất của một nguyên tắc, trong đó, dân chủ là điều kiện, là
tiền đề của tập trung còn tập trung là cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ
được thực hiện.
8
1.1.2. Sự hình thành và phát triển nguyên tắc “Tập trung dân chủ”
Trong qua trình hoạt động lý luận và đấu tranh cách mạng C. Mác và Ph.
Ăng-ghen đã khẳng định để hoàn thành sứ mệnh lịch sử, giai cấp vô sản cần
phải trở thành một lực lượng độc lập, có một Đảng vô sản triệt để cách mạng,
có cơ sở lý luận đúng đắn, và “Hiện nay, đã đến lúc người cộng sản phải công
khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình”.
Hai ông quyết định cải tổ “Liên đoàn những người chính nghĩa” [2] (Ra đời từ
năm 1836 bao gồm những người vô sản tiên tiến thuộc nhiều dân tộc. Một tổ
chức chặt chẽ và có tính tập trung rất cao, kỷ luật nghiêm minh, nhưng lại
hoạt động biệt phái thoát khỏi giai cấp công nhân, thiếu tính dân chủ, với
phương thức hoạt động mạo hiểm. Tổ chức này thừa nhận chỉ có C. Mác và
Ph. Ăng-ghen mới có khả năng đem lại cho các tổ chức công nhân một lý
luận, đường lối và phương thức đúng đắn) thành “Liên đoàn những người
cộng sản” và “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” ra đời (năm 1848), một văn kiện
có tính chất cương lĩnh đầu tiên trên thế giới.
Quá trình đó C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã đưa ra những quan điểm lý
luận quan trọng đặt nền móng cho công tác xây dựng Đảng. Nhưng do hạn
chế về hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ nên hai ông không có điều kiện nghiên
cứu để xây dựng thành một học thuyết hoàn chỉnh, mà chỉ đưa ra một số tư
tưởng có tính nguyên tắc về xây dựng Đảng.
Tư tưởng xây dựng một Đảng vô sản trên nguyên tắc “Tập trung dân
chủ” lần đầu tiên được C. Mác và Ph. Ăng-ghen trình bày trong “Điều lệ Liên
đoàn những người Cộng sản” (1947) song các ông chỉ dùng thuật ngữ “Dân
chủ triệt để”. Đảng xây dựng trên nguyên tắc “Dân chủ triệt để”. Các ông chỉ
rõ: Đảng phải được xây dựng trên những nguyên tắc dân chủ triệt để, các cơ
quan lãnh đạo của Đảng được bầu ra đều có thể bị thay thế hoặc bãi miễn, mọi
đảng viên đều bình đẳng, được tự do thảo luận những vấn đề sinh hoạt Đảng.
9
Đảng phải thường xuyên được củng cố vững chắc. Sự thống nhất về tư tưởng
và tổ chức là không gì có thể phá vỡ nổi. Đảng phải có cơ cấu tổ chức phù hợp
với điều kiện, thời gian hoạt động và những nhiệm vụ mà Đảng phải giải quyết.
Năm 1864 trong dự thảo “Điều lệ của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế”, C.
Mác viết: “Hội đồng Trung ương là cơ quan quốc tế, thực hiện mối liên hệ với
các tổ chức khác nhau đang hợp tác. Để cho công tác điều tra về những điều
kiện xã hội trong các nước khác nhau ở Châu Âu có thể được tiến hành đồng
thời và dưới sự lãnh đạo chung đều được tất cả các đoàn thể thảo luận, để khi
cần có những biện pháp thực tiễn ngay lập tức, thì không những đoàn thể tham
gia hội liên hiệp đều có thể hành động đồng thời và ăn khớp được”.
Đoạn văn trên cho thấy Quốc tế I là một tổ chức lãnh đạo theo một
đường lối và một mục tiêu chung, được các hội công nhân các nước thảo luận,
để mọi hành động thực tiễn, đều được tiến hành một cách đồng thời trên cơ sở
thống nhất trong “Điều lệ của Liên đoàn những người Cộng sản”, “Điều lệ
Hội Liên hiệp công nhân quốc tế”, đã xác định cả cơ cấu tổ chức của liên
đoàn. Cơ cấu đó thấm nhuần tinh thần tập trung dân chủ. Như vậy, thời kỳ
C. Mác và Ph. Ăng-ghen do cảnh lịch sử, nội dung dự kiến về nguyên tắc
“Tập trung dân chủ” trong xây dựng Đảng chưa hình thành như một khái
niệm khoa học.
Sau khi C. Mác và Ph. Ăng-ghen qua đời, những tư tưởng và truyền
thống về tổ chức đã bị các lãnh tụ của Quốc tế II xuyên tạc và phản bội. Họ đã
từ bỏ nguyên tắc cách mạng, tư tưởng cốt lõi của chủ nghĩa Mác, làm cho các
đảng xã hội - dân chủ thích nghi với hoạt động nghị trường thuần túy, mưu
toan hạn chế phong trào công nhân trong khuôn khổ đấu tranh cải lương,
không nhằm mục tiêu đấu tranh lật đổ giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản.
Trong những điều kiện như vậy, vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự
nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân là phải đập tan chủ nghĩa cơ hội,
10
bảo vệ sự trong sáng của học thuyết Mác trên các lĩnh vực, trong đó có học
thuyết về xây dựng Đảng, về xây dựng các Đảng thực sự cách mạng của giai
cấp công nhân. Nhiệm vụ lịch sử đó sau này đã được V.I.Lênin hoàn thành
một cách xuất sắc.
Đến đầu thế kỉ XX chủ nghĩa tư bản bước vào giai đoạn phát triển cao
chuyển thành chủ nghĩa đế quốc, giai cấp tư sản biến thành lực lượng phản
động, giai cấp công nhân lớn mạnh cả về số lượng, cách mạng vô sản đã trở
thành trực tiếp. Là cơ sở thực tiễn cho V.I.Lênin phát triển và hoàn thiện tư
tưởng của C. Mác và Ph. Ăng-ghen V.I.Lênin đã khái quát từ sự đòi hỏi phải
có tập trung và thống nhất từ tư tưởng nguyên tắc “Tập trung dân chủ” triệt để
của C. Mác và Ph. Ăng-ghen. Thông qua bài viết trên báo “Tia lửa” và các
tác phẩm “Làm gì” (bắt đầu từ 5/1901 - 2/1902), tác phẩm “Một bước tiến
hai bước lùi”, những sách lược của Đảng dân chủ xã hội trong cách mạng dân
chủ được viết từ năm 1903 - 1905. V.I.Lênin đưa ra thuật ngữ “Tập trung dân
chủ” tại Đại hội II Đảng công nhân dân chủ Nga V.I.Lênin đã luận giải
nguyên tắc “Tập trung dân chủ” trong xây dựng Đảng và tiến hành cuộc đấu
tranh giữa những người mác xít và bọn cơ hội, cải lương, dân tộc chủ nghĩa
xung quanh vấn đề tập trung dân chủ trong Đảng. V.I.Lênin khẳng định đây
là nguyên tắc tổ chức cao nhất, là xương sống của tổ chức Đảng mác xít cách
mạng kiểu mới. Sau bốn năm (1906) tại Đại hội IV, Đại hội thông qua nguyên
tắc “Tập trung dân chủ” và chính thức đưa vào Điều lệ Đảng. Tháng 7 năm
1920 là tiêu chuẩn các Đảng tham gia vào Quốc tế Cộng sản, sau năm 1945
hàng loạt các Đảng Cộng sản giành chính quyền, nguyên tắc “Tập trung dân
chủ” đều được ghi vào Điều lệ Đảng.
Trong suốt sự nghiệp cách mạng, Đảng ta luôn trung thành nguyên tắc
“Tập trung dân chủ”. Tổng kết công tác xây dựng Đảng, Đảng ta khẳng định:
“Quá trình phát triển Đảng gắn liền với việc Đảng kiên trì và từng bước cụ
11
thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhờ thực hiện nguyên tắc này mà
Đảng ta giữ vững và phát triển được tổ chức, bảo đảm sự thống nhất ý chí và
hành động tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng” [6]. Trong điều kiện
Đảng cầm quyền nguyên tắc “Tập trung dân chủ” còn là nguyên tắc tổ chức
hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, là nguyên tắc chỉ đạo
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, với xã hội, là điều
kiện không thể thiếu để phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, pháp luật, bảo
đảm cho hoạt động thông suốt từ trên xuống dưới. Tập trung dân chủ được
Hiến pháp nghi nhận tại Điều 4 Hiến pháp năm 1992 và Điều 6 Hiến pháp
năm 2001, điều đó càng khẳng định không chỉ trong Đảng mà nhà nước ta
được xây dựng tổ chức và hoạt động dựa trên nguyên tắc “Tập trung dân
chủ”, thể hiện bản chất của nhà nước cách mạng, của giai cấp công nhân, nhà
nước của dân, do dân và vì dân.
Như vậy, nguồn gốc ra đời và phát triển nguyên tắc “Tập trung dân
chủ” là một quá trình gắn liền với sự ra đời và đấu tranh cách mạng của giai
cấp công nhân, gắn liền với những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể từng
nước. Khi Đảng giành được chính quyền, trở thành Đảng cầm quyền, nhiệm
vụ vai trò và điều kiện hoạt động của Đảng có sự thay đổi căn bản, nguyên tắc
“Tập trung dân chủ” không chỉ là nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt, hoạt động
của Đảng mà còn là của hệ thống chính trị.
1.1.3. Vị trí, vai trò của nguyên tắc “Tập trung dân chủ”
Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn khẳng định “Tập trung dân chủ”
là nguyên tắc tổ chức cơ bản, xuyên suốt và toàn bộ quá trình tổ chức, sinh
hoạt nội bộ và quá trình hoạt động của Đảng, bảo đảm cho Đảng là một
chỉnh thể có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật tự giác nghiêm minh, đoàn kết thống
nhất cả ý chí và hành động. Có vai trò chỉ đạo các mối quan hệ trong sinh
hoạt nội bộ và hành động lãnh đạo của Đảng, giữa cấp trên và cấp dưới,
12
giữa địa phương và Trung ương, giữa cá nhân và tổ chức. Là cơ sở cho sự
thống nhất về chính trị, tư tưởng được bảo đảm bằng sức mạnh tổ chức,
vừa phát huy được tính tích cực, chủ động của tổ chức Đảng, đảng viên, tập
trung được trí tuệ của toàn Đảng. Theo Hồ Chí Minh thực hiện nguyên tắc
“Tập trung dân chủ” còn “tạo ra khả năng thường xuyên tự đổi mới, thường
xuyên nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu” [1] là phương thuốc
hữu hiệu ngăn ngừa những căn bệnh nguy hiểm hay mắc phải của một
Đảng cầm quyền như tệ quan liêu, gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền,
tham ô hủ hóa, dân chủ quá trớn; đây còn là một tiêu chuẩn để phân biệt
Đảng Cộng sản với các đảng phái khác, phân biệt người cộng sản chân
chính với các phần tử tự do, vô chính phủ, kém ý thức tổ chức, tính kỷ luật.
1.1.4. Bản chất nguyên tắc “Tập trung dân chủ”
1.1.4.1. Nguyên tắc “Tập trung dân chủ” là thuộc tính bản chất giai
cấp công nhân
C. Mác và Ph. Ăng-ghen coi tập trung dân chủ là cái “vốn có” của giai
cấp công nhân. Đảng là đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu có tổ chức và
là tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân là nơi thể hiện tập trung bản
chất của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân ra đời và phát triển gắn liền với sản xuất đại công
nghiệp (không giống sản xuất giản đơn), quá trình được rèn luyện trong nền
sản xuất đó, vừa đòi hỏi trình độ chuyên môn hóa ngày càng sâu, vừa đòi hỏi
trình độ hợp tác hóa ngày càng cao và quá trình đấu tranh thực hiện sứ mệnh
lịch sử của mình, với sự thống nhất lợi ích chính trị, kinh tế, mục tiêu lý tưởng
cao cả, đã tạo cho giai cấp công nhân những đặc trưng cơ bản: Tinh thần triệt
để cách mạng, tính tập trung thống nhất, tính kỷ luật nghiêm minh, tinh thần
dân chủ tập thể, tinh thần đoàn kết hiệp đồng hợp tác. Những đặc trưng đó là
ý thức, là hành động, phong cách của giai cấp công nhân, mà các giai cấp
13
khác không thể có. Tập trung dân chủ là một nội dung thuộc bản chất của giai
cấp công nhân, nguyên tắc “Tập trung dân chủ” phản ánh bản chất tổ chức
của giai cấp công nhân trong lao động sản xuất và trong đấu tranh cách mạng.
Nguyên tắc “Tập trung dân chủ” quy định xây dựng tổ chức, chỉ đạo
hoạt động của Đảng, đảm bảo là một chỉnh thể thống nhất có tổ chức chặt chẽ,
đồng bộ thống nhất từ Trung ương đến cơ sở, tránh được tình trạng lỏng lẻo,
lộn xộn, vô chính phủ bè phái, sẽ phát huy cao độ trí tuệ, tinh thần trách
nhiệm, sự sáng tạo của mọi thành viên, mọi tổ chức vào thực hiện nhiệm vụ
cách mạng, đó còn là yêu cầu, là phương tiện phát huy thế và lực của cách
mạng. Thực hiện đúng nguyên tắc “Tập trung dân chủ” là biện pháp quản lý
giáo dục rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, giữ nghiêm kỷ luật loại trừ
những phần tử cơ hội xét lại, vô chính phủ, thoái hóa biến chất phá hoại
Đảng. Cùng với nhân tố chính trị, tư tưởng, nguyên tắc tổ chức bảo đảm sự
trong sạch, năng lực lãnh đạo sức chiến đấu, uy tín và ảnh hưởng của Đảng
trong quần chúng, còn là tiêu trí phân biệt Đảng Cộng sản với các đảng cơ hội
xét lại, phi vô sản. V.I.Lênin cho rằng: “Sức mạnh của giai cấp công nhân
chính là tổ chức” [21]. Vì thế “Đội tiên phong của giai cấp công nhân phải
hết sức có tổ chức” [18] nguyên tắc tổ chức chính là nguyên tắc “Tập trung
dân chủ”.
Khi Đảng giành được chính quyền, trở thành Đảng cầm quyền, nhiệm
vụ vai trò và điều kiện hoạt động của Đảng có sự thay đổi căn bản, nguyên tắc
“Tập trung dân chủ” không chỉ còn là nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt, hoạt
động của Đảng, mà còn là của hệ thống chính trị, là nguyên tắc chỉ đạo, là
phương hướng lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, nên vai trò của
nguyên tắc “Tập trung dân chủ” không những được tăng lên.
Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, các Đảng Cộng sản
và Đảng ta cho thấy vai trò đặc điểm quan trọng của nguyên tắc “Tập trung
14
dân chủ”. Ngay từ khi mới ra đời để giữ vững nguyên tắc “Tập trung dân chủ”
là một cuộc đấu tranh gay gắt giữa người cộng sản và giai cấp tư sản, với
phần tử cơ hội xét lại, tư tưởng tự do vô tổ chức, vô kỷ luật. Nhưng nhiều
Đảng đã ngộ nhận đổ lỗi cho nguyên tắc “Tập trung dân chủ” làm trì trệ, lạc
hậu, không ưu việt hơn tư bản do thiếu dân chủ nên thiếu năng động sáng tạo,
không phát triển toàn diện do Đảng độc quyền đứng trên nhà nước, nên các
Đảng đã từ bỏ và dẫn tới tan rã mất chính quyền. Thực hiện đúng nguyên tắc
“Tập trung dân chủ” là nhân tố quyết định sự sống còn của Đảng Cộng sản
gắn với sự thành bại của cách mạng vô sản. Đảng nào phủ nhận xa rời, vi
phạm đều tới chỗ giảm sút ý chí, phân tán sức mạnh, phân liệt thậm chí tan rã.
Đảng ta khẳng định: “Chỉ có thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ
mới có thể vừa chống được tập trung quan liêu, vừa chống được tình trạng vô
chính phủ và bè phái” [4], và chỉ rõ: Phủ nhận xa rời nguyên tắc tập trung
dân chủ là tự phá hoại sức mạnh về tổ chức, biến Đảng thành một câu lạc bộ,
mở đường cho chủ nghĩa cơ hội, bè phái vô chính phủ đủ loại, đưa đến tan rã,
thủ tiêu bản thân Đảng. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là điều kiện
cơ bản Đảng lãnh đạo được quân đội, Đảng yêu cầu phải thường xuyên kiên
trì, giữ vững, thực hiện nghiêm, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Trong quá trình xây dựng chỉnh đốn Đảng hiện nay, Đảng ta “Kiên trì
nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm dân chủ và tập trung trong quá trình
hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương chính sách, trong tổ
chức và hoạt động, làm cho Đảng vững mạnh về tổ chức, tạo khả năng
thường xuyên yêu cầu tự đổi mới, thường xuyên nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu” [4], “Vi phạm nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương lỏng lẻo, đang
làm suy yếu sức chiến đấu của Đảng, làm giảm lòng tin của nhân dân” [4].
Để xây dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi của công cuộc đổi mới, sự nghiệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, xây dựng quân đội cách mạng chính
15
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện hiện đại, đòi hỏi phải tăng cường khối đại
đoàn kết thống nhất, phát huy truyền thống, ngăn chặn vô hiệu hóa sự phá
hoại của kẻ thù trên lĩnh vực tổ chức. Đảng ta xác định: Giữ vững nguyên tắc
tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, thường
xuyên tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu tranh phê phán với mọi quan
điểm sai trái, thù địch là một trong những vấn đề cơ bản cấp bách hiện nay.
Tóm lại tập trung dân chủ là thuộc tính bản chất giai cấp công nhân,
Đảng được tổ chức trên nguyên tắc “Tập trung dân chủ” là tất yếu khách
quan, nếu từ bỏ nguyên tắc này là sai lầm, là phi khoa học, tức là từ bỏ bản
chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản.
1.1.4.2. Nguyên tắc “Tập trung dân chủ” là sự thống nhất biện chứng
giữa hai thành tố tập trung và dân chủ
Bản chất nguyên tắc “Tập trung dân chủ” còn là sự thống nhất giữa hai
yếu tố tập trung và dân chủ, không có sự mâu thuẫn đối lập nhau, hai thành tố
vừa làm tiền đề vừa làm điều kiện cho nhau không được coi nhẹ mặt nào. Tập
trung trên cơ sở dân chủ, dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung, dân chủ phải
có lãnh đạo, hai thành tố tập trung và dân chủ bổ sung cho nhau, tăng cường
tập trung trên cơ sở mở rộng phát huy dân chủ, còn dân chủ phải hướng tới
tăng cường của tập trung và chỉ có trên cơ sở thống nhất biện chứng hai thành
tố đó thì dân chủ trong Đảng mới càng phát triển và làm cho tập trung dân chủ
trong Đảng càng vững chắc, đồng thời ngược lại những hiện tượng tập trung
quan liêu, hình thức chuyên quyền độc đoán, vô chính phủ, tự do, vô kỷ luật
làm trái bản chất của nguyên tắc “Tập trung dân chủ”, sẽ bị đẩy lùi. Hồ Chí
Minh đã khái quát mối quan hệ đó là: “Tập trung trên nền dân chủ và dân chủ
dưới sự chỉ đạo tập trung, tập trung và dân chủ luôn đi đôi với nhau” [15],
“Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung, tập thể lãnh
đạo cá nhân phụ trách là dân chủ tập trung” [13].
16
Tập trung trên nền tảng dân chủ là tập trung gắn với dân chủ, được quyết
định trên cơ sở dân chủ, để thực thi dân chủ, các cơ quan lãnh đạo đều do dân
chủ lập nên, quyền lực của cơ quan lãnh đạo là quyền lực do đảng viên giao
phó, do hội nghị Đảng quyết định, do đảng viên tập trung ý kiến, tổng hợp trí
tuệ kinh nghiệm mà thành, đó chính là sự tập trung do chính đảng viên lập nên,
không phải do bất kì một ai quyết định, là sự tập trung trên sự thống nhất ý chí
và hành động, lợi ích và trách nhiệm của đa số, được hình thành một cách tự
giác, chứ không phải một thứ tập trung được thiết lập một cách hình thức
cưỡng bức hay tập trung chỉ để phục vụ một nhóm người, một các nhân, nó đối
lập với tập trung quan liêu độc đoán, chuyên quyền, lạm dụng quyền lực, trấn
áp cấp dưới, đe dọa đảng viên, hình thức, đẳng cấp trong Đảng.
Tập trung trên cơ sở dân chủ được thể hiện trên mọi lĩnh vực, đó là sự
chấp hành nghiêm chỉnh Nghị quyết của Đảng, là đòi hỏi tính tập trung cao
độ, là trách nhiệm rất cao của đảng viên. Nhưng Nghị quyết của Đảng lại
chính là sản phẩm dân chủ của đảng viên là kết quả của quá trình tham gia
thảo luận bàn bạc, là trí tuệ ý chí của đảng viên, việc tuân thủ Nghị quyết của
đảng viên chính là tuân thủ ý chí nguyện vọng của đảng viên, chính là tôn
trọng quyền làm chủ của đảng viên. Trong thực hiện thiểu số phục tùng đa số,
cấp dưới phục tùng cấp trên, các nhân phục tùng tổ chức, các chế độ ấy trên
cơ sở thống nhất cao độ về mục tiêu lợi ích, quyền lợi một cách nghiêm ngặt.
Các cơ quan lãnh đạo của Đảng có thẩm quyền ra chỉ thị nghị quyết cho cấp
dưới thực hiện, kiểm tra đôn đốc, khen thưởng kỉ luật cấp dưới, những các cơ
quan đó đều do dân chủ bầu cử ra, đại biểu cho trí tuệ và sức mạnh của đảng
viên đó không thể hiểu là tập trung quan liêu, duy ý chí mà là thể hiện sự tập
trung gắn liền với dân chủ. Các cấp đảng phải báo cáo và chịu trách nhiệm
trước tổ chức Đảng, gương mẫu tự phê bình và tiếp thu phê bình cấp dưới
thực hiện tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách.
17
Để hiểu sâu sắc hơn “Dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung”, chúng
ta thấy rằng trong lịch sử xã hội loài người, từ khi có sự phân chia giai cấp
cho đến nay chưa bao giờ có một thứ dân chủ chung chung, dân chủ thần túy,
dân chủ vô bờ bến “Dân chủ là khát vọng của toàn nhân loại, nhưng trên con
đường vươn tới khát vọng đó nó bị chi phối bởi các Đảng và mang dấu ấn
của điều kiện kinh tế - xã hội” [17]. V.I.Lênin đã từng nói rằng: Nếu không
khinh thường lẽ phải và không khinh thường lịch sử thì ai cũng thấy rõ chừng
nào có giai cấp khác nhau thì không thể nói tới dân chủ thuần túy, mà chỉ có
thể nói tới dân chủ có tính giai cấp. Các thứ dân chủ thuần túy, dân chủ
không bờ bến chẳng qua chỉ là một công thức rỗng tuếch; dân chủ tư sản là
một bước nhảy vượt bậc của nhân loại, nhưng tiếp sau đó là bước nhảy cao
hơn dân chủ tư sản, như vậy lịch sử đã chia dân chủ tư sản và dân chủ xã hội
chủ nghĩa chứ không phải chúng ta cứng nhắc chia ra. Dân chủ sưới sự chỉ
đạo của tập trung là dân chủ có mục đích, có định hướng có lãnh đạo, có tổ
chức, hướng tới tập trung, bảo vệ và giữ gìn sự thống nhất trong Đảng, các
đảng viên được tôn trọng và được bảo vệ quyền bình đẳng trong bàn bạc, thảo
luận, quyết định các công việc của Đảng, nhưng phải trong khuôn khổ tổ chức,
phải chấp hành kỷ luật Đảng, phục tùng nghị quyết của Đảng. Các nhân phục
tùng tổ chức, được tự do phát huy mọi sáng kiến, kinh nghiệm của mình, nhưng
phải nhằm tập trung trí tuệ, hành động thống nhất của toàn Đảng hướng vào
thực hiện mục tiêu, lý tưởng chung của Đảng. Trong Điều 3, Điều lệ Đảng
Cộng sản Việt Nam ghi rõ bốn quyền của đảng viên là: “1. Được thông tin,
thảo luận các vấn đề cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối chủ trương
chính sách của Đảng; biểu quyết các công việc của Đảng”,“2. Ứng cử, đề cử
và bầu cử vào cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban
Chấp hành Trung ương”, “3. Phê bình chấp vấn về hoạt động của tổ chức
Đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với
các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời”, “4. Trình bày ý kiến khi
18
tổ chức Đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với
mình”. Trên tình thần các quyền đó, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chế độ ta là
chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn
đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lí. Đó là một
quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của con người. Khi mọi người đã phát biểu
ý kiến, đã tìm thấy chân lí, lúc đó quyền tự do tư tưởng văn hóa ra quyền tự do
phục tùng chân lí” [14]. Vì thế, quyền thảo luận và quyền tự do tư tưởng chính
Đảng có nguyên tắc vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ của mỗi cán bộ đảng viên,
nó đối lập với dân chủ tư sản, dân chủ cực đoan, dân chủ vô chính phủ, dân chủ
hình thức vì lợi ích cá nhân, bè phái, địa phương chủ nghĩa, sẽ biến Đảng thành
câu lạc bộ cãi vã suông, phân tán mất đoàn kết.
Tập trung và dân chủ liên hệ ràng buộc với nhau, phụ thuộc nhau,
thống nhất với nhau, thành tố này lấy thành tố kia làm tiền đề tồn tại cho
mình, hai thành tố không tách rời nhau, nhờ tập trung mà thấy rõ giá trị dân
chủ và ngược lại tập trung là tiền đề là điều kiện quy định trình độ tập trung.
Dân chủ trong Đảng càng sâu rộng thì sự thống nhất về ý chí và hành động
càng cao, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng càng bền chặt, sự tập trung càng
được củng cố và phát triển không ngừng và khi tập trung trong Đảng càng
được củng cố thì càng bảo đảm sự phát triển dân chủ và hiệu quả của dân chủ
ngày càng cao. Như vậy, tập trung và dân chủ luôn chế ước, điều chỉnh đòi
hỏi lẫn nhau, luôn tồn tại trong một chỉnh thể. Từ trong bản chất nguyên tắc
“Tập trung dân chủ” loại bỏ hoàn toàn khuynh hướng độc đoán, quan liêu, áp
đặt, đồng thời cũng loại bỏ khuynh hướng vô chính phủ, dân chủ cực đoan
phá hoại sự thống nhất của Đảng, bản chất nguyên tắc “Tập trung dân chủ”
đòi hỏi các tổ chức Đảng trong quá trình thực hiện nguyên tắc phải nhận thức
và giải quyết đúng đắn mối quan hệ tập trung và dân chủ. Nhấn mạnh một
chiều, tách rời tập trung và dân chủ hoặc phủ nhận bất kì thành tố nào đều trái
với bản chất tập trung dân chủ.
19