Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Nghệ thuật quân sự trong chỉ đạo trận buôn mê thuột năm 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.98 KB, 55 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH HÀ NỘI 2

PHẠM THẾ HẢI

NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ
TRONG CHỈ ĐẠO TRẬN BUÔN MÊ THUỘT
NĂM 1975
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục Quốc phòng và an ninh

HÀ NỘI – 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH HÀ NỘI 2

PHẠM THẾ HẢI

NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ
TRONG CHỈ ĐẠO TRẬN BUÔN MÊ THUỘT
NĂM 1975
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục Quốc phòng và an ninh
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

Thiếu tá, ThS. TRƢƠNG HÙNG SƠN

HÀ NỘI - 2018



LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện khóa luận, cùng với sự cố gắng của bản thân,
em đã nhận đƣợc sự giúp đỡ của thầy cô và bạn bè. Em xin bày tỏ lời cảm ơn
chân thành nhất tới giảng viên thầy Thạc sĩ, Thiếu tá. Trƣơng Hùng Sơn đã
trực tiếp hƣớng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình thực hiện nghiên cứu khóa
luận tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn thầy cô đã góp ý và ủng hộ em hoàn thành
khóa luận này.
Với điều kiện hạn chế về thời gian cũng nhƣ kiến thức của bản thân lên
khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận đƣợc sự đóng góp
của quý thầy cô để đề tài đƣợc hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội ngày 6 tháng 5 năm 2018
Tác giả đề tài

Phạm Thế Hải


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn của giảng
viên Thạc sĩ, thiếu tá - Trƣơng Hùng Sơn. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Nếu sái tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 6 tháng 5 năm 2018
Tác giả đề tài

Phạm Thế Hải



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1 Lí do chọn đề tài ...................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 2
4. Đối tƣợng nghiên cứu ............................................................................. 2
5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 2
6. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................ 3
7. Ý nghĩa khoa học thực tiễn ..................................................................... 3
8. Kết cấu của khóa luận ............................................................................. 3
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TRẬN BUÔN MÊ
THUỘT .......................................................................................................... 4
1.1. Hoàn cảnh lịch sử ................................................................................ 4
1.2 Lực lƣợng quân sự và ý đồ chiến lƣợc của các bên .............................. 5
1.2.1. Lực lượng quân sự của các bên .................................................... 5
1.2.2. Ý đồ chiến lược của các bên.......................................................... 8
1.2.3. . So sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch. ......................... 12
1.3 Diễn biến của trận Buôn Mê Thuột. .................................................... 13
1.4 Cơ sở lí luận và thực tiễn .................................................................... 16
1.4.1 Cơ sở lí luận .............................................................................. 16
1.4.2 Cơ sở thực tiễn. .......................................................................... 17
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ......................................................................... 19
Chƣơng 2. NGHỆ THUẬT CHỈ ĐẠO CHIẾN DỊCH BUÔN MÊ THUỘT . 21
2.1. Nghệ thuật sử dụng không gian và thời gian . .................................... 21
2.2. Nghệ thuật xác định hƣớng và mục tiêu tiến công. ............................ 22
2.3. Nghệ thuật nghi binh lừa địch, Sử dụng lực lƣợng điều binh tạo thế
nhƣ thần ................................................................................................... 25



2.3.1. Nghi binh lừa địch như ảo thuật ................................................. 25
2.3.1. Điều binh tạo thế, cài thế như thần ............................................. 26
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ......................................................................... 31
Chƣơng 3. Ý NGHĨA VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ NGHỆ
THUẬT CHỈ ĐẠO TRẬN BUÔN MÊ THUỘT .......................................... 33
3.1 Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử trong trận Buôn Mê Thuột. .... 33
3.1.1. Nguyên nhân thắng lợi ................................................................ 33
3.1.2. Ý nghĩa lịch sử ............................................................................ 37
3.2. Bài học kinh nghiệm trong trận Buôn Mê Thuột. ............................... 40
3.2.1. Bài học về nghệ thuật tác chiến then chốt quyết định trong trận
Buôn Mê Thuột ..................................................................................... 40
3.2.2 Buôn Mê Thuột, bài học độc đáo về nghệ thuật mở đầu cuộc
tiến công chiến lược mùa xuân năm 1975, bài học quý báu cho tinh
thần yêu nước thiết tha hòa bình vủa người Việt Nam .......................... 44
KẾT LUẬN ............................................................................................. 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 48


TẮT DANH MỤC CHỮ VIẾT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

NXB

Nhà Xuất Bản

NTQS


Nghệ Thuật Quân Sự

QĐNDVN

Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

VNCH

Việt Nam Cộng Hòa

QGP

Quân Giải Phóng

BMT

Buôn Mê Thuột


MỞ ĐẦU
1 Lí do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta đã từng nói “Dân ta có một lòng
nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay,
mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn
sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”.
Việt Nam chúng ta có lịch sử truyền thống đấu tranh dựng nƣớc và giữ
nƣớc vô cùng oanh liệt. Các cuộc chiến tranh chống kẻ thù xâm lƣợc do nhân
dân ta tiến hành đều là chiến tranh nhân dân chính nghĩa, thu hút đƣợc đông
đảo quần chúng tham gia ủng hộ. Trong các cuộc chiến tranh ấy, nhiều trận

đánh hay đã mãi mãi ghi vào sử sách, vào tâm trí mỗi ngƣời dân Việt Nam.
Ngày nay, nhìn lại lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, chúng ta
càng tự hào về truyền thống hào hùng ấy. Tiêu biểu đó là chiến thắng Buôn
Mê Thuột là kết quả quá trình đấu tranh lâu dài, bền bỉ, gian khổ, tích lũy và
phát triển lực lƣợng, tạo thế và lực, lựa đúng thời cơ, biến thành đòn đánh
sấm sét giáng xuống đầu quân thù.
Chiến thắng Buôn Mê Thuột đã đi vào lịch sử, là một trong những chiến
thắng oanh liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc của quân và
dân ta, mở màn thắng lợi cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm
1975, giải phóng hoàn toàn miền nam.
Trong suốt chiều dài lịch sử phải liên tục chống kẻ thù xâm lƣợc, dân tộc
ta luôn ở trong tình thế chiến đấu không cân sức, chúng ta còn thua kém trên
nhiều phƣơng diện, ngoại trừ tinh thần yêu nƣớc, tinh thần đoàn kết và ý chí
độc lập tự do của nhân dân. Tùy vào tình hình cụ thể của ta và địch mà trong
mỗi trận đánh khác nhau ông cha ta lại sử dụng một loại hình NTSQ khác
nhau trong đó trận Buôn Mê Thuột là một trong những trận thể hiện rõ nhất

1


đỉnh cao của nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch.
Trận Buôn Mê Thuột là một trong những trận đánh có ý nghĩa lịch sử vô
cùng to lớn, có vai trò đặc biệt trong cuộc kháng chiến chông Mỹ của dân tộc
Việt Nam có ý nghĩa quyết định đến vận mệnh của một quốc gia và thể hiện
sâu sắc nghệ thuật quân sự trong đó, là bài học kinh nghiệm quý báu, cũng là
cơ sở để Đảng ta vận dụng nghệ thuật đó vào trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Từ lòng ngƣỡng mộ các vị anh hùng
dân tộc, các nhà quân sự kiệt xuất của dân tộc, với các trận đánh hay, những
bài học nghệ thuật quân sự quý giá. Mong muốn đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu
nghệ thuật quân sự Việt Nam vì vậy em chọn đề tài: “Nghệ thuật quân sự

trong chỉ đạo trận Buôn Mê Thuột năm 1975 ” Nhằm làm rõ vấn đề lý luận
và thực tiễn của nghệ thuật quân sự Việt Nam, nghiên cứu đƣợc tính đặc sắc
và đặc điểm đặc trƣng của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến
chống mỹ cứu nƣớc xây dựng niềm tự hào dân tộc, phát huy tinh thần thƣợng
võ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ nghệ thuật quân sự trong trận Buôn Mê Thuột.
Vận dụng sáng tạo các NTQS đó trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của nghệ thuật quân sự trong trận Buôn
Mê Thuột.
Vận dụng nghệ thuật quân sự vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc trong tình
hình mới.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
+ Trận Buôn Mê Thuột
5. Phạm vi nghiên cứu
+ Trận Buôn Mê Thuột 3/1975

2


6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu lịch sử, logic, phân tích và tổng hợp lý thuyết, phƣơng pháp
tổng kết kinh nghiệm.
7. Ý nghĩa khoa học thực tiễn
7.1 Ý nghĩa khoa học
Đề tài góp phần vào việc nhận thức đầy đủ hơn về vị trí, vai trò của trận
Buôn Mê Thuột.
7.2 Ý nghĩa thực tiễn

Hiểu sâu sắc hơn về nghệ thuật quân sự trong trận Buôn Mê Thuột.
8. Kết cấu của khóa luận
Kết cấu của khóa luận gồm: phần mở đầu, 3 chƣơng, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo.
.

3


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TRẬN BUÔN MÊ THUỘT
1.1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ

Ngày 27/1/1973, Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Việt Nam đƣợc ký kết, cách mạng nƣớc ta đứng trƣớc tình thế mới.
Tháng 7/1973, Hội nghị 21 Ban chấp hành trung ƣơng (khóa III) đã ra
Nghị quyết về “Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc và
nhiệm vụ của cách mạng Miền Nam trong giai đoạn mới”. Từ đƣờng lối sáng
suốt đó, trên chiến trƣờng ta đã phá vỡ từng mảng lớn hoạt động “bình định”
của địch, mở rộng vùng giải phóng, tiêu diệt nhiều cụm cứ điểm, bức rút
nhiều đồn bốt địch.
Ngày 6/1/1975, ta giải phóng toàn bộ thị xã Phƣớc Long, song địch chỉ
có những phản ứng yếu ớt.
Với Hiệp định Pari về Việt Nam ta đã “đánh cho Mỹ cút” nhƣng vẫn
chƣa “đánh cho Ngụy nhào”.
Mỹ còn duy trì đƣợc chính quyền tay sai ở Miền Nam, chúng lập ra bộ
chỉ huy quân sự trá hình tiếp tục viện trợ quân sự, kinh tế cho ngụy. Chúng
huy động lực lƣợng tiếp tục chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh” nhằm
chống lại cách mạng.
Trƣớc tình hình đó, Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng miền nam 1975, từ

ngày 30/9 đến 8/10/1974 và từ ngày 18/12/1974 đến 8/1/1975. Bộ Chính trị
đã tiến hành 2 cuộc họp, bàn chủ trƣơng và bổ sung hoàn chỉnh kế hoạch giải
phóng miền Nam trong hai năm 1975 và 1976, nếu có thời cơ thì giải phóng
miền Nam ngay trong năm 1975.
Đến cuối năm 1974, cách mạng nƣớc ta đã có những bƣớc phát triển
thuận lợi. Ở miền Nam, quân và dân ta đánh bại kế hoạch lấn chiếm của địch,
buộc chúng phải quay về giữ các đô thị, các vùng giao thông huyết mạch và

4


các địa bàn chiến lƣợc trọng yếu. Trên miền Bắc, các quân đoàn, binh đoàn
chủ lực lần lƣợt ra đời.
Lúc này, hành lang chiến lƣợc từ miền Bắc đã có thể vào tận Nam Bộ.
Nhƣng do địch làm chủ Đức Lập (Nam Tây Nguyên) nên khi qua đây, ta vẫn
phải né sang đất campuchia. “Khơ me đỏ” đã nhiều lần chặn xe, giết ngƣời,
cƣớp của, đồng thời luôn đòi ta phải rút bỏ con đƣờng. Vì vậy, đầu năm 1975
ta chủ trƣơng mở chiến dịch Nam Tây Nguyên nhằm đánh chiếm Đức Lập,
đƣa tuyến hành lang về đất ta.
Tuy nhiên, sau đó ta đã quyết định giải phóng thị xã Buôn Mê Thuột,
một trung tâm chính trị và đầu mối giao thông quan trọng trên Tây Nguyên.
1.2. LỰC LƢỢNG QUÂN SỰ VÀ Ý ĐỒ CHIẾN LƢỢC CỦA CÁC BÊN

1.2.1. Lực lượng quân sự của các bên
Quân Ta - Lực lƣợng QĐNDVN tham chiến tại Mặt trận Tây Nguyên
tháng 3 năm 1975 ban đầu dƣới sự chỉ huy của Bộ Tƣ lệnh chiến dịch Tây
Nguyên (mật danh 275) trên cơ sở tổ chức lại Bộ Tƣ lệnh Mặt trận Tây
Nguyên (B3) trƣớc đây. Ngày 5/2/1975, Bộ Tƣ lệnh đƣợc thành lập do Trung
tƣớng Hoàng Minh Thảo làm Tƣ lệnh, Đại tá Đặng Vũ Hiệp làm chính ủy,
Thiếu tƣớng Vũ Lăng (nguyên Cục trƣởng Cục tác chiến) và các đại tá Phan

Hàm, Nguyễn Năng, Nguyễn Lang làm phó tƣ lệnh. Đại tá Phí Triệu Hàm
làm phó chính ủy.
Trực tiếp chiến đầu gồm có: Bộ binh các sƣ đoàn 3 (Sao Vàng), 10, 316,
320A, 968. Các trung đoàn độc lập: 25, 271, 95A, 95B. Đặc công có: Trung
đoàn 198 và 2 tiểu đoàn độc lập 14, 27. Tăng thiết giáp có: Trung đoàn 273.
Pháo binh: các trung đoàn 40 và 675. Phòng không: các trung đoàn 232, 234,
593. Bảo đảm chiến đầu gồm Công binh: Các trung đoàn 7 và 575. Thông tin:
Trung đoàn 29. Vận tải: một trung đoàn ô tô.
Tổng quân số các đơn vị QĐNDVN thuộc Bộ Tƣ lệnh chiến dịch Tây

5


nguyên là 65.141 ngƣời, trong đó có 44.900 ngƣời trực tiếp tham gia chiến
đấu. Riêng khối chủ lực có quân số 43.020 ngƣời; các đơn vị này đƣợc trang
bị 57 xe tăng, 88 khẩu pháo lớn từ 105 mm đến 130 mm hàng trăm khẩu pháo
85mm và cối 120, 160mm, 6 bộ khí tải tên lửa chống tăng B-72, 1561 súng
chống tăng B-40, B41, hàng vạn súng bộ binh RPD, RPK, AK-47, K-63 và
CKC, 343 súng phòng không các cỡ, 679 ô tô các loại. Các kho dự trữ hậu
cần của mặt trận Tây Nguyên đảm bảo cung cấp cho các đơn vị từ 2 đến 3
tháng trong điều kiện chiến đấu liên tục.
Đầu tháng 3/1975, các lực lƣợng nói trên bố trí nhƣ sau: Cụm BMT: Sƣ
đoàn bộ binh 316, trung đoàn bộ binh 95B, trung đoàn bộ binh 24, tiểu đoàn
bộ binh 4 (trung đoàn 24), trung đoàn đặc công 198, trung đoàn xe tăng 273, 2
trung đoàn pháo binh 40 và 675, 2 trung đoàn công binh 7 và 575, trung đoàn
thông tin 29.
Cụm Đức Lập: Sƣ đoàn 10 bộ binh, trung đoàn bộ binh 271, tiểu đoàn
đặc công 14, một tiểu đoàn pháo binh (thuộc trung đoàn pháo binh 40), 2 tiểu
đoàn phòng không(thuộc trung đoàn phòng không 234).
Khu vực đƣờng 19 từ Bình Khê đi Pleibon: Sƣ đoàn bộ binh 3 Sao Vàng,

Trung đoàn 95A. Cụm Thần Mẫn- đƣơng 14: sƣ đoàn bộ binh 302A. Cụm
Plieku-Kon Tum: sƣ đoàn 968 và lực lƣợng vũ trang 2 tỉnh đảm nhiệm. Khu
vực đƣờng 21: trung đoàn bộ binh 25.
- Phía Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Vùng duyên hải Trung-Nam Trung bộ: Bộ binh có sƣ đoàn 22(4 trung
đoàn 41, 42, 43, 52) và tiểu đoàn bảo an. Pháo binh có 5 tiểu đoàn với 146
khẩu các cỡ tử 105 đến 155mm. Xe tăng - Thiết giáp 1 thiết đoàn và 8 chi đội
tổng cộng 117 xe. Không quân 12 phi đoàn gôm 102 máy bay chiến đấu phản
lực và cánh quạt, 164 trực thăng, 69 máy bay vận tải, trinh sát và huấn luyện.
Hải quân có 2 hải đoàn tuần duyên, 2 giang đội trên sông.

6


Chỉ huy cụm quân tại duyên hải miền Trung thuộc địa bàn Quân đoàn IIQuân khu II là Chuẩn tƣớng Lê Văn Thân, phó tƣ lệnh phụ trách về lãnh thổ.
Lực lƣợng hải quân do Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh tƣ lệnh vùng 2 hải quân
chỉ huy. Các sỹ quan chỉ huy cấp dƣới và các lực lƣợng có chuẩn tƣớng Phan
Đình Niệm, tƣ lệnh sƣ đoàn 22, các tiểu khu quân sự cấp tỉnh do các đại tá
tỉnh trƣởng phụ trách gồm: đại tá Lý Bá Phẩm,tỉnh trƣởng tính Khánh Hòa,
đại tá Trần Đình Vi, tỉnh trƣởng tỉnh Bình Định, đại tá Vũ Quốc Gia, tỉnh
trƣởng Phú Yên, đại tá Nguyễn Văn Tƣ, tỉnh trƣởng Ninh Thuận, đại tá Ngô
Tấn Nghĩa, Tỉnh trƣởng Bình Thuận.
Vùng cao nguyên: Bộ binh: sƣ đoàn 23 (3 trung đoàn: 44, 45, 53), 7 liên
đoàn biệt động quân (4, 6, 21, 22, 23, 24, 25), các đơn vị này có quân số
tƣơng đƣơng 10 trung đoàn), 36 tiểu đoàn bảo an. Pháo binh: 8 tiểu đoàn với
230 khẩu các cỡ từ 105 đến 175mm. Xe tăng - Thiết giáp: 4 thiết đoàn chiến
đấu (32 chiếc), 2 phi đoàn trực thăng (86 chiếc), 1 phi đoàn vận tải, trinh sát
huấn luyện (32 chiếc). Bộ tƣ lệnh tiếp vận Quân khu II - Quân đoàn II Quân
lực VNCH có các kho dự trữ đủ khả năng cung cấp cho quân đoàn chiến đấu
ác liệt trong hai tháng. Theo đại tá Phạm Bá Hòa, tham mƣu trƣởng Tổng cục

tiếp vận Quân lực VNCH, các lực lƣợng này đƣợc bố trí theo thế “nặng đầu
nhẹ đuôi” trên địa bàn cao nguyên trung phần. Trung đoàn 44 (sƣ đoàn 23) và
3 thiết đoàn xe tăng, 5 tiểu đoàn pháo, 5 liên đoàn biệt động quân (6, 22, 23,
24, 25) đóng quanh khu vực Kon Tum - Plieku và chốt giữ đƣờng 19 đi An
Khê (Bình Định); toàn bộ 4 phi đoàn không quân đống tại sân bay Củ Hành;
Trung đoàn 45 (sƣ đoàn 23) và một chi đoàn thiết giáp (thuộc thiết đoàn 8)
giữ Quảng Đức, liên đoàn 4 biệt động quân và một tiểu đoàn pháo binh giữ
Thành An-Đồn Tằm. Tại BMT chỉ có trung đoàn 53, liên đoàn 21 biệt động
quân, trung đoàn pháo binh 232, thiết đoàn 8 và một số chi đội thiết giáp, 3
liên đoàn bảo an, hậu cứ trung đoàn 45 (khu B50), Các đơn vị hậu cứ và Bộ

7


chỉ huy nhẹ của sự đoàn 23. Tổng quân số 8350 ngƣời, trong đó có 5920 quân
đóng tại các căn cứ trong thị xã, 2430 quân số đóng tại các cứ điểm ngoại vi
thị xã. Lực lƣợng này đƣợc trang bị 19 pháo 105mm, 4 pháo 155mm, 16 xe
tăng M-41 và M48, 50 xe bọc thép M -113, phi đội trinh sát có 6 máy bay
trinh sát L-19 và trực thăng UH-1 tại sân bay Hòa Bình (Phụng Dực).
1.2.2. Ý đồ chiến lược của các bên.
Phía Quân đội nhân dân Việt Nam.
Từ ngày 17 đến ngày 19 tháng 2, Bộ tƣ lệnh chiến dịch Tây Nguyên họp
mở rộng để bàn phƣơng án tác chiến. Đánh giá tình hình Quân lực VNCH
trên địa bàn, các tƣớng lĩnh và sĩ quan chỉ huy cao cấp của Bộ Tƣ lệnh chiến
dịch thống nhất nhận định:
Đối phƣơng có thể huy động cao nhất từ 5 đến 7 đơn vị cấp trung đoàn
để lần lƣợt phản đội kích ngăm chặn cuộc tấn công. Nếu không phải đối phó
nhiều hƣớng, đối phƣơng có thể huy động lực lƣợng dự bị chiến lƣợc và từ
các quân khu khác khoảng từ 9 đến 12 trung đoàn. Do phải cơ động bằng
đƣơng bộ, và nếu phải đối phó trên nhiều hƣớng tiến công, các đơn vị phản

kích của đối phƣơng (nếu có) sẽ chỉ có thể đến chiến trƣờng từ 3 đến 4 trung
đoàn một lƣợt. Nếu đối phƣơng cơ động đƣờng không thì với lực lƣợng máy
bay và bãi đáp, sân bay hiện có, mỗi ngày chỉ có thể đƣa một trung đoàn vào
trận. Đối phƣơng có thể huy động chi viện đến mặt trận từ 1 đến 2 thiết đoàn,
sử dụng từ 3 đến 5 tiểu đoàn pháo lớn cho hƣớng chủ yếu và chi viện không
quân khoảng 80 lần chiếc/ngày. Hội nghị cũng dự kiến không quân Hoa kỳ có
thể tham chiến trở lại với cƣờng suất 100 đến 120 lần chiếc/ngày
Căn cứ tình hình bố trí lực lƣợng hai bên, hội nghị đã vạch ra 5 vấn đề
lớn về tác chiến gồm có:
Hƣớng và khu vực tác chiến chủ yếu là thị xã BMT - Đức Lập. Mục tiêu
quyết định là thị xã BMT.

8


Hƣớng và mục tiêu quan trọng là khu vực Cẩm Ga (Thuần Mẫn) để cắt
đứt đƣờng 14 chia cắt các lực lƣợng đối phƣơng ở Bắc Tây Nguyên và Nam
Tây Nguyên, ngăn chặn cánh quân ở khu vực Kon Tum - Pleiku xuống ứng
cứu cho BMT.
Hƣớng phát triển chiến dịch đến Phú Bổn và Quảng Đức, chủ yếu là Phú
Bổn, gồm cả thị xã Cheo Reo.
Hƣớng bao vây chia cắt chiến dịch là cắt đứt đƣờng 19 trên truyến pleiku
- An Khê- đông Bình Khê, cắt đứt đƣơng 21 ở phía Đông và Tây Chƣ Cúc,
chặn cách quân đồng bằng duyên hải từ Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa lên
ứng cứu cho Tây Nguyên đồng thời ngăn chặn cánh quân ở Tây Nguyên rút
về đồng bằng ven biển.
Hƣớng nghi binh chiến dịch là Pleiku và Kon Tum, các đơn vị ở lại trên
hƣớng này phải tạo thế chuẩn bị tấn công, kiềm chế, giam chân khối chủ lực
của Quân đoàn II tại khu vực Pleiku-Kon Tum.
Bộ Tƣ lệnh chiến dịch Tây nguyên đã đƣa ra hai phƣơng án tác chiến để

lựa chọn:
Phƣơng án thứ nhất: Tấn công khi đối phƣơng chƣa điều toàn bộ sƣ đoàn
23 và các đơn vị tăng cƣơng khác về phòng thủ BMT. Đây là phƣơng án lý
tƣởng nhất, đản bảo thắng nhanh gọn và ít gây thiệt hại cho các mục tiêu dân
sự trong thị xã. Điều này phụ thuộc vào hiệu quả thực hiện nghi binh chiến
lƣợc trên hƣớng Plieku- Kon Tum bảo đảm giam chân 4 trung đoàn bộ binh, 3
thiết đoàn xe tăng-thiết giáp và 5 liên đoàn biệt động quân đang bố trí tại đây.
Phƣơng án thứ hai: Tấn công khi đối phƣơng đã tăng cƣơng phòng thủ
thị xã BMT. Đây là phƣơng án đánh chắc tiến chắc và cuộc chiến sẽ găng co
ác liệt.
Bộ Tƣ lệnh chiến dịch yêu cầu các đơn vị dƣới quyền tổ chức chuẩn bị
tấn công theo phƣơng án 2, trong khi thực hiện phải tạo thời cơ và nhanh

9


chóng chuyển sang phƣơng án 1 khi điều kiện thời cơ xuất hiện.
Quân đội Nhân dân Việt Nam đã phát hiện ra điểm yếu trong toàn bộ
tuyến phòng thủ của Quân Lực VNCH do tập trung phần lớn lực lƣợng mạnh
nhất của mình ở Quân khu I (phía Bắc đèo Hải Vân) và quân khu III (quanh
Sài Gòn). Quân khu II, trong đó có địa bàn trọng điểm Tây Nguyên chính là
địa đoạn yếu nhất trên toàn bộ tuyến phòng thủ do chỉ có một quân đoàn đóng
giữ. Quân đoàn này lại phải bổ đôi lực lƣợng cho hai khu vực đồng bằng và
cao nguyên, giao thông thuận tiện, dễ bị chia cắt. Địa đoạn yếu này lại càng
yếu hơn khi các lực lƣợng mạnh nhất tập trung ở cánh Bắc xung quanh
Plieku-Kon Tum và gần nhƣ để ngỏ cánh Nam với BMT là trọng điểm. Bộ tƣ
lệnh chiến dịch Tây Nguyên cho rằng khi mất Tây Nguyên, quân lực VNCH
sẽ khó tổ chức phản công tái chiếm vì sẽ phải điều từ 5 đến 6 sƣ đoàn đến
chiến trƣơng trong khi không có đủ lực lƣợng để bảo vệ quân khu III, Biệt
khu thủ đô và Quân khu I sát miền Bắc nên các Quân khu này cũng đồng thời

bị tấn công.
Phía Quân lực VNCH. Ngày 18/2/1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
triệu tập phiên họp các tƣớng lĩnh tại Dinh Độc lập để soát xét việc thực thi
Kế hoạch quân sự Lý Thƣờng Kiệt 1975 đã đƣợc Hội đồng An ninh quốc gia
phê chuẩn hồi tháng 12/1974. Trong báo cáo “ƣớc lƣợng tình báo” do Đại tá
Hoàng Ngọc Lung, Trƣởng phòng 2 Bộ Tổng tham mƣu có một số điểm đáng
chú ý: Lực lƣợng tổng trù bị của Bắc Việt gồm 7 sƣ đoàn vẫn đóng tại vùng
“cán xoong” phía Bắc Quân khu I nhƣng các sƣ đoan 321, 316 và 341 đang có
hiện tƣợng chuẩn bị di chuyển.
Nhiều dấu hiệu cho thấy đối phƣơng có thể hoạt động tấn công Xuân- Hè
1975 trong một ngày gần đây. Mấu chốt của các cuộc tấn kích này là phá bình
định, giành đất giành dân. Quân khu II sẽ là hƣớng trọng điểm, hai quân khu
bạn (I và III) là hƣớng phối hợp.

10


Ngay sau Hội nghị, Trung tƣớng Phạm Văn Phú, tƣ lệnh Quân đoàn II
trở về Plieku và tức khắc triệu tập chỉ huy trƣởng các đơn vị và các tiểu khu
quân sự dƣới quyền bàn cách đối phó. Thế bố trí “nặng đầu nhẹ đuôi” nhƣ
hiện có theo tƣớng Phú là phù hợp vì Đại tá Trịnh Tiếu, Trƣởng phòng 2 Bộ
tham mứu Quân đoàn cho biết thám báo mặt đất, thám sát điện đài và trinh sát
đƣờng không đã phát hiện Sƣ đoan 968 của đối phƣơng mới từ Lào về nhƣng
chƣa biết sẽ di chuyển đến đâu. Tại khu vực Plieku - Kon Tum, đối phƣơng
đã có hai sƣ đoàn 10 và 320, chỉ có hai trung đoàn 271, 201 bố trí sát Quảng
Đức. Chỉ có trung đoàn 205 bố trí ơ Tây Bắc BMT. Đại tá Tiếu phán đoán:
Nếu đánh lớn, đối phƣơng sẽ lấy Plieku-Kon Tum làm “điểm”, những vùng
còn lại chỉ là “diện”. Nếu đánh vừa họ có thể sẽ chiếm nốt Quảng Đức để nối
liền với Phƣớc Long và mở thông hành lang Đông Trƣơng Sơn, chuẩn bị cho
năm sau tổng công kịch. Khi đó, điểm quyết định phải là Đông Nam Bộ.

Không có sĩ quan cao cấp nào của Quân đoàn II có ý kiến đánh giá khác. Chỉ
có đại tá Phạm Văn NGhìn, tiểu khu trƣởng đồng thời là tỉnh trƣởng Quảng
Đức xinh thêm 1000 quân tăng phái. Với các phân tích trên, Nguyên Văn Phú
kết luận:
Tập trung sƣu tra sự di chuyển của sƣ đoàn 10 và sƣ đoan 320 Bắc Việt.
Hai sƣ đoàn này ở đâu thì ở đó sẽ có đánh lớn. Sƣ đoàn 968 chuyên bảo vệ
hậu cứ, ít kinh nghiệm sơn chiến nếu không đáng ngại, có thể dùng không
quân ngăn chặn. Khu vực Plieku-Kon Tum phải tăng cƣờng bố phòng sục sạo
từ xa để sớm phát hiện đối phƣơng; nới rộng tuyến phòng thủ ra ngoài để
giảm sức tiến công của đối phƣơng khi đánh sâu vào các cụm phòng ngự
trong thị xã. Chấp thuận đề nghị của tƣớng Nghìn, tăng phái cho Quảng Đức
trung đoàn 53. BMT có thể bị tấn kích nhƣng chỉ là “diện”, chƣa cần tăng
thêm lực lƣợng. Các tiểu khu, đơn vị có và thực thi ngay kế hoạch giải tỏa các
đƣơng giao thông khi bị đối phƣơng cắt đứt.

11


Sáng ngày 2/3, trƣởng chi nhánh CIA tại Quân khi II Howard Arche từ
Nha Trang bay lên BMT và thông báo cho đại tá Nguyễn Trọng Luật tin tức
tình báo về việc QĐNDVN chuẩn bị tấn công BMT nhƣng không thể tìm hiểu
rõ hơn về lực lƣợng của họ. Tƣớng Phú rút lại quyết định điều trung đoàn 53
lên Quảng Đức và gửi nó đến BMT, đồng thời lệnh rút trung đoàn 45 từ
Thuần Mẫn (Cẩm Ga) về giữ Thanh An - Đồn Tằm. Ngoài những cuộc điều
quân có tính chất địa phƣơng kể trên, binh lực VNCH tại Tây Nguyên không
có những thay đổi lớn trong thế bố trí chiến lƣợc và vẫn giữ nguyên phƣơng
án “phòng thủ diện địa” và đây chính là điểm yếu khiến quân lực VNCH mất
đi sức mạnh vốn có của họ là tính cơ động do các phƣơng tiện chuyển quân
hiện đại (cơ giới và trực thăng) mang lại. Do những phán đoán sai lầm từ cơ
quan tình báo CIA tại Sài Gòn về việc “cộng sản có ý định bao vây và cắt đứt

các đƣờng giao thông nên tại BMT, Quân lực VNCH không có một phƣơng
án khả thi nào để phòng thủ BMT trong trƣờng hợp thị xã trở thành chiến
trƣờng trọng điểm.
Thiếu tƣớng Phạm Văn Phú chỉ huy các lực lƣợng của quân đoàn II
Quân lực VNCH. Các chỉ huy cấp tại cụm quân Cao nguyên có Chuẩn tƣớng
Trần Văn Cẩm phó tƣ lệnh phụ trách hành quân; chuẩn tƣớng Phạm Ngọc
Sáng, tƣ lệnh sƣ đoàn 6 không quân, chuẩn tƣớng Lê Trung Tƣờng, tƣ lệnh sƣ
đoàn 23; đại tá Lê Khắc Lý, tham mứu trƣởng quân đoàn; đại tá Phạm Duy
Tất, chỉ huy biệt động quân, đại tá Vũ Thế Quang, phó tƣ lệnh sƣ đoàn 23.
Các tiểu khu quân sự tỉnh do các đại tá tỉnh trƣởng nắm giữ gồm: đại tá Phạm
Văn Nghìn, tỉnh trƣởng Quảng Đức, đại tá Nguyễn Trọng Luật, tỉnh trƣởn
Đắc lắc và tỉnh trƣởng các tỉnh trƣởng Kon Tum, Plieku, Phú Bổn, Tuyên
Đức.
1.2.3. . So sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch.
Trên toàn mặt trận Tây Nguyên, so với lực lƣợng Quân lực VNCH, lực

12


lƣợng bộ binh QĐNDVN không hơn nhiều. Nhƣng do phàn lớn Quân lực
VNCH phòng thủ tại cánh Bắc trong khi QĐNDVN tập trung chủ lực tại cánh
Nam, nên tại điểm quyết chiến BMT vào giờ khai hỏa, ƣu thế của QĐNDVN
so với Quân lực VNCH tại đay có tỉ lệ áp đảo: bộ binh 5:1, thiết giáp 2:1, pháo
lớn 2:1. Ƣu thế này bảo đảm cho QĐNDVN khả năng thắng lợi nhanh chóng đo
đối phƣơng khó có khả năng cầm cự lâu dài chờ quân phản kịch ứng cứu.
1.3. DIỄN BIẾN CỦA TRẬN BUÔN MÊ THUỘT

2 giờ sáng ngày 10/3/1975, cuộc tiến công của QĐNDVN vào Buôn Mê
Thuột bắt đầu với các trận đột kích sâu của trung đoàn 198 đặc công vào các
mục tiêu: Sân bay Hòa Bình, khu kho Mai Hắc Đế, khu hậu cứ của trung đoàn

53 quân lực VNCH với sự yểm hộ của hỏa tiễn tầm ngắn ĐKB và H-12. Theo
lời kể của thiếu tá Phạm Huấn, trợ lý báo chí của trung tƣớng Phạm Văn Phú,
trận pháo kích gây kinh hoàng cho cả hai vị chỉ huy quân lực VNCH tại Buôn
Ma Thuột là đại tá Nguyễn Trọng Luật và đại tá Vũ Thế Quang. Tại thời điểm
đó, đại tá Quang vẫn nhận định rằng: Cộng quân chỉ dùng đặc công và pháo
binh quấy rối rồi đến sáng, họ sẽ rút ra Đến 3 giờ 30 phút, tiểu đoàn 4 (trung
đoàn 198) đã khai thông đuờng Phan Chu Trinh và chiếm đƣợc phần phía
Nam sân bay Hòa Bình chốt giữ tại đó, chờ bộ binh và xe tăng chi viện. Tiểu
đoàn 5 (trung đoàn 198) đánh vào khu kho Mai Hắc Đế và đoạn đuờng 429,
tiếp tục pháo kích bằng hỏa lực ĐKB, H-12 vào Sở chỉ huy sƣ đoàn 23, Sở
chỉ huy tiểu khu, trung tâm thông tin, doanh trại thiết giáp và khống chế trận
địa pháo. Lúc 5 giờ sáng, cửa ngõ tiến quân bằng cơ giới của QĐNDVN từ
hƣớng đông bắc, tây bắc, tây và tây nam vào Buôn Mê Thuột đã đƣợc khai
thông. Sau khi pháo binh sƣ đoàn và pháo binh chiến dịch tiếp tục pháo kích
vào thị xã, các đại đội xe tăng có bộ binh đi kèm bật đèn pha mở hết công
suất, húc đổ các cây rừng đã cƣa sẵn, vƣợt qua các tuyến phòng thủ vòng
ngoài đánh thẳng vào trung tâm thị xã. Hƣớng Tây Nam, trung đoàn 174 có

13


một đại đội xe tăng yểm hộ vuợt qua các chốt Chi Lăng, Chƣ Di và khu kho
Mai Hắc Đế. Hƣớng Tây Bắc, trung đoàn 148 có một đại đội xe tăng mở
đƣờng đánh vào Sở chỉ huy tiểu khu Đắc Lắc và dùng một tiểu đoàn tấn công
ấp Châu Sơn . Hƣớng Tây, có tiểu đoàn 4 (trung đoàn 24 sƣ đoàn 10) và hai
đại đội xe tăng đánh vào Sở chỉ huy sƣ đoàn 23 và mặc dù xe tăng bị sa lầy và
bị máy bay quân lựu VNCH bắn phá song họ vẫn tấn công vào khu quân y,
khu truyền tin. Hƣớng Đông Bắc có trung đoàn 95B đánh vào khu vực ngã
sáu, hƣớng Đông Nam, trung đoàn 149 (không có xe tăng đi kèm) dùng một
tiểu đoàn tấn công cứ điểm Chƣ Blom và điểm cao 582, hai tiểu đoàn còn lại

đánh thốc qua cứ điểm Ba Lê và điểm cao 491 tiến thẳng vào trung tâm thị xã.
Phía Đông thị xã, trung đoàn 3 (sƣ đoàn 10) có một đại đội xe tăng yểm hộ
phối hợp với một tiểu đoàn của trung đoàn 149 (sƣ 316) tấn công đánh chiếm
sân bay Hòa Bình từ hai hƣớng Đông Bắc và Tây Nam khép lại. Trung đoàn 2
(sƣ đoàn 10) đánh chiếm cứ điểm Phƣớc An.
Từ hầm chỉ huy của sƣ đoàn 23, đại tá Nguyễn Trọng Luật điều 2 chi đội
thiết giáp M-113 ra giữ Ngã Sáu nhƣng đã bị các xe tăng của đại đội 5, tiểu
đoàn 3, trung đoàn xe tăng 273 đẩy lùi. Tiểu đoàn biệt động quân đóng giữ Sở
chỉ huy tiểu khu Đắc Lắc chống trả quyết liệt. Phải đến 17 giờ 30, sau đợt tấn
công thứ sáu, trung đoàn 95B mới chiếm đƣợc sở chỉ huy tiểu khu. Ở hƣớng
Đông Bắc thị xã, tiểu đoàn 9 liên đoàn 21 biệt động quân chỉ giữ đƣợc đến
trƣa thì bị đẩy lùi ra ngoại vi phía Đông thị xã, chịu mất các khu pháo binh,
thiết giáp và hậu cứ của trung đoàn 45. Ở hƣớng Tây, Sƣ đoàn 6 không quân
quan lựu VNCH điều động 8 chiếc A-37 ném bom vào đội hình của trung
đoàn 24 (sƣ đoàn 10 QĐNDVN) gây một số thƣơng vong nhƣng không làm
chậm lại tốc độ tiến quân của đơn vị này. Ở hƣớng Tây Nam, đại tá Vũ Thế
Quang liên tục tung các lực lƣợng dự bị có trong tay phản kích nhằm chiếm
lại khu kho Mai Hắc Đế, đồng thời gọi không quân đánh phá ngăn chặn.

14


Trung đoàn 174 phải để lại một tiểu đoàn bao vây khu vực này, điều 2 tiểu
đoàn còn lại đánh vòng qua khu kho để tiếp cận Sở chỉ huy sƣ đoàn 23. Ở
hƣớng Đông Nam, các tiểu đoàn 7 và 8 (trung đoàn 149) mặc dù bị nhiều tốp
máy bay A-37 của không quân VNCH oanh tạc vào đội hình, gây nhiều
thuơng vong nhƣng họ vẫn đẩy lùi các lực lƣợng của trung đoàn 53, đánh
chiếm khu cƣ xá sĩ quan, khu tiếp vận, Sở Thú y, Sở Ngân khố, nhà lao.
Đến 14 giờ 30, đại tá Trịnh Tiếu, truởng phòng quân báo Quân đoàn II
mới trình tƣớng Phú bản báo cáo trong đó kết luận: đã phát hiện sƣ đoàn 316

của QĐNDVN từ Lào về đang di chuyển xuống phía Nam. Tƣớng Phú lập tức
ra lệnh phá các cầu trên đƣờng 14 để ngăn chặn đơn vị này nhƣng đã quá
muộn. Đến lúc dó thì toàn bộ sƣ đoàn 316 đã giao chiến với quân VNCH
trong nội đô thị xã đƣợc hơn 10 tiếng đồng hồ. Lúc 17 giờ, tiểu đoàn 9 (trung
đoàn 149) phối hợp với các đơn vị của trung đoàn 198 đặc công vây đánh
nhƣng không chiếm đƣợc sở chỉ huy sân bay Hòa Bình do một tiểu đoàn biệt
động quân quân lực VNCH phòng giữ. Trong thị xã, tiểu đoàn 7 (trung đoàn
149) đánh chiếm khu tham mƣu - truyền tin và nhầm lẫn rằng đó là Sở chỉ
huy sƣ đoàn 23.
Đêm 10 tháng 3, chiến sự tạm lắng. Các đơn vị quân lực VNCH còn lại
trong thị xã co cụm trong các cứ điểm còn giữ đƣợc nhƣ Sở chỉ huy sƣ đoàn
23, khu nhà ga sân bay Hòa Bình, đài phát thanh. Đại tá Vũ Thế Quang điện
cho chuẩn tƣớng Lê Trung Tƣờng xin tiếp ứng nhƣng chỉ nhận đƣợc câu trả
lời: Bộ chỉ huy đang bận đối phó trên hƣớng Pleiku - Kon Tum. Đại tá ráng
giữ vững. Cộng quân có đánh lớn thì cũng chỉ đƣợc vài ngày rồi rút nhƣ hồi
Mậu Thân. Sáng 11 tháng 3, các đơn vị QĐNDVN tiếp tục tấn công trong làn
mƣa bom từ các máy bay A-37 của không quân VNCH trút xuống thị xã. Lúc
7 giờ 55, một tốp A-37 trong khi ném bom ngăn chặn 10 xe tăng của
QĐNDVN đã đánh hai quả bom trúng hầm chỉ huy và truyền tin Sở chỉ huy

15


sƣ đoàn 23. Bộ tƣ lệnh quân đoàn II QLVNCH mất liên lạc hoàn toàn với Bộ
tƣ lệnh sƣ đoàn 23 kể từ giờ phút đó. Mất sở chỉ huy, đồng thời bị vây đánh từ
nhiều phía, các đơn vị còn sống sót của QLVNCH cố gắng chống cự chờ viện
binh nhƣng đến 11 giờ ngày 11 tháng 3, các đơn vị của sƣ đoàn 316 đã hoàn
toàn làm chủ thị xã Buôn Mê Thuột. Chỉ còn liên đoàn 21 biệt động quân và
một số đơn vị còn lại của trung đoàn 53 đang cố giữ chốt phòng ngự cuối
cùng tại sân bay Hòa Bình (phi trƣờng Phụng Dực).

1.4. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.4.1. Cơ sở lí luận
Nghệ thuật quân sự là tổng hợp ba bộ phận hợp thành của nghệ thuật chỉ
đạo đấu tranh vũ trang của chiến tranh: chiến lƣợc quân sự, nghệ thuật chiến
dịch và chiến thuật quân sự, là nghệ thuật tạo ra và sử dụng một cách khôn
khéo thế và lực nhằm đạt đƣợc hiệu quả cao nhất trong đấu tranh vũ trang.
Trong chiến tranh, NTQS vận dụng một cách sáng tạo quy luật của đấu tranh
vũ trang; nghiên cứu các quy luật, tính chất, đặc điểm của chiến tranh, của
đấu tranh vũ trang, xác định các nguyên tắc và phƣơng thức tiến hành đấu
tranh. NTQS gồm các mặt xây dựng quân (tổ chức và trang bị), luyện quân,
nuôi quân và dùng quân ở quy mô toàn cục. NTQS thể hiện ở chiến lƣợc, quy
mô một hƣớng chiến lƣợc, một hƣớng chiến trƣờng hoặc trên toàn chiến
trƣờng. NTQS thể hiện ở nghệ thuật chiến dịch ; thể hiện dƣới dạng chiến
thuật. Chiến lƣợc quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật quân sự là ba
bộ phận hợp thành của NTQS. Ở mỗi bộ phận bao gồm phần lí luận và phần
thực hành. Phần lí luận của từng bộ phận (mà có nƣớc còn gọi là chiến lƣợc
học, chiến dịch học, chiến thuật học) là đối tƣợng nghiên cứu của khoa học
quân sự. Phần thực hành là đối tƣợng và nhiệm vụ của ngƣời chỉ huy và cơ
quan tƣơng ứng. Sự phát triển của NTQS phụ thuộc vào truyền thống và đặc
điểm của dân tộc, điều kiện địa lí - chính trị của đất nƣớc, trình độ khoa học

16


và công nghệ của quốc gia.
1.4.2. Cơ sở thực tiễn
Theo Thƣợng tƣớng Hoàng Minh Thảo, nguyên Tƣ lệnh mặt trận Tây
Nguyên, "thế trận" chính là yếu tố quan trọng để đƣa đến thắng lợi lịch sử 304-1975, mà mở đầu là chiến thắng Buôn Ma Thuột. Trong bài viết “Thế trận
kỳ lạ của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975”, Thƣợng

tƣớng Hoàng Minh Thảo đã phân tích vì sao ta chọn Tây Nguyên làm hƣớng
chiến lƣợc mở màn của cả chiến cuộc. Vào cuối năm 1974, cách bố trí lực
lƣợng dài, mỏng và "mạnh hai đầu" của đối phƣơng đã bộc lộ nhiều sơ hở,
nhƣng chúng không có sự lựa chọn nào tối ƣu hơn. Nhƣng muốn phá thế trận
dài, mỏng và "mạnh hai đầu" của đối phƣơng, thì phải đánh vào đâu? Có thể
nói, không gì thuận lợi hơn bằng đánh vào Tây Nguyên. Thứ nhất, Tây
Nguyên có vị trí nhƣ chiếc đòn gánh nối liền hai đầu thế trận của đối phƣơng.
Đánh vào Tây Nguyên sẽ giống nhƣ ta bẻ chiếc đòn gánh, phá vỡ thế trận liên
hoàn, hai đầu khó tránh khỏi sụp đổ. Thứ hai, Tây Nguyên giữ một vị trí rất
quan trọng trong những thế trận ở Việt Nam và Đông Dƣơng nhƣng Mỹ Thiệu lại không tập trung nhiều lực lƣợng ở đây vì chúng cho đây không phải
điểm trọng yếu tiến công của ta. Hơn nữa, lực lƣợng quân sự của đối phƣơng
lại có hạn và chúng cho rằng lực lƣợng ấy đủ để giữ Tây Nguyên...
Phát hiện đƣợc điểm sơ hở này, ta đã có những hoạt động nghi binh làm
đối phƣơng khẳng định những phán đoán sai lầm của chúng là đúng và tiếp
tục duy trì thế trận bất lợi ấy.
Lúc bấy giờ, Tây Nguyên nhƣ chiếc áo giáp che chở cho đồng bằng miền
Trung. Mất Tây Nguyên, đồng bằng miền Trung sẽ bị hở sƣờn và cái thế bị ta
chia cắt chiến lƣợc sẽ không tránh khỏi. Tây Nguyên lại ở thế cao hơn đồng
bằng, giải phóng đƣợc Tây Nguyên, chúng ta sẽ tạo cho mình một thế mới,
thế “thác đổ”. Bộ Chính trị và các tƣớng lĩnh ta nhận định, nếu thế “thác đổ” ấy

17


của các binh đoàn từ Tây Nguyên tràn xuống kết hợp với thế “triều dâng” của
các cuộc tiến công nổi dậy ở đồng bằng thì khó kẻ địch nào có thể chống nổi.
Chắc chắn thế trận đối phƣơng sẽ bị tan vỡ rất nhanh, tạo nên cục diện mới.
Buôn Mê Thuột, trung tâm chính trị của Tây Nguyên, nơi đặt căn cứ của
sở chỉ huy sƣ đoàn 23 ngụy và là tỉnh lỵ của Dak Lak, đã đƣợc chọn làm điểm
đột phá chiến lƣợc mở đầu cho chiến dịch Tây Nguyên (và cả cuộc Tổng tiến

công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975). Đây là một “pháo đài” trong thế trận
của đối phƣơng, lại nằm sâu về phía Nam, nên quân ta phải khắc phục nhiều
khó khăn mới đánh đƣợc. Chiếm đƣợc Buôn Ma Thuột, ta nắm đƣợc địa bàn
chiến lƣợc cực kỳ quan trọng để phát triển về mọi hƣớng, chia cắt Tây
Nguyên với các vùng khác, chế ngự đƣợc đối phƣơng, giành quyền chủ động
cao hơn. Buôn Mê Thuột còn là biểu tƣợng về sự “ổn định” của chính quyền
ngụy ở Tây Nguyên và cả miền Nam.
Với nhận định ấy, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ƣơng thống nhất rằng
chiếm đƣợc Buôn Mê Thuột nhanh sẽ là điều kiện tiên quyết tiến lên giải
phóng toàn bộ Tây Nguyên và có thể tạo thời cơ lớn xuất hiện sớm, làm rung
chuyển thế trận trên toàn miền Nam.
Cùng với việc phá vỡ thế trận “mạnh hai đầu” của đối phƣơng, đòn điểm
huyệt của ta ở Tây Nguyên cùng các đòn sau này cũng đã đồng thời phá vỡ
thế trận phòng ngự diện rộng của địch trên phạm vi Tây Nguyên và trên toàn
miền Nam. Trong khi tiến công vào Buôn Mê Thuột cũng nhƣ ở Tây Nguyên,
ta đã đồng thời quét sạch toàn bộ bộ máy của chính quyền ngụy tại đây.
Chọn đúng hƣớng, điểm đúng huyệt là rất quan trọng, nhƣng hơn thế
nữa, trong chiến dịch này, ta đã tập trung đƣợc lực lƣợng lớn, tạo đƣợc lợi thế
lớn để giành đƣợc thắng lợi lớn nhanh, có lực và thế mạnh để phát triển thắng
lợi trên các hƣớng khác.Vào thời điểm đó, một mặt, ta bí mật tập trung lực
lƣợng, tạo ƣu thế về lực, khéo bố trí lực lƣợng, nghi binh kết hợp với địa hình

18


×