Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Nghệ thuật quân sự trong chiến dịch hồ chí minh lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 59 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2
*****************************

NGUYỄN VĂN LỘC

NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ TRONG
CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH LỊCH SỬ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh

Hà Nội - 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2
*****************************

NGUYỄN VĂN LỘC

NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ TRONG
CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH LỊCH SỬ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

Thƣợng tá, ThS. Phạm Văn Dƣ

Hà Nội - 2018




LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập ở giảng đƣờng của trƣờng
Đại học sƣ phạm Hà Nội 2 đến nay, em đã nhận đƣợc rất nhiều sự quan tâm,
giúp đỡ chỉ bảo nhiệt tình của các thầy cô trong trƣờng. Với lòng biết ơn sâu
sắc nhất, em xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô ở khoa Giáo dục Quốc phòng
An ninh đã cùng với tri thức và tâm huyết của mình để truyền đạt vốn kiến
thức quý báu cho chúng em trong suốt thời gian học tập tại trƣờng.
Em xin chân thành cảm ơn Thƣợng tá Phạm Văn Dƣ - Giảng viên khoa
Đƣờng lối quân sự đã tận tâm hƣớng dẫn chúng em qua từng buổi học trên
lớp cũng nhƣ những buổi nói chuyện, thảo luận về lĩnh vực sáng tạo trong
nghiên cứu khoa học. Nếu không có những lời hƣớng dẫn, dạy bảo của thầy
thì em nghĩ bài khóa luận này của em rất khó có thể hoàn thiện đƣợc.
Bƣớc đầu đi vào thực tế, tìm hiểu về lĩnh vực sáng tạo trong nghiên cứu
khoa học, kiến thức của em còn hạn chế và còn nhiều bỡ ngỡ. Do vậy, không
tránh khỏi những thiếu sót là điều chắc chắn, em rất mong nhận đƣợc những ý
kiến đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn học cùng lớp để kiến thức
của em trong lĩnh vực này đƣợc hoàn thiện hơn.
Sau cùng, em xin kính chúc quý thầy trong khoa Giáo dục quốc phòng
an ninh cũng nhƣ thầy Phạm Văn Dƣ - giảng viên hƣớng dẫn khóa luận luôn
dồi dào sức khỏe, niềm tin để tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao đẹp của mình là
truyền đạt kiến thức cho các thế hệ sinh viên.
Hà Nội, ngày ... tháng ... năm 2018
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Văn Lộc


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi.

Những kết quả thu đƣợc hoàn toàn chân thực và chƣa có đề tài nào
nghiên cứu.
Nếu có sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Văn Lộc


Mục lục
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do lựa chọn đề tài...................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 3
4. Đối trƣợng nghiên cứu .................................................................................. 3
5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 3
6. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................... 3
7. Kết cấu khóa luận .......................................................................................... 4
CHƢƠNG 1: BỐI CẢNH VÀ TƢƠNG QUAN LỰC LƢỢNG TRONG
CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH. ........................................................................ 5
1.1. Bối cảnh trong nƣớc và thế giới ................................................................. 5
1.1.1. Tình hình thế giới .................................................................................... 5
1.1.2. Tình hình trong nƣớc............................................................................... 7
1.2. Tƣơng quan lực lƣợng giữa hai bên trƣớc chiến dịch Hồ Chí Minh ....... 10
1.2.1. Quân giải phóng miền Nam Việt Nam ................................................. 10
1.2.2. Lực lƣợng quân lực Việt Nam cộng hòa (quân đội Ngụy) ................... 14
1.3. Nguồn gốc tên gọi chiến dịch Hồ Chí Minh ............................................ 16
Tiểu kết chƣơng 1............................................................................................ 18
CHƢƠNG 2: DIỄN BIẾN CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH ............................ 19
Bản đồ chiến dịch Hồ Chí Minh ..................................................................... 19
2.1. Giai đoạn 1(26/4/1975-28/4/1975)........................................................... 20

2.1.1. Trên hƣớng đông, đông nam ................................................................. 20
2.1.2. Trên hƣớng bắc, tây bắc ........................................................................ 22


2.2. Giai đoạn 2 (29/4/1975-30/4/1975).......................................................... 23
2.2.1. Trên hƣớng đông, đông nam ................................................................. 23
2.2.2. Trên hƣớng bắc, tây bắc ........................................................................ 25
2.2.3. Trên hƣớng tây, tây nam ....................................................................... 29
Tiểu kết chƣơng 2............................................................................................ 32
CHƢƠNG 3: NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ
TRONG CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM .... 33
3.1. Nghệ thuật chọn hƣớng, mục tiêu và thời cơ tấn công ............................ 33
3.1.1. Nắm chắc tình hình, quyết định thời cơ chính xác ............................... 33
3.1.2. Đánh giá đúng tình hình, so sánh tƣơng quan lực lƣợng. ..................... 35
3.2. Nghệ thuật “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, thắng chắc”................................ 36
3.2.1. Tổ chức lực lƣợng, đề ra kế hoạch tác chiến và hiệp đồng chặt chẽ các
lực lƣợng. ........................................................................................................ 36
3.2.2. Đánh địch từ nhiều hƣớng, bao vây, vu hồi, đánh thắng từng bƣớc đến
chiến thắng toàn bộ. ........................................................................................ 39
3.3. Nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch .................................................................. 41
3.4. Những bài học kinh nghiệm vận dụng vào phát triển nghệ thuật quân sự
của quân và dân ta hiện nay. ........................................................................... 42
3.4.1. bài học về quán triệt tƣ tƣởng tích cực tiến công .................................. 44
3.4.2. Bài học về nghệ thuật quân sự toàn dân đánh giặc: .............................. 44
3.4.3. bài học về nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời và mƣu
kế: .................................................................................................................... 45
3.4.4. Bài học về quán triệt tƣ tƣởng lấy ít địch nhiều, biết tập trung ƣu thế lực
lƣợng cần thiết để đánh thắng địch: ................................................................ 46
3.4.5. Bài học về kết hợp tiêu hao, tiêu diệt địch với bảo vệ vững chắc mục
tiêu: .................................................................................................................. 47



Tiểu kết chƣơng 3............................................................................................ 49
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 51


DANH MỤC VIẾT TẮT
CHỮ VIÊT ĐẦY ĐỦ

KÝ HIỆU VIẾT TẮT

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Việt Nam cộng hòa

VNCH


MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
Đi suốt bề dày lịch sử hào hùng của dân tộc, mỗi công dân của đất nƣớc
Việt Nam ai cũng thấy đƣợc và trân quý tinh thần yêu nƣớc, dám hi sinh và ý
chí kiên cƣờng không khuất phục trƣớc kẻ thù của tầng lớp cha ông- những

ngƣời đã đặt nền móng cho hòa bình hiện tại. Từ thế kỷ thứ III trƣớc Công
Nguyên dân tộc ta đã đánh tan cuộc xâm lƣợc đầu tiên của bọn phong kiến
phƣơng bắc do nhà Tần tiến hành. Từ năm 179 trƣớc công nguyên đến năm
938 , nƣớc ta tiếp tục nằm dƣới sự đô hộ của phƣơng bắc (tổng cộng 1117
năm). Đây là thời kỳ đầy máu và nƣớc mắt, nhƣng cũng là thời kỳ biểu hiện
sức mạnh quật cƣờng, sự vƣơn lên thần kỳ của dân tộc ta và kết thúc với
chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt. Tiếp sau thời kỳ này là hàng loạt các chiến
thắng vang dội khác: Lê Hoàn đánh tan quân Tống, nhà Trần ba lần đánh bại
quân Nguyên - Mông, Lê Lợi đánh bại quân Minh, Nguyễn Huệ đánh bại
quân Thanh...rồi đến những thắng lợi vang dội của các cuộc kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ.
Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch cuối cùng của cuộc Tổng tiến
công chiến lƣợc, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc của
quân và dân ta. Nó là một điển hình của loại hình chiến dịch tiến công hiệp
đồng binh chủng quy mô lớn, với đặc trƣng “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc
thắng”, giành thắng lợi hoàn toàn, triệt để, trong thời gian ngắn.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 gồm ba chiến dịch kế
tiếp: chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí
Minh. Thực chất, đây là ba đòn tiến công có ý nghĩa chiến lƣợc, đánh dấu sự
phát triển đến đỉnh cao nhất của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc. Trong đó, chiến dịch Hồ Chí Minh (26-4 30-4-1975) là một điển hình của loại hình chiến dịch tiến công hiệp đồng binh

1


chủng quy mô lớn. Đây là chiến dịch đã tận dụng đƣợc và phát huy cao độ thế
chiến lƣợc do các chiến dịch trƣớc (Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng) tạo ra để
tập trung lực lƣợng với ƣu thế áp đảo quân địch cả về lực lƣợng, thế trận và
tinh thần. Chiến dịch đó phát huy cao nhất sức mạnh của các binh đoàn, binh
chủng hợp thành với quy mô lớn nhất, đập tan tuyến phòng thủ của địch ở

vòng ngoài; đánh thẳng vào trung tâm đầu não, sào huyệt của địch, kết hợp
với nổi dậy của quần chúng, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nƣớc (1954-1975). Chiến dịch Hồ Chí Minh không chỉ là cuộc đọ sức
quyết liệt giữa một đế quốc đầu sỏ mạnh nhất thế giới lúc đó (đế quốc Mỹ)
với một dân tộc nhỏ bé nhƣng kiên quyết đứng lên chống xâm lƣợc để bảo vệ
đất nƣớc, mà còn là cuộc đấu tranh gay gắt về tài trí giữa hai nền nghệ thuật
quân sự của n ƣ ớ c t a và quân xâm lƣợc. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy
màu xuân năm 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giành đƣợc
toàn thắng, mở ra một bƣớc ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Nó kết thúc vẻ
vang quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc bắt
đầu từ Cách mạng tháng Tám, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị hơn một nửa
thế kỷ của chủ nghĩa đế quốc trên đất nƣớc ta, làm cho Tổ quốc ta vĩnh viễn
độc lập, thống nhất và đƣa cả nƣớc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại thắng mùa
Xuân 1975 là thành quả vĩ đại của nhân dân ta, thể hiện ý chí, khát vọng độc
lập, thống nhất Tổ quốc của dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh. Với
đƣờng lối kháng chiến độc lập, tự chủ, Đảng ta đã huy động đƣợc cao nhất
sức mạnh của cả nƣớc, bao gồm cả sức mạnh vật chất và sức mạnh chính trị tinh thần, sức mạnh truyền thống yêu nƣớc nồng nàn của đất nƣớc ngàn năm
văn hiến cho cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lƣợc lâu dài, cam go,
quyết liệt. Hiểu đƣợc những nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự trong chiến
dịch Hồ Chí Minh giúp những ngƣời giáo viên tƣơng lai nhƣ tôi tích lũy thêm
kiến thức giảng dạy để truyền đạt một cách tối ƣu nhất truyền thống đánh giặc

2


giữ nƣớc hào hùng của dân tộc tới học sinh. Từ những lí do trên nên tôi
quyết định chọn đề tài: “Nghệ thuật quân sự trong chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, phân tích những nét tiêu biểu về nghệ thuật quân sự của

ông cha ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh, từ đó rút ra đƣợc bài học kinh
nghiệm quý báu để vận dụng vào công tác bảo vệ đất nƣớc ở hiện tại và
tƣơng lai.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu về bối cảnh lịch sử trong nƣớc và quốc tế và sự tƣơng quan
lực lƣợng chiến đấu giữa địch và ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh.
- Nghiên cứu về diễn biến chiến dịch Hồ Chí Minh
- Nghiên cứu về nghệ thuật quân sự trong chiến dịch Hồ Chí Minh
- Rút ra bài học kinh nghiệm từ nghệ thuật quân sự chống lại quân xâm
lƣợc của nhân dân ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh và vận dụng vào thực tiễn
để bảo vệ Tổ quốc.
4. Đối trƣợng nghiên cứu
Nghệ thuật quân sự trong chiến dịch Hồ Chí Minh
5. Phạm vi nghiên cứu
Chiến dịch Hồ Chí Minh qua hai giai đoạn: Giai đoạn 1(26/4/197528/04/1975), giai đoạn 2 ( 29/04/1975-30/04/1975)
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp logic
Thông qua các nguồn tƣ liệu để nghiên cứu và phục dựng đầy đủ các
điều kiện hình thành, quá trình ra đời, phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp của các sự kiện, hiện tƣợng, đồng thời đặt quá trình phát triển đó
trong mối quan hệ tác động qua lại với các nhân tố liên quan khác trong suốt

3


quá trình vận động của chúng, từ đó có thể dựng lại bức tranh chân thực của
sự vật, hiện tƣợng nhƣ đã xảy ra.
6.2. Phương pháp lịch sử
Nghiên cứu tổng quát các sự kiện, hiện tƣợng lịch sử, loại bỏ các yếu tố
ngẫu nhiên, không cơ bản để làm bộc lộ bản chất, tính tất yếu và quy luật vận

động và phát triển khách quan của sự kiện, hiện tƣợng lịch sử đang “ẩn mình”
trong các yếu tố tất nhiên lẫn ngẫu nhiên phức tạp ấy.
6.3. Phương pháp phân tích – tổng hợp
Dựa vào các nguồn tƣ liệu, sách báo, cộng thêm tham khảo có chọn lọc
các tài liệu có liên quan đến nghệ thuật quân sự của các cuộc kháng chiến
chống Mỹ của nhân dân nói riêng và nghệ thuật quân sự nói chung; phân tích
những mặt, những bộ phận, những mối quan hệ theo lịch sử thời gian để nhận
thức, phát hiện và khai thác các khía cạnh khác nhau của lý thuyết từ đó chọn
lọc những thông tin cần thiết phục vụ cho đề tài nghiên cứu .
Ngoài ra khóa luận còn thực hiện dựa trên việc sƣu tầm các nguồn tƣ
liệu, sách báo, cộng thêm tham khảo có chọn lọc các tài liệu có liên quan đến
nghệ thuật quân sự của các cuộc kháng chiến chống Mỹ nói riêng và nghệ
thuật quân sự nói chung.
7. Kết cấu khóa luận
Ngoài các phần danh mục bảng biểu, danh mục chữ viết tắt, mở đầu, kết
luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, bài luận gồm 3 chƣơng:
CHƢƠNG I: Bối cảnh và tƣơng quan lực lƣợng trong chiến dịch Hồ
Chí Minh.
CHƢƠNG II: Diễn biến chiến dịch Hồ Chí Minh.
CHƢƠNG III: Những nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự trong chiến
dịch Hồ Chí Minh và bài học kinh nghiệm.

4


CHƢƠNG 1:
BỐI CẢNH VÀ TƢƠNG QUAN LỰC LƢỢNG TRONG CHIẾN
DỊCH HỒ CHÍ MINH.
1.1. Bối cảnh trong nƣớc và thế giới
1.1.1. Tình hình thế giới

1.1.1.1. Sự ủng hộ của các nước XHCN
Trong những năm kháng chiến cứu nƣớc, Liên bang Xô Viết và các nƣớc
XHCN hoàn toàn ủng hộ cuộc chiến tranh giành độc lập của chúng ta. Những
thiệt hại do chiến tranh của phía ta đƣợc bù đắp dần dần bằng những khoản
viện trợ lớn đến từ các nƣớc bạn. Theo thống kê giá trị viện trợ quân sự mà ta
nhận đƣợc trong 2 năm 1973-1974 là 114.532 tấn viện trợ quân sự từ các
nƣớc XHCN (chủ yếu là Liên Xô và Trung Quốc) trị giá gần 330 triệu USD.
Về phía Trung Quốc, sự ủng hộ tích cực về chính trị của Trung Quốc đối
với Việt Nam thể hiện qua những tuyên bố, những bức điện gửi các nhà lãnh
đạo Việt Nam, phát biểu của các nhà lãnh đạo Trung Quốc; qua những bức
điện của các tổ chức đoàn thể Trung Quốc gửi cho các đoàn thể tƣơng ứng
Việt Nam...Ngoài ra Trung Quốc còn giúp đỡ Việt Nam cả cơ sở vật chất, các
trang thiết bị, và cả con ngƣời để nhân dân Việt Nam chiến thắng trong công
cuộc đấu tranh thống nhất Tổ quốc.
Trên thực tế, các nƣớc yêu chuộng hòa bình luôn ủng hộ lập trƣờng
chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, cổ vũ cho thắng lợi của nhân dân ta, lên
án mạnh mẽ đế quốc Mỹ xâm lƣợc, tiêu biểu là các nƣớc nhƣ: Liên Xô, Trung
Quốc, Triều Tiên, Anbani, Cuba, Hunggari, Cộng hòa Dân chủ Đức... Cùng
với việc ủng hộ về chính trị, tinh thần, nhân dân ta còn nhận đƣợc sự giúp đỡ
to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nƣớc trong hệ thống XHCN về vật
chất và cố vấn, chuyên gia kỹ thuật. Những sự ủng hộ chí tình, chí nghĩa của
các nƣớc không chỉ là nguồn động viên tinh thần to lớn đối với nhân dân Việt

5


Nam, mà còn trực tiếp tăng cƣờng sức mạnh cho Việt Nam trên vũ đài chính
trị thế giới.
Sự giúp đỡ nhiệt thành của Liên Xô, Trung Quốc và các nƣớc xã hội
chủ nghĩa cho Việt Nam trong tình thế Việt Nam đơn độc trong vòng vây của

kẻ thù, là vô cùng quan trọng, hết sức to lớn và quý báu. Nhân dân Việt Nam
luôn trân trọng và sử dụng sự giúp đỡ ấy một cách hiệu quả, từng ngày, từng
giờ tạo ra sức mạnh để chiến đấu giành độc lập, tự do, đƣa Việt Nam thống
nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đầu năm 1966, Thủ tƣớng Cu Ba Phiđen Caxtơrô đã tuyên bố: "Vì
Việt Nam, chúng tôi sẵn sàng hiến dâng đến cả dòng máu của mình" (Báo lý
luận chính trị)
Trên mặt trận ngoại giao, chúng ta đã tranh thủ đƣợc sự ủng hộ của
nhân dân tiến bộ thế giới, và đã tập hợp đƣợc các nƣớc Á, Phi, Mỹ Latinh, các
nƣớc Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ và ngay trong lòng nƣớc Mỹ vào một mặt trận
chống Mỹ, ủng hộ Việt Nam. Chƣa kể đến, tại các hội nghị quốc tế, các đoàn
đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam đƣợc hầu hết các nƣớc đồng tình, ủng hộ.
1.1.1.2. Tình hình nước Mỹ (Hợp chủng quốc Hoa Kỳ) và đồng minh.
Ngày 9 tháng 8 năm 1974, Tổng thống Richard Nixon buộc phải từ
chức sau vụ bê bối Watergate. Phó tổng thống Gerald Ford kế nhiệm chức vụ
Tổng thống Hoa Kỳ vẫn cam kết ủng hộ đồng minh Việt Nam Cộng hoà
nhƣng nền kinh tế Hoa Kỳ đang trong giai đoạn khó khăn sau cuộc khủng
hoảng dầu lửa năm 1973 và phải tập trung viện trợ quân sự cho Israel khoảng
1,5 tỷ USD. Trong lá thƣ ngày 10 tháng 8 năm 1972 của Tổng thống Hoa Kỳ
gửi cho Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, Gerald Ford nhắc nhở Chính
phủ VNCH nên sử dụng viện trợ của Hoa Kỳ và các đồng minh một cách hữu
hiệu hơn để xây dựng nền kinh tế tự túc trong vài năm tới. Nếu nhƣ trong tài

6


khoá 1972-1973, Việt Nam Cộng hoà còn nhận đƣợc 1.614 triệu USD thì đến
tài khoá 1973-1974, Sài Gòn chỉ còn nhận đƣợc 1.026 triệu USD và đến tài
khoá 1974-1975 thì chỉ còn 780 triệu USD. Thực tế, trừ đi các khoản của Cam

pu chia và Lào, số viện trợ Hoa Kỳ vào VNCH chỉ còn lại 313 triệu USD. Đó
là sự sụt giảm nghiêm trọng ảnh hƣởng đến nền kinh tế và khả năng vận hành
quân sự của VNCH.
Ở thời điểm 1974-1975, đối với Hoa Kỳ vƣớng vào việc giải quyết
khủng hoảng dầu lửa và vấn đề Trung Đông và việc giúp sức cho đồng minh
Israel sau khi họ thua trận trƣớc Ai Cập năm 1973 là vấn đề quan trọng hơn
so với việc viện trợ cho đồng minh Việt Nam Cộng hoà. Mặt khác, do những
ràng buộc của Hiệp định Pa-ri khiến họ không đƣợc phép và cũng không đƣợc
sự ủng hộ cả hai viện của Quốc hội Hoa Kỳ nên không có cơ sở can thiệp
bằng quân sự ở Việt Nam của Chính phủ Hoa Kỳ. Tuy nhiên Hoa Kỳ vẫn làm
hậu thuẫn cho chính quyền VNCH.
1.1.2. Tình hình trong nước
Đứng trƣớc thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lƣợc lâu dài, ngày 27
tháng 1 năm 1973, đế quốc Mỹ và tay sai buộc phải ký hiệp định Pa-ri về
“chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam”. Đây là thắng lợi to lớn
của nhân dân ta trên mặt trận chính trị, thất bại nặng nề của đế quốc Mỹ và bè
lũ tay sai. Theo Hiệp định, đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lƣợc
Việt Nam, rút hết quân Mỹ và đồng minh ra khỏi miền Nam Việt Nam, cam
kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam là độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, cam kết tôn trọng quyền tự quyết của
nhân dân miền Nam Việt Nam, chấm dứt dính líu quân sự và can thiệt nội bộ
vào miền Nam Việt Nam... Trên chiến trƣờng miền Nam, đội quân xâm lƣợc
và quân các nƣớc đồng minh của Mỹ phải rút hết về nƣớc. Các đơn vị quân
đội nhân dân Việt Nam giữ nguyên lực lƣợng và thế bố trí trên các địa bàn

7


chiến lƣợc. Đối với miền Bắc, đế quốc Mỹ phải chấm dứt vô điều kiện cuộc
chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân. Nhân dân miền Bắc có

điều kiện khôi phục và phát triển kinh tế, tập trung sức ngƣời sức của cho
công cuộc chiến đấu nhằm hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Về việc ký hiệp định Pa-ri, ta đã thực hiện đƣợc ý định giữ nguyên thế
và lực của ta ở miền Nam để tiếp tục tiến công quân địch. Do quân viễn chinh
Mỹ và quân chƣ hầu phải rút, quân và dân ta có thời cơ rất thuận lợi để “đánh
cho Ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc.
` Hội nghị trung ƣơng Đảng lần thứ 21 (tháng 10 năm 1973) xác định:
“bất kể trong tình huống nào ta cũng phải nắm thời cơ, giữ vững đƣờng lối
chiến lƣợc tiến công... phải kiên quyết phản công và tiến công địch, giữ vững
và phát huy thế chủ động về mọi mặt của ta nhằm đánh kế hoạch bình định và
lấn chiếm của địch”.
Trong hai năm 1973-1974 địch mở hàng vạn cuộc hành quân bình định
và lấn chiếm trên toàn miền Nam, trong đó có trên 300 cuộc hành quân quy
mô trung đoàn, sƣ đoàn, có máy bay, pháo binh yểm trợ.
Những tháng đầu năm 1973 do ta sơ hở, địch đã lấn chiếm hàng nghìn
ấp ở Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ. Từ giữa năm
1973, ta đã phát hiện đƣợc những thiếu sót và kịp thời khắc phục. Các chiến
trƣờng đều đẩy mạnh hoạt động quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị và
binh vận, đánh bại các cuộc hành quân lấn chiếm của địch, thu hồi và mở
rộng vùng giải phóng. Ở Tây Nguyên ta giải phóng Chƣ Nghé (22-9-1973) ở
miền Đông Nam Bộ ta giải phóng Tuy Đức, Bù Bông (11-1973)... Quân và
dân ta trên miền Bắc khẩn trƣơng tăng cƣờng lực lƣợng vận chuyển vật chất
vào chiến trƣờng, mở rộng và phát triển hệ thống đƣờng chiến lƣợc...

8


Sang năm 1974, do hoạt động mạnh của ta, địch phải rút bỏ nhiều vị trí
nhƣ Đắc Song, Kiến Đức, Nha Bích, Tống Lê Chân (miền Đông Nam Bộ),

Thƣợng Đức, Nông Sơn, Minh Long, Giá Vụt, Măng Đen, Măng Bút (Khu 5Tây Nguyên)...
Thế và lực của quân ngụy trên các chiến trƣờng suy giảm rõ rệt. Không
còn chỗ dựa là quân Mỹ, hỏa lực và pháo binh, không quân, xe thiết giáp
giảm 40 đến 70%, sức cơ động giảm 50%, tinh thần chiến đấu của quân ngụy
sa sút nghiêm trọng. Tuy số quân còn đông, trang bị còn nhiều, song khả năng
chiến đấu đã giảm sút rõ rệt.
Trải qua hai năm chiến đấu quyết liệt và tích cực chuẩn bị về mọi mặt,
so sánh thế và lực giữa ta và địch trên chiến trƣờng thay đổi ngày càng có lợi
cho ta. Theo chỉ thị của Bộ Chính trị, Bộ Tổng Tham mƣu khẩn trƣơng xây
dựng kế hoạch tác chiến chiến lƣợc, giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai
năm 1975 - 1976.
Qua thực tế, Bộ Chính trị họp từ ngày 18 tháng 12 năm 1974 đến ngày
8 tháng 1 năm 1975 nhận định thời cơ có thể đến sớm, ta có khả năng giành
thắng lợi sớm hơn dự kiến. Quyết tâm của Bộ Chính trị là tranh thủ bất ngờ,
mở cuộc tiến công lớn và rộng khắp trong năm 1975, tạo điều kiện để giải
phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1976. Nếu thời cơ đến thì phải lập tức
giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Trải qua hơn một tháng liên tục tổng tiến công và nổi dậy, với hai chiến
dịch lớn, chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nẵng, quân và dân ta
đã giành đƣợc những thắng lợi cực kỳ to lớn, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ
lực lƣợng quân sự và hệ thống chính quyền ngụy ở hai quân khu, quân đoàn
địch, giải phóng 16 tỉnh, 5 thành phố cùng nhiều quận lỵ. Chi khu, yếu khu
quân sự. Vùng giải phóng đƣợc mở rộng chiếm 3 phần 4 đất đai và gần một
phần hai dân số miền Nam. Một cục diện chƣa từng có mở ra. Thời cơ giải

9


phóng hoàn toàn miền Nam đã đến. Trong phiên họp lịch sử ngày 25 tháng 1,
Bộ Chính trị chủ trƣơng “Tập trung nhanh nhất lực lƣợng (từ 12 sƣ đoàn trở

lên) binh khí, kĩ thuật và cật chất, giải quyết xong Sài Gòn - Gia Định trƣớc
mùa mƣa”. Tiếp đó, Bộ Chính trị đã chính thức hạ quyết tâm mở chiến dịch
Hồ Chí Minh - chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn kết
thúc chiến tranh, chiến dịch quyết chiến chiến lƣợc lịch sử.
1.2. Tƣơng quan lực lƣợng giữa hai bên trƣớc chiến dịch Hồ Chí
Minh
1.2.1. Quân giải phóng miền Nam Việt Nam
1.2.1.1. Quần chúng nhân dân
Song song với tổng tấn công của bộ đội chủ lực, Chiến dịch còn đƣợc
thực hiện với quá trình nổi dậy của quần chúng nhân dân. Quá trình nổi dậy
của quần chúng nhân dân đã diễn ra sôi nổi và đƣợc chuẩn bị từ sớm. Ngay từ
cuối năm 1974, Trung ƣơng Cục và Quân Giải phóng đã có các biện pháp
chính trị để chuẩn bị cho quần chúng tiến hành nổi dậy, đặc biệt đã có trên
40.000 ngƣời tham gia quá trình nổi dậy với 7.000 ngƣời công khai. Các biện
pháp đấu tranh bao gồm: ra đƣờng phố làm công tác địch vận, phổ biến lôi
kéo, tranh thủ hù dọa đối với lực lƣợng kìm kẹp tại chỗ của VNCH, thúc đẩy
chúng vứt bỏ vũ khí, cởi bỏ trang phục, rút khỏi trụ sở, đồn bốt, về nhà hoặc
tháo chạy, ẩn náu... Sau khi Quân Giải phóng tiến vào tiếp quản các đô thị,
quần chúng tiến hành dẫn đƣờng hoặc chở bộ đội, bảo vệ nhà máy xí nghiệp,
kho bãi, nhà ga bến cảng, thu các giấy tờ, hồ sơ, hạ cờ VNCH kéo cờ Mặt
trận, cử đại diện chính quyền cách mạng...
1.2.1.2. Lực lượng của ta trên hướng Bắc
Quân đoàn 1 gồm các sƣ đoàn bộ binh 312 (sƣ đoàn Chiến Thắng),
320B, trung đoàn pháo binh 45, lữ đoàn tăng thiết giáp 202; sƣ đoàn phòng
không 367; lữ đoàn công binh 299; đƣợc tăng cƣờng lữ đoàn pháo binh 38,

10


trung đoàn tên lửa phòng không 236 (Đoàn Sông Đà), ba trung đoàn công

binh 239, 259, 279; một trung đoàn phòng không hỗn hợp, ba tiểu đoàn pháo
binh độc lập rút từ Bộ Tƣ lệnh pháo binh. Tổng quân số 31.227 ngƣời; 778 xe
vận tải, 44 xe tăng; 36 khẩu pháo 130 mm, 105 mm và 75 mm; 120 khẩu cao
xạ 57 mm và 37 mm; 9 xuồng máy, 2 ca nô, 12 xe công binh chuyên dụng.
Bộ tƣ lệnh quân đoàn gồm: Tƣ lệnh: Thiếu tƣớng Nguyễn Hòa; Chính
ủy: Thiếu tƣớng Hoàng Minh Thi
Nhiệm vụ của Quân đoàn 1 là bao vây tiêu diệt đối phƣơng ở Phú
Lợi, Bến Cát, Bình Dƣơng, Lai Khê, Tân Uyên; ngăn chặn Sƣ đoàn 5 Quân
lực Việt Nam Cộng hòa rút về nội đô và vô hiệu hóa đơn vị này; tấn công
đánh chiếm Bộ Tổng tham mƣu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, các bộ tƣ lệnh
binh chủng ở Gò Vấp, Bình Thạnh; tổ chức một lực lƣợng tấn công hợp điểm
với các quân đoàn khác tại Dinh Độc Lập. Do phải hành quân gấp từ miền
Bắc vào bằng mọi phƣơng tiện thuỷ, bộ và đƣờng không. Quân đoàn 1 bắt
đầu tấn công chậm một ngày so với các đơn vị khác.[12]
1.2.1.3. Lực lượng của ta trên hướng Đông Nam
Quân đoàn 2 ban đầu gồm các sƣ đoàn bộ binh 325 (Trị Thiên), 304
(đoàn Vinh Quang), 324 (đoàn Hải Vân); lữ đoàn pháo binh 164; lữ đoàn tăng
thiết giáp 203; sƣ đoàn phòng không 673; lữ đoàn công binh 219; trung đoàn
đặc công 116. Tổng số xe chở hàng, chở ngƣời của Quân đoàn 2 lên tới 2.267
chiếc, Trong đó có 54 xe tăng, 35 xe thiết giáp, 223 xe kéo pháo, 87 khẩu
pháo 130 mm và 105 mm; 136 pháo cao xạ. Do đƣợc phối thuộc Sƣ đoàn 3
(Đoàn Sao Vàng) từ Quân khu 5 và một số đơn vị rút từ Quân khu 4, tổng
quân số của Quân đoàn lên đến hơn 40.000 ngƣời (trƣớc đó là 32.418 ngƣời).
Bộ tƣ lệnh quân đoàn gồm: Tƣ lệnh: Thiếu tƣớng Nguyễn Hữu An;
Chính ủy: Thiếu tƣớng Lê Linh.

11


Quân đoàn 2 đƣợc giao nhiệm vụ tiến công trên chính diện rộng 86 km

với chiều sâu nhiệm vụ từ 68 đến 70 km. Nhiệm vụ ban đầu của quân đoàn là
đánh chiếm căn cứ Nƣớc Trong, chi khu Long Bình, căn cứ Long Bình, chi
khu Nhơn Trạch, thành Tuy Hạ, cảng và bến phà Cát Lái, chi khu Đức Trạch,
pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất, đánh chiếm Vũng Tàu, thị xã Bà Rịa, quận
9 và quận 4 Sài Gòn. Tổ chức lực lƣợng thọc sâu đánh chiếm quận 1 và quận
3, hợp điểm tại Dinh Độc Lập.[12]
1.2.1.4. Lực lượng của ta trên hướng Tây Bắc
Quân đoàn 3 gồm các Sƣ đoàn bộ binh 316 (sƣ đoàn Tây Bắc), 320A
(sƣ đoàn Đồng Bằng), 10 (sƣ đoàn Đắktô); trung đoàn đặc công 198 (đoàn
đặc công hậu cứ); hai trung đoàn pháo mặt đất 40 và 575 (đoàn Anh Dũng);
trung đoàn xe tăng 273 (đoàn Sơn Lâm); các trung đoàn phòng không hỗn
hợp 234 (đoàn Tam Đảo), 593 (mới bổ sung) và 232 (chuyển thuộc từ Đoàn
559); hai trung đoàn công binh 7 (đoàn Hùng Vƣơng); 575 (chuyển thuộc từ
Đoàn 559); trung đoàn thông tin 29; các trung đoàn Gia Định 1 và 2. Tổng
quân số 47.400 ngƣời, 54 xe tăng, 64 xe bọc thép, gần 100 khẩu pháo
130 mm, 105 mm và hỏa tiễn H12, trên 250 khẩu cối từ 61 mm đến 120 mm,
110 pháo phòng không 57 mm và 37 mm, hơn 250 khẩu súng máy phòng
không các cỡ 12,4 mm và 14,5 mm.
Bộ tƣ lệnh quân đoàn gồm: Tƣ lệnh: Thiếu tƣớng Vũ Lăng; Chính ủy:
Đại tá Đặng Vũ Hiệp
Khác với Quân đoàn 2, Quân đoàn 3 phải tấn công trên một chính diện
hẹp từ 7 đến 10 km nhƣng có chiều sâu nhiệm vụ lên đến 100 km.Nhiệm vụ
của quân đoàn trong giai đoạn 1 là sử dụng Sƣ đoàn 316 cùng binh chủng
phối thuộc chặn đánh Sƣ đoàn 25 Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại Gò
Dầu, Trảng Bàng, cắt đƣờng 1B, bao vây, chia cắt không cho Quân lực Việt
Nam Cộng hòa điều các đơn vị ở Tây Bắc Sài Gòn lui về Đồng Dù, Củ Chi.

12



Trong giai đoạn 2, Quân đoàn có nhiệm vụ đánh chiếm căn cứ Đồng Dù, sân
bay Tân Sơn Nhất, các quận Tân Bình, Phú Nhuận đƣa một bộ phận lực lƣợng
thọc sâu, hợp điểm với các đơn vị khác tại Dinh Độc Lập.[12]
1.2.1.5. Lực lượng của ta trên hướng Đông Bắc
Quân đoàn 4 đã sứt mẻ bởi các Sƣ đoàn 6, 7 đƣợc đƣa sang hƣớng
đông; tăng cƣờng sƣ đoàn 341 ("Sông Lam") của Quân khu 4 và lữ đoàn bộ
binh 52; một tiểu đoàn pháo 130mm; một trung đoàn và một tiểu đoàn phòng
không hỗn hợp, ba tiểu đoàn xe tăng - thiết giáp. Sau trận Xuân Lộc, quân số
của quân đoàn còn khoảng 30.000 ngƣời.
Bộ tƣ lệnh quân đoàn gồm: Tƣ lệnh: Thiếu tƣớng Hoàng Cầm; Chính
ủy: Thiếu tƣớng Hoàng Thế Thiện
Nhiệm vụ của quân đoàn là đánh chiếm khu vực Biên Hòa - Hố
Nai (gồm cả Sở chỉ huy Không lực Việt Nam Cộng hòa và sân bay Biên Hòa),
tiến về Sài Gòn chiếm các quận 1, 2, 3, Bộ Tƣ lệnh Hải quân Việt Nam Cộng
hòa, Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa, Bộ Tổng tham mƣu Quân lực Việt
Nam Cộng hòa, Đài phát thanh Sài Gòn. Cũng nhƣ Quân đoàn 1, đến 17 giờ
chiều 27 tháng 4, Quân đoàn 4 mới chuẩn bị xong bàn đạp tiến công và bắt
đầu nổ súng chậm hơn một ngày.[12]
1.2.1.6. Lực lượng của ta trên hướng Tây Nam
Đoàn 232 gồm các sƣ đoàn 5, 9 chủ lực Miền, Sƣ đoàn Phƣớc Long
(tên ban đầu là đoàn C30B); sáu trung đoàn độc lập 16, 88, 24, trung đoàn
271, 172 và 27B; tiểu đoàn 26 xe tăng (17 xe T-54), một trung đoàn đặc công,
tiểu đoàn xe tăng 24 (18 xe PT-85), tiểu đoàn 23 xe bọc thép (22 xe BTR-60
và 8 xe M-113); 5 đại đội pháo binh gồm 27 khẩu từ 85 mm đến 130 mm, bốn
khẩu cối 160 mm và một giàn hỏa tiễn H12; trung đoàn phòng không hỗn hợp
595, một tiểu đoàn pháo phòng không 23 mm và một tiểu đoàn súng máy

13



phòng không 12,7 mm. Sau khi đƣợc tăng cƣờng sƣ đoàn 8 (quân khu 8), tổng
quân số của Đoàn 232 lên đến khoảng 42.000 ngƣời.
Đoàn 232 do Thiếu tƣớng Nguyễn Minh Châu làm tƣ lệnh, Đại tá Trần
Văn Phác làm chính ủy.
Bộ tƣ lệnh quân đoàn gồm: Tƣ lệnh cánh quân phía tây nam: Trung
tƣớng Lê Đức Anh; Chính ủy: Thiếu tƣớng Lê Văn Tƣởng
Nhiệm vụ của đoàn là cắt đƣờng số 4 (Bến Lức - ngã ba Trung Lƣơng),
chiếm Tân An, Mỹ Tho, chia cắt Sài Gòn và miền Tây Nam Bộ, thọc sâu
đánh chiếm Bộ tƣ lệnh Biệt khu thủ đô, cầu Nhị Thiên Đƣờng, Tổng Nha
cảnh sát, các quận 5, 6, 7, 8, 10, 11. Ngoài ra, đoàn 232 còn có nhiệm vụ đánh
chiếm các tỉnh lỵ Long An, Kiến Tƣờng; chốt chặn đƣờng số 4 không cho
Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở Sài Gòn rút về đồng bằng sông Cửu Long.
Mặc dù Sài Gòn - Gia Định là một thành phố lớn, rộng trên dƣới
1000 km vuông, vào thời điểm tháng 4 năm 1975 có hơn 3,5 triệu dân nhƣng
Bộ Tƣ lệnh chiến dịch đã chọn 5 mục tiêu quan trọng nhất cần đánh chiếm
trong thời gian ngắn nhất: Bộ Tổng tham mƣu Quân lực Việt Nam Cộng hòa,
Bộ Tƣ lệnh biệt khu thủ đô, Tổng nha Cảnh sát, sân bay Tân Sơn Nhất
và Dinh Độc Lập.[12]
1.2.2. Lực lượng quân lực Việt Nam cộng hòa (quân đội Ngụy)
Đến thời điểm mở chiến dịch, Quân lực Việt Nam Cộng hòa chỉ còn trong
tay hai quân đoàn (III và IV), trong đó Quân đoàn III đã bị tổn thất đáng kể
trong Chiến dịch Phan Rang - Xuân Lộc và các trận đánh ở vùng ven đô.
1.2.2.1. Quân đoàn III và Biệt khu Thủ đô
Quân số 245.000 ngƣời (bao gồm cả tàn binh từ Quân đoàn I và Quân
đoàn II đã bị đánh tan nhập vào), 406 khẩu pháo, 624 xe tăng và xe thiết giáp,
hơn 800 máy bay, 852 tàu các loại và xuồng chiến đấu.
Tƣ lệnh Quân đoàn III: Trung tƣớng Nguyễn Văn Toàn

14



Tƣ lệnh Biệt khu Thủ đô: Thiếu tƣớng Lâm Văn Phát
Các tuyến phòng thủ gồm có:
- Tuyến ngoài:
+ Sƣ đoàn 22 bộ binh (mới tái lập) ở Long An, Bến Lức, ngã ba Trung
Lƣơng, sở chỉ huy đặt tại Long An;
+ Sƣ đoàn 25 bộ binh giữ Đồng Dù, Trảng Bàng, Củ Chi, Hậu Nghĩa,
sở chỉ huy đặt tại căn cứ Đồng Dù;
+ Sƣ đoàn 5 bộ binh giữ Lai Khê, Bến Cát, Bình Dƣơng, sở chỉ huy đặt
tại Lai Khê;
+ Sƣ đoàn Thủy quân lục chiến (chỉ còn 2 lữ đoàn) giữ Long Bình;
+ Sƣ đoàn 18 (chỉ còn 2 chiến đoàn) giữ Bàu Cá, Trảng Bom, Suối
Đĩa;
+ Sƣ đoàn 5 không quân đóng tại Tân Sơn Nhất;
+ Lữ đoàn 3 thiết giáp giữ Biên Hoà;
+ Lữ đoàn 1 dù giữ Bà Rịa - Vũng Tàu;
- Tuyến trong:
Ba liên đoàn biệt động quân đƣợc triển khai tại Bình Chánh, Hóc Môn,
Bình Triệu.
Bốn Khu chiến đƣợc thành lập sau ngày 14 tháng 4 gồm:
- Liên đoàn đoàn 9 biệt động quân, 2 liên đoàn công binh và số quân
đang huấn luyện tại trại Quang Trung giữ Khu chiến Bắc từ Hóc Môn qua
Cầu Bông đến sân bay Tân Sơn Nhất.
- Các liên đoàn biệt động quân 7, 8 giữ Khu chiến Tây từ Vĩnh Lộc qua
Tân Hiệp, Bà Hom đến Bình Chánh.
- Liên đoàn bảo an 239 và một liên đoàn phòng vệ dân sự đƣợc vũ
trang giữ Khu chiến Nam từ Nhà Bè đến Nhơn Trạch.

15



- Lữ đoàn dù 4, Liên đoàn bảo an 391 và học viên Quân trƣờng Thủ
Đức giữ Khu chiến Đông từ Gò Vấp, Quận 9 đến Thủ Đức.
Năm liên khu phòng thủ nội đô gồm: Liên khu 1 (các quận 1, 3), Liên
khu 2 (các quận 5, 6), Liên khu 3 (các quận 2, 4), Liên khu 4 (các quận 7, 8),
Liên khu 5 (các quận 10 và 11). Các ổ đề kháng cũng đƣợc tổ chức tại Bộ Tƣ
lệnh biệt khu thủ đô, Bộ Tổng tham mƣu (do Liên đoàn biệt kích dù 81 phòng
thủ), Tổng nha Cảnh sát, Căn cứ không quân Tân Sơn Nhất. Bản thân Dinh
Độc Lập cũng đƣợc bố trí làm một trung tâm đề kháng với một lữ đoàn cảnh
vệ quốc gia có xe tăng và xe bọc thép tăng cƣờng.[12]
1.2.2.2. Quân đoàn IV
Vùng đồng bằng sông Cửu Long do Quân khu IV - Quân đoàn IV Quân
lực Việt Nam Cộng hòa vẫn còn nguyên vẹn, có 175.000 quân đƣợc biên chế
thành 3 sƣ đoàn bộ binh 7, 9, 21, một lữ đoàn bộ binh độc lập, sƣ đoàn 4
không quân, ba trung đoàn thiết kỵ, hai hải đoàn tuần duyên, ba giang đoàn;
đƣợc trang bị 493 xe tăng, xe thiết giáp, 366 khẩu pháo, 409 máy bay (trong
đó có 118 máy bay chiến đấu), 579 tàu, xuồng chiến đấu các loại. Các lực
lƣợng này đƣợc bố trí trong các cụm đề kháng quanh các thành phố lớn, thị
xã, các trục đƣờng giao thông lớn trong đó có hai trọng điểm là Thành phố
Cần Thơ và đƣờng số 4.[12]
1.3. Nguồn gốc tên gọi chiến dịch Hồ Chí Minh
Hội nghị Bộ chính trị ngày 31/3/1975 xác định "Từ giờ phút này trận
quyết chiến chiến lƣợc cuối cùng của quân dân ta đã bắt đầu". Ngày 1/4/1975
chiến dịch giải phóng Sài Gòn đã bắt đầu đƣợc chuẩn bị theo tƣ tƣởng chỉ đạo
"thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng" với tốc độ "một ngày bằng 20 năm".
Ngày 8 tháng 4 năm 1975, tại Lộc Ninh, Bộ Chỉ huy Chiến dịch giải phóng
Sài Gòn-Gia Định đƣợc thành lập với thành phần: Tƣ lệnh: Đại tƣớng Văn
Tiến Dũng, Chính uỷ: Phạm Hùng, các Phó Tƣ lệnh: Thƣợng tƣớng Trần Văn

16



Trà, Trung tƣớng Lê Đức Anh, Trung tƣớng Đinh Đức Thiện, Quyền Tham
mƣu trƣởng: Thiếu tƣớng Lê Ngọc Hiền, sau đó bổ sung Trung tƣớng Lê
Trọng Tấn làm Phó Tƣ lệnh và Trung tƣớng Lê Quang Hòa làm Phó Chính ủy
kiêm Chủ nhiệm Chính trị. Có hai nhân vật lãnh đạo không phải là quân nhân
tham gia là các ông Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt. Ông Nguyễn Văn
Linh đƣợc giao phụ trách công tác phát động quần chúng nổi dậy trong thành
phố. Ông Võ Văn Kiệt đƣợc giao phụ trách công tác tiếp quản các cơ sở kinh
tế, kỹ thuật sau khi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chiếm đƣợc thành
phố. Các thành viên dự hội nghị đã nhất trí đề nghị Bộ Chính trị cho lấy tên
gọi "Chiến dịch Hồ Chí Minh" thay cho tên gọi "Chiến dịch giải phóng Sài
Gòn - Gia Định". Ngày 14 tháng 4, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt
Nam gửi bức điện số 37/TK cho Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn Gia Định:
“Đồng ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ
Chí Minh... Chiến dịch tiến công hợp đồng binh chủng quy mô lớn có kết
hợp với nổi dậy của quần chúng, kết thúc chiến tranh. Đó là chiến dịch
quyết chiến chiến lƣợc lịch sử.”
— Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam

17


×