Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân trong kháng chiến trống thực dân pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (693.88 KB, 67 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

NGUYỄN THỊ NHUNG

NGHIÊN CỨU TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ NGHỆ THUẬT TIẾN HÀNH CHIẾN
TRANH NHÂN DÂN TRONG KHÁNG
CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục Quốc phòng và an ninh

HÀ NỘI - 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

NGUYỄN THỊ NHUNG

NGHIÊN CỨU TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ NGHỆ THUẬT TIẾN HÀNH CHIẾN
TRANH NHÂN DÂN TRONG KHÁNG
CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

Thƣợng tá. Th.s Phạm văn Dƣ



HÀ NỘI – 2018


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được khóa luận này là được sự giúp đỡ của các thầy cô
trong Trung tâm giáo dục quốc phòng Hà Nội 2, đặc biệt là sự hướng dẫn tận
tình của Thầy Thượng tá Phạm Văn Dư, em đã hoàn thành được khóa luận
này.
Lời đầu tiên em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo,
Thượng tá Thạc sĩ Phạm Văn Dư đã trực tiếp hướng dẫn tận tình trong suốt
quá trình em thực hiện khóa luận.
Em xin trân thành cảm ơn các thầy, cô trong Trung tâm Giáo dục quốc
phòng Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành khóa luận.
Vì mới làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học, chưa có kinh
nghiệm không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến
đóng góp quý báu của thầy cô trong Trung tâm Giáo dục quốc phòng và các
bạn đồng nghiệp để đề tài càng được hoàn chỉnh hơn.
Em xin trân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày… tháng... năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Thị Nhung


LỜI CAM ĐOAN
Khoá luận này được hoàn thành với sự hướng dẫn của thầy Phạm Văn
Dư. Em xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong đề tài này là đích thực của
riêng em. Đề tài của em không trùng với kết quả nghiên cứu của tác giả khác.
Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày…tháng…năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Thị Nhung


KÍ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

BVTQ

Bảo vệ Tổ quốc

CNĐQ

Chủ nghĩa đế quốc

CTND

Chiến tranh nhân dân

LLVT

Lực lượng vũ trang

NTQS


Nghệ thuật quân sự

NXB

Nhà xuất bản

QPAN

Quốc phòng an ninh

QPTD

Quốc phòng toàn dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 3
4.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................. 3
4.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 3
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ...................................................... 3
6.1. Ý nghĩa khoa học ....................................................................................... 3

6.2. Ý nghĩa thực tiễn ........................................................................................ 4
7. Kết cấu của đề tài .......................................................................................... 4
Chƣơng 1:BỐI CẢNH TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM TRONG
NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC
DÂN PHÁP ...................................................................................................... 5
1.1. Tình hình thế giới. ...................................................................................... 5
1.2. Tình hình trong nước.................................................................................. 6
1.2.1. Tình hình nước ta sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 ....................... 6
1.2.2. Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng 7
1.3. Bác Hồ với sự nghiệp lãnh đạo cách mạng Việt Nam ............................... 9
Chƣơng 2:NÉT ĐẶC SẮC TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀNGHỆ THUẬT TIẾN HÀNH CHIẾN TRANH NHÂN DÂN TRONG
THỜI KÌ 1945- 1954 ..................................................................................... 13
2.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật tiến hành chiến
tranh nhân dân ................................................................................................. 13
2.1.1. Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin................................................. 14
2.1.2. Truyền thống giữ nước của dân tộc ...................................................... 15


2.1.3. Tinh hoa nghệ thuật quân sự của nhân loại ......................................... 15
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát động và tổ chức toàn dân kháng chiến,
toàn diện kháng chiến...................................................................................... 16
2.2.1. Toàn dân kháng chiến ........................................................................... 17
2.2.2. Toàn diện kháng chiến .......................................................................... 25
2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện phương châm đánh lâu dài dựa vào
sức mình là chính, kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh ngoài nước . 34
2.3.1. Kháng chiến trường kỳ .......................................................................... 34
2.3.2. Dựa vào sức mình là chính ................................................................... 35
2.3.3. Kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại .................................................. 38
2.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân làm

nòng cốt cho toàn dân đánh giặc ..................................................................... 40
2.4.1. Quan điểm về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng ....................... 40
2.4.2. Chủ trương về xây dựng lực lượng vũ trang 3 thứ quân ...................... 40
2.4.3. Lãnh đạo xây dựng bộ chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích 41
2.5. Xây dựng hậu phương chiến tranh vững mạnh, vừa kháng chiến vừa kiến
quốc ................................................................................................................. 43
Chƣơng 3:VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO SỰ NGHIỆP
XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY ................................... 48
3.1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong tổ chức chiến tranh nhân dân bảo
vệ tổ quốc ........................................................................................................ 48
3.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, chiến tranh nhân dân................................................................................ 51
3.3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân ................................................................................................................... 55
KẾT LUẬN .................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 60


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền tảng để hình thành đường lối chiến tranh, nghệ thuật tiến hành chiến
tranh nhân dân, là sản phẩm của sự kế thừa, phát triển giá trị truyền thống
nghệ thuật quân sự Việt Nam, một trong những nội dung quan trọng trong di
sản tư tưởng nhân văn quân sự Hồ Chí Minh. Đó là nền tảng, cơ sở hình thành
đường lối tiến hành chiến tranh cách mạng hết sức đúng đắn của Đảng cộng
sản Việt Nam – nhân tố quyết định mọi thắng lợi vĩ đại của chiến tranh cách
mạng ở Việt Nam suốt mấy thập kỉ qua.
Trong giai đoạn 1945 – 1954 sự thắng lợi của cuộc kháng chiến cống
thực dân Pháp có ý nghĩa lịch sử to lớn như Chủ tịch Hồ Chí Minh, linh hồn
của cuộc kháng chiến đã nói: “ Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa

nhỏ đã đánh thắng nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của
nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của lực lượng hòa bình,
dân chủ và XHCN trên thế giới”. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ
thuật tiến hành chiến tranh nhân dân trong giai đoạn 1945 – 1954 sẽ góp phần
giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam do
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện trải qua 87 năm, đã giành được
nhiều thắng lợi vẻ vang, đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Một trong
những nhân tố tạo nên thắng lợi đó là tư tưởng Hồ Chi Minh về chiến tranh
nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng, có vị trí xuyên
suốt trong toàn bộ tư tưởng quân sự của Người. “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
chiến tranh nhân dân là hệ thống những luận điểm, nguyên tắc, phương châm
chiến lược nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh
thời đại trong cuộc chiến tranh cách mạng, vì độc lập dân tộc, dân chủ và
XHCN”. Đó là tư tưởng lấy nhỏ thắng lớn, lấy chất lượng cao thắng số lượng
đông, lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, kiên quyết không ngừng thế tiến công,
1


tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh thắng kẻ thù xâm lược. Đó còn là tư tưởng
cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc, có LLVT làm nòng cốt, đánh giặc bằng
mọi vũ khí, bằng mọi hình thức đấu tranh, dưới lãnh đạo trực tiếp của Đảng,
đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam. Quá trình hình thành và phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh về CTND gắn liền với hoạt động cách mạng của
Người, gắn liền với các thời kì phát triển của Đảng ta và cách mạng Việt
Nam. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về CTND trong giai đoạn 1945 –
1954 sẽ góp phần trực tiếp nghiên cứu tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến
tranh nhân dân đã khẳng định được cả góc độ lí luận và thực tiễn. Nó có ý
nghĩa, vai trò vô cùng to lớn đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc nói chung và

xây dựng chiến lược quốc phòng, chiến lược quân sự Việt Nam trong thời kì
mới nói riêng. Trước yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, đòi hỏi chúng ta tiếp tục đi sâu nghiên cứu và
vận dụng sáng tạo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân, nền quốc phòng toàn dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân ở Việt Nam trong tư tưởng
Hồ Chí Minh có những nội dung đặc sắc, được thể hiện từ khi Bác tổ chức
xây dựng lực lượng, tập hợp và phát động nhân dân cả nước đứng lên tổng
khởi nghĩa giành chính quyền bằng cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945
đến lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ… có tác dụng và ý
nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với người giáo viên giáo dục QPAN nên tôi đã
chọn đề tài: “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật tiến hành chiến tranh
nhân dân trong kháng chiến trống thực dân Pháp” làm đề tài nghiên cứu
khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu

2


Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân
dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ
thuật tiến hành chiến tranh nhân dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Nghiên cứu và vận dựng tư tưởng Hồ Chí minh vào thực hiệnnhiệm vụ
xây dựng thế trận và tổ chức chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật tiến

hành chiến tranh nhân dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp thời kì
1945 – 1954.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật tiến hành chiến tranh
nhân dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp thời kì 1945 – 1954.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối quan điểm của Đảng.
Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên
ngành và liên ngành trong đó chú trọng các phương pháp: Phương pháp lịch
sử, phương pháp logic, phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp và
phân tích tài liệu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu của khóa luận góp phần làm rõ thêm cơ sở lí luận,
củng cố lập trường tư tưởng, niềm tin khoa học vào sự nghiệp lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện.
Đồng thời, khóa luận cũng góp phần vào việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
3


Minh về chiến tranh nhân dân nói riêng và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh nói
chung.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Khóa luận hệ thống tư liệu có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, giảng dạy môn giáo dục Quốc phòng và An ninh. Đồng thời,
có thể cung cấp tư liệu cho công tác quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân,
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
7. Kết cấu của đề tài
- Mở đầu

- Nội dung gồm: 3 chương:
Chương 1: Bối cảnh tình hình thế giới và Việt Nam trong những năm
đầu của cuộc chiến tranh kháng chiến chống thực dân Pháp.
Chương 2: Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật tiến
hành chiến tranh nhân dân trong thời kì 1945 – 1954.
Chương 3: Vận dụng những tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
- Kết luận và kiến nghị
- Tài liệu tham khảo

4


Chƣơng 1
BỐI CẢNH TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM TRONG NHỮNG
NĂM ĐẦU CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP

1.1. Tình hình thế giới.
Tình hình thế giới sau chiến tranh thế giới thứ 2 về cơ bản là CNĐQ suy
yếu các trào lưu cách mạng của thời đại mạnh lên. Đó là thuận lợi cơ bản của
cách mạng Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám. Nhưng trước mắt Việt Nam
còn nằm ở trong khu vực ảnh hưởng của CNĐQ, chưa nhận được sự giúp đỡ
của Liên Xô và các lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế giới. Tình hình thế giới
những năm đầu sau chiến tranh thế giới thứ hai có những diễn biến phức tạp,
tác động đến cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam.
Tình hình trên, đòi hỏi Đảng ta và Hồ Chí Minh phát huy cao độ tinh thần độc
lập, tự chủ để lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh nhằm giữ vững
chính quyền và bảo vệ thành quả cách mạng.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân
bước vào thời kì khôi phục và phát triển kinh kế, bước đầu giành được những

thành tựu quan trọng. Để đối phó với âm mưu của Mỹ và các thế lực thù địch,
Liên Xô một mặt tập trung phát triển kinh tế, tăng cường khả năng quốc
phòng; mặt khác phải giúp đỡ các nước Đông Âu, vành đai phía Tây của mình
cùng chế độ dân chủ.
Nhìn chung, tình hình thế giới trong những năm đầu của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp có nhiều bất lợi cho nhân dân ta. Cách mạng Việt
Nam ở trong vòng vây của CNĐQ, bị cô lập với thế giới bên ngoài. Đó là thử
thách hết sức gay gắt đối với Đảng Nhà nước, nhân dân Việt Nam và lãnh tụ
Hồ Chí Minh.

5


1.2. Tình hình trong nƣớc
1.2.1. Tình hình nước ta sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
vừa ra đời đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách. Quân đội các
nước Đồng minh dưới danh nghĩa giải giáp quân Nhật đã lũ lượt kéo vào
nước ta.
Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, gần 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc kéo vào
đóng quân ở Hà Nội và hầu hết các tỉnh. Theo sau chúng là tay sai thuộc các
tổ chức phản động như Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc), Việt Nam
Cách mạng đồng minh hội (Việt cách) về nước hòng cướp chính quyền của ta.
Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân Anh tạo điều kiện cho thực dân Pháp quay
trở lại xâm lược. Lợi dụng tình hình đó, bọn phản động trong nước ngóc đầu
dậy, làm tay sai cho Pháp chống phá cách mạng.
Ngoài ra, trên cả nước ta, còn 6 vạn quân Nhật chờ giải giáp. Một số bộ
phận quân Nhật theo lệnh quân Anh đánh lại lược lượng vũ trang của ta, tạo
điều kiện cho quân Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng.
Trong khi đó, chính quyền cách mạng vừa mới thành lập, chưa được

củng cố, lực lượng vũ trang còn non yếu. Nền kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu,
lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề; hậu quả của nạn đói năm 1944 – đầu năm
1945 chưa khắc phục được. Tiếp đó là nạn lụt lớn, làm vỡ đê ở chín tỉnh Bắc
Bộ rồi hạn hán kéo dài, khiến cho nửa tổng diện tich đất không canh tác được.
Nhiều xí nghiệp còn nằm trong tay tư bản Pháp. Các cơ sở nông nghiệp của ta
chưa được phục hồi sản xuất. Hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, đời sống
nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Ngân sách Nhà nước lúc này hầu như trống rỗng, kho bạc Nhà nước chỉ
còn 1,2 triệu đồng. Chính quyền cách mạng chưa quản lí được Ngân hàng
Đông Dương. Trong lúc đó, Trung Hoa Dân quốc lại tung ra thị trường các
loại tiền Trung Quốc đã mất giá, làm cho nền tài chính nước ta thêm rối loạn.
6


Tàn dư văn hóa lạc hậu của thực dân, phong kiến để lại hết sức nặng nề,
hơn 90% dân số không biết chữ.
Đất nước đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Tuy nhiên, thắng
lợi của chúng ta lúc bấy giờ là một thuận lợi lớn. Cách mạng tháng Tám năm
1945 thành công, đập tan ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, lật
nhào chế độ phong kiến chuyên chế hàng ngàn năm, thành lập nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành chủ nhân thật
sự của đất nước, từ một nước thuộc địa nửa phong kiến thành một nước độc
lập, tự do, đưa Đảng ta từ chỗ là một Đảng hoạt động “bất hợp pháp” trở
thành Đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước.
1.2.2. Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản, bảo vệ chính quyền cách
mạng
Với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, ngay sau khi phát xít Nhật
đầu hàng Đồng minh, Chính phủ Đờ Gôn đã quyết định thành lập một đạo
quân viễn chinh dưới quyền chỉ huy của tướng Lơcơléc, đồng thời cử Đô đốc
Đácgiăngliơ làm Cao ủy Pháp ở Đông Dương.

Ngày 02/09/1945, khi nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn tổ chức mít tinh
chào mừng “Ngày Độc lập”, thực dân Pháp xả súng vào dân chúng, làm 47
người chết và nhiều người bị thương.
Sau 20 ngày Cách mạng tháng Tám thành công, đêm 22 rạng sáng
23/09/1945 được sự giúp đỡ của quân Anh, thực dân Pháp cho quân đánh úp
trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phố Sài Gòn, mở đầu
cho chiến tranh xâm lược lần thứ hai của ta.
Trong hoàn cảnh phải đối phó với cuộc xâm lược trở lại của thực dân
Pháp ở Nam Bộ, sự uy hiếp của quân Trung Hoa Dân quốc ở ngoài Bắc nhằm
lật đổ chính quyền cách mạng. Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh
vạch rõ: tránh trường hợp một mình đối phó với nhiều kẻ thù một lúc, từ đó
chủ trương tạm thời hòa hoãn, tránh xung đột với Trung Hoa Dân quốc.
7


Với danh nghĩa quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật, quân Trung
Hoa Dân quốc không dám ra mặt công khai, mà dùng bọn tay sai Việt Quốc,
Việt Cách phá cách mạng nước ta từ bên trong. Dựa vào quân Trung Hoa Dân
quốc, bọn tay sai đòi ta phải cải tổ Chính phủ, dành cho chúng một số ghế
trong Quốc hội không qua bầu cử, đòi những người cộng sản ra khỏi chính
phủ.
Nhằm hạn chế sự phá hoại của Trung Hoa Dân quốc và tay sai, tại kì họp
đầu tiên (02/03/1946), Quốc hội khóa I đồng ý nhường cho đảng Việt Quốc,
Việt Cách 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử cùng 4 ghế bộ trưởng
trong Chính phủ liên hiệp, Nguyễn Hải Thần (lãnh tụ Việt Cách) giữ chức
Phó Chủ tịch nước; đồng thời nhân nhượng cho quân Trung Hoa Dân quốc
một số quyền lợi kinh doanh như: Cung cấp một phần lương thực, thực phẩm,
phương tiện giao thông vận tải, cho phép lưu hành tiền Trung Quốc trên thị
trường.
Để giảm bớt công kích của kẻ thù, tránh những hiểu lầm trong nước và

ngoài nước có thể trở ngại đến tiến đồ, sự nghiệp giải phóng dân tộc, đồng
thời đặt lợi ích dân tộc trên hết, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố “tự
giải tán” (11/11/1945), nhưng thực ra là tạm thời rút vào hoạt động “bí mật”,
tiếp tục lãnh đạo đất nước, lãnh đạo chính quyền cách mạng.
Đối với các tổ chức cách mạng, tay sai của Trung Hoa Dân quốc (Việt
Quốc, Việt Cách), chính quyền cách mạng dựa vào quần chúng, kiên quyết
vạch trần âm mưu và những hành động chia rẽ, phá hoại của chúng. Những kẻ
phá hoại có đủ bằng chứng thì bị trừng trị theo pháp luật. Chính phủ còn ban
hành một số sắc lệnh nhằm trấn áp bọn phản cách mạng.
Những biện pháp trên đã hạn chế mức thấp nhất cách hoạt động chống
phá của Trung Hoa Dân quốc và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đổ chính
quyền cách mạng của chúng.

8


Sau khi chiếm đóng các đô thị ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân
Pháp thực hiện kế hoạch tiến quân ra Bắc nhằm thôn tính cả nước ta. Do ta
đấu tranh kiên quyết, cuộc đàm phán chính thức giữa hai Chính phủ Việt Nam
và Pháp được tổ chức tại Phôngtennơblô (Pháp) từ ngày 06/07/1946. Cuộc
đàm phán thất bại vì phía Pháp ngoan cố không chịu nhận độc lập và thống
nhất của nước ta. Trong lúc đó, tại Đông Dương, quân Pháp tăng cường
những hoạt động khiêu khích. Quan hệ Việt – Pháp ngày càng căng thẳng, có
nguy cơ nổ ra chiến tranh.
Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang ở thăm nước
Pháp với tư cách là thượng khách của Chính phủ Pháp, đã kí với Mutê – đại
diện chính phủ Pháp – bản Tạm ước ngày 14/09/1946, tiếp tục nhân nhượng
Pháp một số quyền lợi về kinh tế - văn hóa ở Việt Nam. Bản tạm ước đã tạo
điều kiện cho ta kéo dài thời gian hòa hoãn để xây dựng, củng cố lực lượng,
chuẩn bị bước vào công cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp

không thể tránh khỏi.
1.3. Bác Hồ với sự nghiệp lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Trước dã tâm của thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần
nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng quyết định phát động
cuộc kháng chiến trên phạm vi cả nước. Sáng ngày 20/12/1946, trên làn sóng
phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam, lời kêu gọi cứu nước của Người đã
truyền đi khắp nước: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ… Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì
người già người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt
Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng
súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy
gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
Kế thừa những lý luận trong học thuyết quân sự Mác – Lênin, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã phân biệt rõ đâu là chiến tranh chính nghĩa, cách mạng và
9


đâu là chiến tranh phi nghĩa, phản cách mạng. Người cho rằng, quần chúng
nhân dân lao động, nếu được giác ngộ và có nhận thức đúng đắn, sẽ ủng hộ
hăng hái tham gia cuộc chiến tranh chính nghĩa. Vì thế, chỉ có chiến tranh
chính nghĩa mới có thể huy động, tập hợp đông đảo quần chúng, được toàn
nhân dân tham gia chiến đấu. Có thể thấy, chiến tranh nhân dân do toàn dân ta
tiến hành nhằm giành lại và giữ vững nền độc lập, tự do cho Tổ quốc mình là
chiến tranh chính nghĩa. Khẳng định tính chính nghĩa là một trong những
nhân tố hàng đầu đưa cuộc chiến tranh của nhân dân ta đi đến thắng lợi, cho
dù phải trải qua muôn vàn gian khổ, hy sinh, thậm chí kéo dài, “chúng ta thà
hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm
nô lệ… Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh,
thắng lợi nhất định thuộc về dân tộc ta”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi độc lập dân tộc và tự do hòa bình là mục tiêu

phấn đấu suốt đời mình. Thế nhưng trong điều kiện phải đương đầu với kẻ thù
xâm lược có sức mạnh quân sự và kinh tế hơn ta nhiều lần, có quân số đông
và vũ khí hiện đại, cần phải huy động sức mạnh của toàn dân để chiến đấu.
Muốn đánh bại kẻ thù hung bạo, mạnh hơn ta gấp bội thì mỗi người dân Việt
Nam thì đều phải đứng lên bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước. Khi nhấn
mạnh vai trò của nhân dân, về tính chất chính nghĩa, động lực của cuộc kháng
chiến là bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, Người khẳng định:
“Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng
nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta
một lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Bằng sự khẳng định đó, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã xác định mục đích chính nghĩa của cuộc kháng chiến và lòng
tin tưởng của Người vào sức mạnh ý chí bảo vệ độc lập, tự do và thống nhất
Tổ quốc của nhân dân ta.

10


Từ quan điểm về vai trò của con người trong lĩnh vực quân sự và lòng tin
vào sức mạnh của nhân dân – có dân là có tất cả, Người nhấn mạnh phải dựa
vào dân, khơi nguồn sức mạnh, sức sáng tạo của nhân dân. Nhân dân trong
quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là toàn dân Việt Nam. Người giải thích,
toàn dân kháng chiến là ai cũng phải đánh giặc, bất kì đàn ông, đàn bà, người
già, người trẻ, ai cũng tham gia kháng chiến. Tổ quốc là Tổ quốc chung, Tổ
quốc độc lập thì ai cũng tự do, nếu mất nước thì ai cũng làm nô lệ. Người đã
tìm thấy điểm tương đồng, chất keo kết dính các tầng lớp, giai cấp, dân tộc
chính là lợi ích tối cao của dân tộc. Đây là nguyên tắc sống còn được Người
khái quát ngắn gọn nhưng vô cùng sâu sắc: dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phát huy sức mạnh dân tộc, thực hiện toàn
dân kháng chiến nhưng phải lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Cùng kêu

gọi toàn dân kháng chiến, Người kêu gọi anh em binh sĩ, dân quân tự vệ phải
hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn non sông đất nước. Đảng đã tập
trung xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương và dân quân tự vệ. Đây chính là phương thức tổ chức lực lượng rộng
khắp toàn dân, lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ trên cả nước và từng
khu vực để tạo sức mạnh lớn nhất tiêu diệt quân thù.

11


Tiểu kết chƣơng 1
Chương 1 đã vẽ lên một bức tranh toàn cảnh về những thuận lợi và khó
khăn của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, giai
đoạn 1945 – 1954. Những mặt thuận lợi cơ bản là: Cách mạng tháng Tám
thành công, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà ra đời. Đảng và nhân dân Việt
Nam có bộ máy chính quyền nhà nước làm công cụ để xây dựng và bảo vệ đất
nước; nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước và truyền thống cách
mạng, ảnh hưởng của những thành quả cách mạng, nên có quyết tâm bảo vệ
chế độ mới; Đảng đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh dạn dày kinh nghiệm
lãnh đạo, đã trở thành đảng cầm quyền, là trung tâm đoàn kết toàn dân trong
cuộc đấu tranh để xây dựng và bảo vệ chế độ cộng hoà dân chủ; hệ thống xã
hội chủ nghĩa hình thành, phong trào giải phóng dân tộc dâng cao ở các nước
thuộc địa và phụ thuộc, phong trào đấu tranh vì hoà bình, dân chủ phát triển ở
nhiều nước tư bản chủ nghĩa.
Bên cạnh những thuận lợi đó nước Việt Nam gặp phải muôn vàn khó
khăn trước những áp lực của giặc ngoại xâm và nội phản về chính trị; về kinh
tế; về văn hoá, xã hội. Những thuận lợi khó khăn trên đã thúc đẩy sự hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh cần phát huy sức mạnh của toàn dân tộc để lãnh
đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.


12


Chƣơng 2
NÉT ĐẶC SẮC TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGHỆ
THUẬT TIẾN HÀNH CHIẾN TRANH NHÂN DÂN TRONG THỜI KÌ
1945- 1954
2.1. Cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật tiến hành
chiến tranh nhân dân
2.1.1. Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin
Trên cơ sở thực tế và những nhân tố tư tưởng, đặc biệt là chủ nghĩa yêu
nước, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin. Tư tưởng Hồ Chí
Minh là sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và chủ nghĩa Mác –
Lênin. Việc Nguyễn Ái Quốc tìm đến chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm thấy ở chủ
nghĩa Mác – Lênin “cái cần thiết” và “con đường” giải phóng dân tộc Việt
Nam, “ ngọn hải đăng soi đường cho toàn thể nhân loại bị áp bức đi đến giải
phóng”, là bước quyết định trong qua trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lênin tư tưởng yêu nước của Nguyễn Ái Quốc có
bước nhảy vọt về chất – tư tưởng yêu nước của Nguyễn Ái Quốc trở thành tư
tưởng Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh rằng yêu nước,
anh dũng chiến đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc không phải chất riêng có trong
những người cộng sản mà vốn có ở hàng triệu người trong Đảng cũng như
ngoài Đảng. Song chỉ có Đảng của giai cấp công nhân được vũ trang bằng
chủ nghĩa Mác – Lênin mới có đường lối đúng đắn để giải phóng dân tộc,
biến chủ nghĩa yêu nước truyền thống thành chủ nghĩa yêu nước với chủ
nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế cộng sản.
Được hệ tư tưởng khoa học của giai cấp công nhân quốc tế soi sáng, phong
trào giải phóng dân tộc Việt Nam đã tìm ra đường lối cứu nước đúng đắn.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở chủ yếu nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh. Còn tư tưởng Hồ Chí Minh là đỉnh cao của chủ nghĩa Mác – Lênin ở

Việt Nam. Chính lý luận Mác – Lênin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới
13


quan và phương pháp luận khoa học biện chứng đã tổng kết kiến thức, tổng
kết lịch sử và kinh nghiệm thực tiễn, tìm ra con đường cứu nước mới, đưa
Người vượt hẳn lên phía trước so với những người yêu nước đương thời, khắc
phục căn bản cuộc khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc. Theo
V.l.Lênin, “một người” chỉ xứng với danh hiệu nhà tư tưởng.
Đó là cơ sở hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của
Hồ Chí Minh, nhờ đó mà Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã có bước phát
triển về chất từ một người yêu nước trở thành một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc,
tìm ra con đường cứu nước đúng đắn. Chính trên cơ sở của lí luận Mác –
Lênin đã giúp Người tiếp thu và chuyển hóa những nhân tố tích cực, những
giá trị và tinh hoa văn hóa của dân tộc và của nhân loại để tạo nên tư tưởng
của mình phù hợp với xu thế vận động của lịch sử. Vì vậy, trong quá trình
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa Mác – Lênin có vai trò to lớn,
là cơ sở, nguồn gốc chủ yếu nhất.
2.1.2. Truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc
Trải qua mấy nghìn năm chống giặc ngoại xâm, nghệ thuật quân sự của
tổ tiên đã hình thành và không ngừng phát triển, trở thành những bài học vô
giá cho các thế hệ sau. Nhiều tư tưởng quân sự kiệt xuất như: “Binh thư yếu
lược”, “Hổ trướng khu cơ”, “Bình ngô đại cáo”; những trận đánh điển hình
như: Như Nguyệt, Chi Lăng, Tây Kết, Ngọc Hồi, Đống Đa… đã để lại những
kinh nghiệm quý giá. Kinh nghiệm truyền thống đó là cơ sở để toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta kế thừa, vận dụng, phát triển trong cuộc kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ và trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đây là tài sản có giá trị to nhất trong hành trang của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, là sơ sở xuất phát, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của Người, là động lực giúp Người vượt qua mọi gian nan thử thách,

hiểm nguy. Đây là nguồn gốc, là một cơ sở quan trọng để hình thành nên tư
tưởng Hồ Chí Minh.
14


2.1.3. Tinh hoa nghệ thuật quân sự của nhân loại
Hồ Chí Minh đã tiếp thu có chọn lọc những yếu tố tích cựu của văn hóa
phương Đông trong Nho giáo và Phật giáo, như lòng vị tha, tư tưởng từ bi bác
ái, tình yêu thương con người; triết lí hàng đạo giúp đời, tu thân dưỡng tính,
truyền thống hiếu học. Tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, dân chủ, nhân
quyền của văn hóa phương Tây...
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là sự tiếp thu, kế thừa truyền thống đánh
giặc của tổ tiên, vận dụng lí luận Mác – Lênin về quân sự, kinh nghiệm của
các nước trên thế giới vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, là cơ sở cho sự
hình thành và phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng biên dịch “Binh pháp Tôn Tử”, viết về
“kinh nghiệp du kích Tàu”, “du kích Nga”… phát triển nguyên tắc chiến đấu
tiến công, chiến đấu phòng ngự… qua các thời kì đấu tranh cách mạng. Hồ
Chí Minh và Đảng ta đã đề ra phương châm chỉ đạo chiến tranh, phương thức
tác chiến chiến lược, nắm bắt đúng thời cơ, đưa chiến tranh Việt Nam kết thúc
thắng lợi.
2.1.3. Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin
Trên cơ sở thực tế và những nhân tố tư tưởng, đặc biệt là chủ nghĩa yêu
nước, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin. Tư tưởng Hồ Chí
Minh là sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và chủ nghĩa Mác –
Lênin. Việc Nguyễn Ái Quốc tìm đến chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm thấy ở chủ
nghĩa Mác – Lênin “cái cần thiết” và “con đường” giải phóng dân tộc Việt
Nam, “ ngọn hải đăng soi đường cho toàn thể nhân loại bị áp bức đi đến giải
phóng”, là bước quyết định trong qua trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lênin tư tưởng yêu nước của Nguyễn Ái Quốc có

bước nhảy vọt về chất – tư tưởng yêu nước của Nguyễn Ái Quốc trở thành tư
tưởng Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh rằng yêu nước,
anh dũng chiến đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc không phải chất riêng có trong
15


những người cộng sản mà vốn có ở hàng triệu người trong Đảng cũng như
ngoài Đảng. Song chỉ có Đảng của giai cấp công nhân được vũ trang bằng
chủ nghĩa Mác – Lênin mới có đường lối đúng đắn để giải phóng dân tộc,
biến chủ nghĩa yêu nước truyền thống thành chủ nghĩa yêu nước với chủ
nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế cộng sản.
Được hệ tư tưởng khoa học của giai cấp công nhân quốc tế soi sáng, phong
trào giải phóng dân tộc Việt Nam đã tìm ra đường lối cứu nước đúng đắn.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở chủ yếu nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh. Còn tư tưởng Hồ Chí Minh là đỉnh cao của chủ nghĩa Mác – Lênin ở
Việt Nam. Chính lý luận Mác – Lênin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới
quan và phương pháp luận khoa học biện chứng đã tổng kết kiến thức, tổng
kết lịch sử và kinh nghiệm thực tiễn, tìm ra con đường cứu nước mới, đưa
Người vượt hẳn lên phía trước so với những người yêu nước đương thời, khắc
phục căn bản cuộc khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc. Theo
V.l.Lênin, “một người” chỉ xứng với danh hiệu nhà tư tưởng.
Đó là cơ sở hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của
Hồ Chí Minh, nhờ đó mà Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã có bước phát
triển về chất từ một người yêu nước trở thành một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc,
tìm ra con đường cứu nước đúng đắn. Chính trên cơ sở của lí luận Mác –
Lênin đã giúp Người tiếp thu và chuyển hóa những nhân tố tích cực, những
giá trị và tinh hoa văn hóa của dân tộc và của nhân loại để tạo nên tư tưởng
của mình phù hợp với xu thế vận động của lịch sử. Vì vậy, trong quá trình
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa Mác – Lênin có vai trò to lớn,
là cơ sở, nguồn gốc chủ yếu nhất.

2.2. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về phát động và tổ chức toàn dân kháng
chiến, toàn diện kháng chiến

16


2.2.1. Toàn dân kháng chiến
Nắm vững nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin về vai trò của quần
chúng nhân dân trong lịch sử, am hiểu sâu sắc truyền thống kinh nghiệm đấu
tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc: “cả nước một lòng toàn dân đánh
giặc”, “trăm họ ai cũng là binh”, “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã xác định đúng vai trò quyết định của nhân dân trong vận
động cách mạng giành chính quyền cũng như trong chiến tranh giải phóng
dân tộc bảo vệ Tổ quốc. Người cho rằng, chiến tranh giải phóng hay chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam đều là chiến tranh nhân dân, một cuộc
chiến tranh cách mạng thực sự “của dân, do dân và vì dân”.
Ngày 22/12/1944, trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã viết: “Vì cuộc kháng chiến của dân
ta là cuộc kháng chiến toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn
dân…” tư tưởng của Người về động viên toàn dân, vũ trang toàn dân tham gia
hai lực lượng chính trị và lực lượng quân sự, thực hiện kết hợp đấu tranh
chính trị và đấu tranh vũ trang, đã đưa đến thắng lợi cách mạng tháng Tám
năm 1945 trên phạm vi cả nước và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á.
Cách mạng thành công chưa được bao lâu, quân và dân ta phải đương
đầu với sự trở lại xâm lực của thực dân phản động Pháp. Chưa đầy một tháng
rưỡi sau ngày thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn (23/09/1945), ngày
05/ 11/ 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có bài viết nhan đề Toàn dân kháng
chiến. Phân tích quy mô và ảnh hưởng của cuộc chiến đấu, Người cho rằng:
“…muốn kháng chiến lâu dài để tới thắng lợi sau cùng, cần phải động viên

hết thảy lực lượng… Cậu bé chăm chỉ học hành trong nhà trường cũng là
kháng chiến, anh dân cày quốc ngoài đồng ruộng, anh thợ cặm cụi trong nhà
máy, chị bán hàng buôn bán ngược xuôi, ông già xách giỏ đi câu cũng là
kháng chiến. Các y sinh, khán hộ lăn lộn trên giường bệnh cũng là kháng
17


chiến. Các nhà giàu có đem hết tài lực mở mang xưởng thợ, khai thác ruộng
đất cũng là kháng chiến. Đó là toàn dân kháng chiến”.
Nhằm làm rõ hơn quan điểm và nội dung toàn dân kháng chiến, cũng
trong bài viết này Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “…muốn thực hiện toàn dân
kháng chiến, ngoài việc động viên quân sự, chính trị, ngoại giao, còn phải
động viên cả tinh thần lẫn kinh tế. Động viên tinh thần là phải tập trung hết
thảy lực lượng tinh thần, ý chí, tư tưởng của từng cá nhân và của từng quốc
dân đều hướng về một chiều để cùng đi tới một mục đích kháng chiến. Như
vậy, một mặt phải phấn chấn (phát động) tinh thần kháng chiến của toàn dân
và một mặt làm cho họ tin tưởng ở chỗ thế nào cũng thắng lợi”. Hơn nữa, còn
phải làm thế nào cho tất cả các tầng lớp nhân dân đều chung đúc tâm trí vào
lợi ích của dân tộc mà phấn đấu. Dù đau khổ đến đâu cũng mặc lòng, ai cũng
phải trổ hết tài năng, làm hết nhiệm vụ để sáng tạo tất cả cái gì có thể giúp ích
cho sự kháng chiến...”. Động viên kinh tế, Người chỉ rõ: “…là làm cho nước
được giàu thêm, dân được no ấm... Vậy nhiệm vụ cấp bách của chúng ta ngày
nay là phải động viên nhân lực, động viên công nghiệp, nông nghiệp, thương
mại, giao thông, tài chính. Bao nhiêu trai tráng phải chịu huấn luyện vũ trang
để chờ đưa ra mặt trận. Còn bao nhiêu ở lại phải gắng công, gắng sức ở đồng
ruộng cũng như ở nhà máy để sản xuất ra thật nhiều thóc gạo, quân nhu, đồ
dùng giúp cho chiến sĩ ngoài tiền phương, và cứu dân nghèo đói ở hậu
phương”.
Trong khi tập trung vào xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân các
cấp, chuẩn bị về mặt ngoại giao, pháp lý, thể chế cho nhà nước Việt Nam

mới, xây dựng thực lực kinh tế để đối phó với giặc đói, từng bước giải quyết
có hiệu quả nạn thất học và các vấn đề về văn hóa, xã hội, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta đồng thời luôn quan tâm đến củng cố quốc phòng, xây dựng
các lực lượng vũ trang, chuẩn bị cho toàn dân có thể chủ động bước vào cuộc
kháng chiến toàn quốc. Người đã viết một loạt bài giới thiệu về Binh pháp
18


×