Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết sóng ở đáy sông của lê lựu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (872.19 KB, 57 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

PHÙNG THỊ HẠNH

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT
SÓNG Ở ĐÁY SÔNG CỦA LÊ LỰU

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI, 2019


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

PHÙNG THỊ HẠNH

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT
SÓNG Ở ĐÁY SÔNG CỦA LÊ LỰU
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

GVC - TS. LA NGUYỆT ANH

HÀ NỘI, 2019




LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới GVC - TS. La Nguyệt Anh, ngƣời
đã tận tình hƣớng dẫn, động viên và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt
thời gian nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, góp ý chân thành của các
thầy giáo, cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam cùng toàn thể các thầy cô trong
khoa Ngữ Văn đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện khóa
luận này.

Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Tác giả khóa luận

Phùng Thị Hạnh


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp Thế giới nghệ thuật trong tiểu
thuyết Sóng ở đáy sông của Lê Lựu là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi cùng với sự hỗ trợ tận tình của GVC - TS. La Nguyệt Anh cũng nhƣ các
thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của khóa luận này
không trùng với bất cứ kết quả nào từng công bố. Nếu sai, tôi xin chịu mọi
trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Tác giả khóa luận


Phùng Thị Hạnh


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................ 4
6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................. 5
7. Cấu trúc của khóa luận ............................................................................... 5
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ..................................................... 6
1.1. Giới thuyết về thế giới nghệ thuật ............................................................ 6
1.1.1. Khái niệm về thế giới nghệ thuật .......................................................... 6
1.1.2. Những phƣơng diện đặc trƣng trong thế giới nghệ thuật ....................... 7
1.2. Tác giả Lê Lựu ...................................................................................... 10
1.2.1. Cuộc đời ............................................................................................. 10
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác .............................................................................. 12
1.3. Vị trí của tiểu thuyết Sóng ở đáy sông trong văn học thời kì đổi mới ..... 13
CHƢƠNG 2. CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT
SÓNG Ở ĐÁY SÔNG.................................................................................... 16
2.1. Cốt truyện trong tiểu thuyết Sóng ở đáy sông ........................................ 16
2.1.1. Mô hình cốt truyện ............................................................................. 16
2.1.2. Cách tổ chức, sắp xếp các sự kiện....................................................... 18
2.2. Nhân vật trong tiểu thuyết Sóng ở đáy sông........................................... 21
2.2.1. Nhân vật bi kịch ................................................................................. 21
2.2.2. Nhân vật tha hóa ................................................................................. 24
2.2.3. Nhân vật lƣỡng hóa ............................................................................ 30

CHƢƠNG 3. THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG
TIỂU THUYẾT SÓNG Ở ĐÁY SÔNG ......................................................... 34


3.1. Thời gian nghệ thuật trong Sóng ở đáy sông .......................................... 34
3.1.1. Thời gian vật lý .................................................................................. 34
3.1.2. Thời gian tâm lý ................................................................................. 38
3.2. Không gian nghệ thuật trong Sóng ở đáy sông ....................................... 41
3.2.1. Không gian xã hội .............................................................................. 41
3.2.2. Không gian thiên nhiên....................................................................... 44
3.2.3. Không gian tâm lý .............................................................................. 47
KẾT LUẬN .................................................................................................. 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau đại thắng mùa Xuân (năm 1975), đất nƣớc ta đã khép lại thời kì
chiến tranh và mở ra một kỉ nguyên mới - kỉ nguyên đất nƣớc đƣợc thống
nhất độc lập, hai miền Nam Bắc cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Hòa vào không
khí tƣng bừng, phấn khởi đó, nền văn học cũng có những đổi mới để phù hợp
với thời đại. Nếu nhƣ nền văn học cách mạng Việt Nam trong suốt 30 năm (1945 1975) tập trung thực hiện nhiệm vụ phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu thì sau
năm 1975, văn học thời kì này cũng có sự thay đổi, hƣớng đến những vấn đề về
thế sự, về đời tƣ và sự thức tỉnh trong ý thức cá nhân của con ngƣời.
Đại hội đại biểu toàn quốc của lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(tháng 12/1986) đã đƣa đất nƣớc ta bƣớc vào thời kì hội nhập, đổi mới trên
toàn bộ các bình diện của đời sống chính trị, xã hội và văn hóa. Hòa chung
vào công cuộc đổi mới ấy, văn học cũng có sự thay đổi thay đổi về các
phƣơng diện đề tài, chủ đề, quan niệm nghệ thuật... Trong bối cảnh đổi mới
đó, chúng ta bắt gặp rất nhiều cây bút tài năng đã ghi lại chân thực bức tranh

về đời sống xã hội nhƣ Chu Lai, Bảo Ninh, Dƣơng Hƣớng, Nguyễn Khắc
Trƣờng... và đặc biệt phải kể đến Lê Lựu.
Lê Lựu là một trong những cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam thời
kì đổi mới. Tài năng của ông đƣợc thể hiện trên nhiều thể loại nhƣ: truyện
ngắn, kí, tiểu thuyết, tạp văn... Thế nhƣng, hành công hơn cả là ở thể loại tiểu
thuyết với những tác phẩm gây đƣợc tiếng vang nhƣ Thời xa vắng, Hai nhà,
Chuyện làng Cuội... trong đó tiêu biểu là Sóng ở đáy sông. Đây là một trong
những tiểu thuyết có ý nghĩa quan trọng đối với tiến trình đổi mới văn học.
Một trong những vấn đề có sức lôi cuốn, hấp dẫn trong tác phẩm này chính là
thế giới nghệ thuật.
Lựa chọn và nghiên cứu đề tài Thế giới nghệ thuật trong tiếu thuyết
Sóng ở đáy sông của Lê Lựu, chúng tôi mong muốn tiếp cận đến những
phƣơng diện đặc trƣng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng của nghệ thuật tiểu
thuyết, đó chính là vấn đề xây dựng cốt truyện, nhân vật, thời gian và không
1


gian nghệ thuật. Từ đó góp phần khẳng định đƣợc tài năng, vị thế của Lê Lựu
trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
Lê Lựu là cây bút trƣởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ
cứu nƣớc và cũng là tác giả đƣợc coi là “tiền trạm” cho nền văn xuôi Việt
Nam trong thời kì đổi mới. Đã có không ít những ý kiến nhận xét, đánh giá
khác nhau của các nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình văn học nghiên cứu, tìm
hiểu về Lê Lựu cũng nhƣ các tác phẩm của ông. Đặc biệt, qua các tác phẩm
của Lê Lựu, độc giả không chỉ hình dung đƣợc sự thay đổi của xã hội lúc bấy
giờ mà còn cảm nhận sâu sắc mọi biến chuyển của đời sống con ngƣời trong
thời đại.
Thể loại đầu tiên mà Lê Lựu sáng tác là truyện ngắn, độc giả biết đến
Lê Lựu với một số truyện ngắn nhƣ: Người cầm súng, Bến sông, Tết làng

Mụa, Người về đồng cói... Nhà phê bình Ngô Thảo trong bài viết Về truyện
ngắn Lê Lựu đã cho rằng “Lê Lựu là một ngƣời đang tìm tòi. Truyện nào của
anh cũng tìm đƣợc những nét tính cách mới, những hƣớng khai thác vấn đề
mới. Anh có năng lực quan sát khá nhạy bén, sắc sảo và một bút lực đủ sức
cắt rời đƣợc những mảnh đời bề bộn tƣơi nguyên vào trang sách, cái khả năng
rất đáng quý ở một cây bút trẻ” [7].
Hơi hƣớng của thể loại tiểu thuyết đã bắt dầu nhen nhóm từ những
truyện ngắn của Lê Lựu và không làm phụ lòng mong đợi của tất cả bạn đọc,
sau năm 1975, ông đã ra mắt độc giả nhiều cuốn tiếu thuyết gây ấn tƣợng trong
dƣ luận nhƣ: Mở rừng, Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Hai nhà, Sóng ở đáy
sông. Những tác phẩm đó đã góp phần làm cho văn học giai đoạn này thêm
phần hấp dẫn. Chính vì thế, Lê Hồng Lâm đã chỉ rõ: “Có những cuốn tiểu
thuyết nổi tiếng bởi tự thân nội dung đặc sắc của nó đi đƣợc vào mạch ngầm
tâm tƣ tình cảm của nhân vật (Thời xa vắng), cũng có những cuốn tiểu thuyết
nổi tiếng bởi... tai tiếng (Chuyện làng Cuội), lại có những tiểu thuyết khi lên
phim mới nổi đình nổi đám và kéo theo đó là tai bay vạ gió (Sóng ở đáy sông)”
[7, tr.708]. Nhƣ vậy, có thể thấy rằng Lê Lựu là một nhà văn rất giàu tâm huyết
với nghề, nhƣ Trần Đăng Khoa - ngƣời đồng hƣơng với ông từng nhận định:
“Văn Lê Lựu cuốn hút, đọc không nhạt. Ngay cả những truyện vào loại xoàng
2


xoàng, ngƣời đọc vẫn thu lƣợm đƣợc một cái gì đấy, có khi là một chi tiết, một
đoạn tả cảnh, hoặc một nét phác họa tính cách nhân vật” [7, tr.659].
Từ khi Sóng ở đáy sông ra mắt bạn đọc thì những bài viết, những công
trình nghiên cứu về tiểu thuyết này khá là ít ỏi, có thể chỉ đƣợc chú ý xem xét
ở một góc độ, một khía cạnh nào đấy qua các công trình nghiên cứu chung về
tiểu thuyết của Lê Lựu. Có thể kể đến một số luận văn nhƣ luận văn thạc sĩ
của tác giả Lê Thị Mến (Trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội) với tên gọi Thế
giới nghệ thuật tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới đã đi sâu nghiên cứu, tìm

hiểu các kiểu nhân vật và một số yếu tố nghệ thuật trong một vài tiểu thuyết
của Lê Lựu thời kì đổi mới, trong đó có lấy dẫn chứng về các kiểu nhân vật và
một vài phƣơng diện nghệ thuật trong tiểu thuyết Sóng ở đáy sông. Hay luận
văn của Đào Thị Cúc (Trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội) với tên gọi Không
gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới đã tìm
hiểu yếu tố không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật trong một số sáng tác
của Lê Lựu và có tìm hiểu về phƣơng diện không gian - thời gian nghệ thuật
đƣợc thể hiện trong Sóng ở đáy sông.
Những nghiên cứu của các tác giả đi trƣớc đã gợi ý cho chúng tôi tiến
hành đi sâu nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Sóng ở đáy
sông của Lê Lựu với mong muốn có cái nhìn toàn vẹn, sâu sắc hơn về thế giới
nghệ thuật, qua đó làm nổi bật đƣợc vị thế của Lê Lựu trong công cuộc đổi
mới văn học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khám phá những nét độc đáo, nổi bật về thế giới nghệ thuật trong tiểu
thuyết Sóng ở đáy sông của tác giả Lê Lựu.
Khẳng định đƣợc tài năng, vị thế của Lê Lựu trong nền văn học thời kì
đổi mới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu về thế giới nghệ thuật và các phƣơng diện tiêu biểu của thế
giới nghệ thuật nhƣ cốt truyện, nhân vật, không gian - thời gian nghệ thuật.
3


Khảo sát và phân tích đƣợc các phƣơng diện về cốt truyện, về nhân vật,
về không gian, thời gian của thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Sóng ở đáy
sông của Lê Lựu, từ đó có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về những đóng
góp to lớn của ông đối với nền văn học sau năm 1975.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu là Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Sóng ở
đáy sông của Lê Lựu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thế giới nghệ thuật là sự kết hợp của rất nhiều phƣơng diện. Tuy nhiên
trong phạm vi khóa luận này, chúng tôi chỉ tìm hiểu một số phƣơng diện đặc
trƣng trong thế giới nghệ thuật, đó là: cốt truyện; nhân vật; thời gian - không
gian nghệ thuật. Khi nghiên cứu về đề tài này, chúng tôi đã khảo sát trong tiểu
thuyết Sóng ở đáy sông, Lê Lựu (2017), Nhà xuất bản Thanh niên (tái bản lần
3) [8].
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành khóa luận này, chúng tôi đã sử dụng linh hoạt các
phƣơng pháp sau:
Phƣơng pháp lịch sử, xã hội: Xem xét tiểu thuyết Sóng ở đáy sông của
Lê Lựu khi đất nƣớc bƣớc vào công cuộc đổi mới để hiểu tại sao nhà văn lại
có sự chuyển hƣớng nghệ thuật độc đáo đó.
Phƣơng pháp thống kê, phân loại: Tiến hành thống kê, phân loại
những phƣơng diện đặc trƣng của thế giới nghệ thuật nhƣ cốt truyện, hệ
thống nhân vật, thời gian, không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Sóng ở
đáy sông của Lê Lựu.
Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: Sử dụng linh hoạt phƣơng pháp phân
tích, tổng hợp giúp chúng tôi làm rõ đƣợc những phƣơng diện tiêu biểu về thế
giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Sóng ở đáy sông, từ đó có thể rút ra đƣợc
những kết luận phù hợp nhất.
4


6. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận là công trình nghiên cứu những yếu tố khác nhau trong thế
giới nghệ thuật ở tiểu thuyết Sóng ở đáy sông của Lê Lựu. Qua đó góp phần

khẳng định sự thành công của nhà văn trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại.
7. Cấu trúc của khóa luận
Khóa luận gồm có: phần Mở đầu; phần Nội dung; phần Kết luận và tài
liệu tham khảo. Trong phần Nội dung đƣợc chúng tôi triển khai thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề chung
Chƣơng 2: Cốt truyện và nhân vật trong tiểu thuyết Sóng ở đáy sông
Chƣơng 3: Thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Sóng ở
đáy sông

5


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Giới thuyết về thế giới nghệ thuật
1.1.1. Khái niệm về thế giới nghệ thuật
Thế giới nghệ thuật là một thuật ngữ đƣợc nhiều nhà phê bình, nghiên
cứu đề cập trong nhiều tài liệu khác nhau.
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên đã định nghĩa thế giới nghệ thuật là “khái
niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình
tác phẩm, sáng tác của một tác giả, một trào lƣu). Thế giới nghệ thuật nhấn
mạnh rằng sáng tác nghệ thuật là một thế giới riêng, đƣợc tạo ra theo các
nguyên tắc tƣ tƣởng và nghệ thuật, khác với thế giới thực tại vật chất hay thế
giới tâm lý của con ngƣời, mặc dù là nó phản ánh các thế giới ấy. Thế giới
nghệ thuật có không gian riêng, thời gian riêng, có quy luật tâm lý riêng, có
quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị riêng... chỉ xuất
hiện một cách ƣớc lệ trong sáng tác nghệ thuật” [4, tr.244].
Giáo trình Lý luận văn học do Trần Đình Sử chủ biên cho rằng: “Thế

giới nghệ thuật là một thế giới kép: Thế giới đƣợc miêu tả và thế giới miêu tả.
Thế giới đƣợc miêu tả gồm nhân vật, sự kiện, cảnh vật... Thế giới miêu tả là
thế giới của ngƣời kể chuyện, ngƣời trữ tình. Hai thế giới này gắn kết không
tách rời nhƣ hai mặt của một tờ giấy. Không có thế giới miêu tả thì không có
thế giới đƣợc miêu tả và ngƣợc lại. Tuy nhiên, chúng không thể liên thông.
Ngƣời kể chuyện không thể trực tiếp tham gia vào sự kiện trong thế giới đƣợc
miêu tả nhƣ một nhân vật” [15, tr.82].
Nguyễn Đăng Mạnh lại khẳng định rằng “Thế giới nghệ thuật của nhà
văn hiểu theo đúng nghĩa của nó là một chỉnh thể, đã là một chỉnh thể tất phải
có cấu trúc nội tại theo nguyên tắc thống nhất, cũng có nghĩa là quan hệ nội
tại giữa các yếu tố phải có tính quy luật” [10, tr.23].
Nhƣ vậy, qua các định nghĩa trên, chúng tôi rút ra cách hiểu về thế giới
nghệ thuật nhƣ sau: Thế giới nghệ thuật là thế giới riêng đƣợc ngƣời nghệ sĩ
6


sáng tạo ra trong các tác phẩm nghệ thuật theo một hệ thống, nguyên tắc tƣ
tƣởng - thẩm mỹ nhất định. Thế giới ấy bao gồm nhiều yếu tố nhƣ nhân vật,
cốt truyện, ngôn từ, giọng điệu... Quan điểm trên về thế giới nghệ thuật cũng
chính là cơ sở để cho chúng tôi có thể đi tìm hiểu, phân tích những phƣơng
diện đặc trƣng trong thế giới nghệ thuật đƣợc biểu hiện cụ thể trong tiểu
thuyết Sóng ở đáy sông của Lê Lựu.
1.1.2. Những phương diện đặc trưng trong thế giới nghệ thuật
Thế giới nghệ thuật đƣợc tạo nên bao gồm rất nhiều yếu tố, trong đó
tiêu biểu nhất là các yếu tố nhƣ: cốt truyện; nhân vật; thời gian và không gian
nghệ thuật.
1.1.2.1. Cốt truyện
Cốt truyện cũng một trong những yếu tố quan trọng của thế giới nghệ
thuật. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau đƣợc các nhà nghiên cứu văn học
đƣa ra.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì: “Cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ
thể đƣợc tổ chức theo yêu cầu tƣ tƣởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ
phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học
thuộc các loại tự sự và kịch” [4, tr.85].
Trong cuốn Lí luận văn học, giáo sƣ Hà Minh Đức cho rằng: “Cốt
truyện là một hệ thống các tình tiết, sự kiện, biến cố phản ánh những diễn
biến của cuộc sống và nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó
các nhân vật, các tính cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ
qua lại của chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đề và tƣ tƣởng tác phẩm” [3, tr.173].
Nhƣ vậy cốt truyện chính là một chuỗi các sự kiện đƣợc sắp xếp theo
chủ ý của ngƣời sáng tác nhằm biểu đạt những tƣ tƣởng, những chủ đề mà
ngƣời viết muốn gửi gắm. Nó là một trong những phƣơng tiện để tác giả phản
ánh rõ nét về cuộc đời của nhân vật và tái hiện lại các xung đột xảy ra trong
xã hội. Vì thế, cốt truyện có vai trò rất lớn trong việc xây dựng các biến cố,
các sự kiện thành một hệ thống để làm nổi bật đƣợc chủ đề cũng nhƣ tƣ tƣởng
tồn tại trong các sáng tác của nhà văn. Năm thành phần cơ bản của cốt truyện
bao gồm phần trình bày, phần thắt nút, phần phát triển, phần cao trào và phần
mở nút. Cần phải lƣu ý rằng không phải tác phẩm nào cũng có cốt truyện đầy
7


đủ các thành phần nhƣ trên. Vì vậy, cần tránh đi sâu phân tích một cách máy
móc các thành phần đó.
1.1.2.2. Nhân vật
Đƣợc coi là công cụ để các nhà văn tạo nên thế giới nghệ thuật, cho nên
nhân vật là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu trong tác phẩm văn
học. Bàn về nhân vật trong văn học, các nhà nghiên cứu, lý luận đã đƣa ra rất
nhiều định nghĩa khác nhau.
Trong giáo trình Lý luận văn học do tác giả Phƣơng Lựu chủ biên đã đƣa ra
định nghĩa về nhân vật: “Nói đến nhân vật văn học là nói đến con ngƣời đƣợc

miêu tả, thể hiện trong tác phẩm, bằng phƣơng tiện văn học” [9, tr.277].
Tác giả Lại Nguyên Ân trong cuốn 150 thuật ngữ văn học đã đƣa ra
quan niệm về nhân vật văn học nhƣ sau: “Nhân vật văn học là một trong những
khái niệm trung tâm để xem xét sáng tác của một nhà văn, một khuynh hƣớng,
trƣờng phái hoặc dòng phong cách. Nhân vật văn học là hình tƣợng nghệ thuật
về con ngƣời, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con ngƣời
trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con ngƣời, nhân vật văn học có khi còn là
các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đƣờng đƣợc gán cho những đặc
điểm giống con ngƣời” [1, tr.241]. Trong quan niệm này, Lại Nguyên Ân đã
xem xét nhân vật trong mối quan hệ với các khuynh hƣớng văn học, với các
sáng tác, cá tính sáng tạo... của nhà văn. Ngoài ra, ông còn chỉ ra đƣợc một số
đối tƣợng khác có thể trở thành nhân vật văn học nhƣ con vật hay loài cây...
Nhƣ vậy, nhân vật chính là hình tƣợng để tác giả gửi gắm cái nhìn của
mình. Nhân vật văn học không chỉ là con ngƣời mà nó có thể là những sự vật,
hiện tƣợng, mang những nét giống nhƣ chính con ngƣời, là hình ảnh ƣớc lệ
của con ngƣời.
1.1.2.3. Thời gian nghệ thuật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học do các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình
Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) thì thời gian nghệ thuật là: “hình thức
nội tại của hình tƣợng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó... Và cái đƣợc
trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, đƣợc biết qua thời gian trần
thuật. Sự phối hợp của hai yếu tố thời gian này tạo thành thời gian nghệ thuật,
8


một hiện tƣợng ƣớc lệ, chỉ có trong thế giới nghệ thuật. Khác với thời gian
khách quan đƣợc đo bằng đồng hồ và lịch, thời gian nghệ thuật có thể đảo
ngƣợc, quay về quá khứ, có thể bay vƣợt tới tƣơng lai xa xôi, có thể dồn nén
một khoảng thời gian dài trong chốc lát, lại có thể kéo dài cái chốc lát thành
vô tận” [4, tr.264].

Trong Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, giáo sƣ Trần Đình Sử cho
rằng: “thời gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật, thể hiện
phƣơng thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Nếu thế giới thực tại
chỉ tồn tại trong không gian và thời gian, thì cũng nhƣ thế, thế giới nghệ thuật
chỉ tồn tại trong không gian và thời gian nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật là cái
thời gian đƣợc cảm nhận bằng tâm lý, qua chuỗi liên tục các biến đổi (biến cố)
có ý nghĩa thẩm mỹ xảy ra trong thế giới nghệ thuật. Là thời gian đƣợc cảm
nhận bằng tâm lý và mang ý nghĩa thẩm mỹ nên thời gian nghệ thuật khác với
thời gian khách quan đo bằng lịch và đồng hồ, nó có thể đảo ngƣợc, từ hiện
tại hồi tƣởng lại quá khứ” [14, tr.62].
Đ.X Likhachop quan niệm về thời gian nghệ thuật nhƣ sau: “Thời gian
vừa là khách thể vừa là chủ thể và đồng thời là công cụ phản ánh văn học.
Văn học ngày càng thấm nhuần ý thức và cảm giác về sự vận động của thế
giới trong hình thức hết sức đa dạng của thời gian” [5, tr.37].
Nhƣ vậy, các nhà nghiên cứu, phê bình đều đƣa ra những quan niệm
khác nhau về thời gian nghệ thuật nhƣng đều cho rằng: Thời gian nghệ thuật là
một trong những phƣơng diện để tạo nên thế giới nghệ thuật. Thời gian nghệ
thuật là sự sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ khi họ xây dựng tác phẩm nên nó thƣờng
mang tính chủ quan, đƣợc cảm nhận qua tâm lý. Chính vì vậy, thời gian nghệ
thuật phụ thuộc vào cách nhìn nhận, đánh giá của chính tác giả về cuộc sống,
về con ngƣời, nó có thể không trùng khít với thời gian tồn tại ở trong thực tế.
Thời gian nghệ thuật có cấu trúc riêng nên có thể phân chia thành nhiều
loại, nhiều kiểu khác nhau. Trong đó, giáo sƣ Trần Đình Sử là ngƣời có cách
chia hợp lý nhất, đó là chia thời gian nghệ thuật thành 2 loại: thời gian trần
thuật và thời gian đƣợc trần thuật. Thời gian trần thuật “là thời gian của ngƣời
kể, của sự kể.” [11, tr.65]. Thời gian đƣợc trần thuật “là thời gian của sự kiện
đƣợc nói tới” [11, tr.66].
9



1.1.2.4. Không gian nghệ thuật
Cũng giống nhƣ thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật là một
trong những phƣơng thức tồn tại của thế giới nghệ thuật.
Trong Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Trần Đình Sử cho rằng:
“Không gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật, là phƣơng thức
tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Nếu thế giới nghệ thuật là thế giới
của cái nhìn và mang ý nghĩa thì không gian nghệ thuật là trƣờng nhìn mở ra
từ một điểm nhìn, cách nhìn... Do gắn với điểm nhìn, trƣờng nhìn, môi trƣờng
hoạt động, không gian nghệ thuật trở thành phƣơng tiện chiếm lĩnh đời sống,
đồng thời do gắn với ý nghĩa, giá trị không gian trở thành ngôn ngữ, biểu
trƣng nghệ thuật” [14, tr.42-43].
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả đã định nghĩa:
“Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tƣợng nghệ thuật, thể
hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ
cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong trƣờng nghĩa nhất định, qua đó
thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ toàn bộ quảng tính của nó: cái này
bên cạnh cái kia, liên tục, cách quãng, tiếp nối, cao, thấp, xa, gần, rộng, dài,
tạo thành viễn cảnh nghệ thuật. Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về
không gian, nên mang tính chủ quan, ngoài không gian vật thể, có không gian
tâm tƣởng” [4, tr.134-135].
Nhƣ vậy, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về không gian nghệ thuật
nhƣng các định nghĩa ấy đều có thống nhất rằng: không gian nghệ thuật là
không gian mà nhà văn kiến tạo theo quan niệm riêng của bản thân nên không
đồng nhất cùng với không gian trong thực tế. Cho nên, khi đi vào tìm hiểu
không gian nghệ thuật cần khám phá cả không gian vật lý và không gian tâm
lý để thấy đƣợc sự sáng tạo của tác giả.
1.2. Tác giả Lê Lựu
1.2.1. Cuộc đời
Lê Lựu sinh vào ngày 12 tháng 12 năm 1942 tại một làng ngoại đê sông
Hồng thuộc thôn Mẫn Hòa, xã Tân Châu, huyện Khoái Châu, Tỉnh Hƣng


10


Yên. Ông sinh trƣởng trong một gia đình nhà Nho nghèo, lại rất đông con (có
tám ngƣời con nhƣng chỉ nuôi đƣợc ba). Lê Lựu từ nhỏ đã sớm gắn bó với
vùng đồng đất nghèo đói, khó khăn. Vì hai vụ lúa không đủ để nuôi sống con
ngƣời nên họ phải trồng thêm củ đao, củ đót để chống lại cái đói vào tháng
ba. Trong dân gian có câu “Oai oái nhƣ phủ Khoái xin ăn” phần nào giúp ta
hình dung cảnh làng quê nghèo đói nơi đây.
Đầu năm 1960, Lê Lựu rời ghế nhà trƣờng, bƣớc chân vào môi trƣờng
trong quân đội. Lúc đó phong trào “Ba nhất” bao gồm: nhất về huấn luyện
quân sự, rèn luyện, kỹ thuật; nhất về mặt gƣơng mẫu, kỷ luật; nhất về lao
động và sản xuất đang trong giai đoạn hừng hực khí thế. Từ một cậu bé ở
vùng quê xa phủ, xa huyện nay đã đƣợc hòa mình vào không khí sôi nổi thi
đua của công - nông binh ở miền Bắc, nhà văn cảm thấy rất vui mừng và hăng
hái, nhiệt tình tham gia.
Lúc đầu, Lê Lựu nhập ngũ vào Quân khu III, sau đó làm báo và viết
văn. Ở đây, ông làm phóng viên báo và công tác tại mặt trận thuộc đƣờng dây
559 ở Trƣờng Sơn. Đến năm 1979, ông chuyển về làm việc ở tòa soạn của tạp
chí Văn nghệ Quân đội. Vào thời gian này, Lê Lựu không chỉ làm những công
việc của một biên tập viên văn xuôi, thƣ kí cho tòa soạn mà ông còn sáng tác
nhiều tác phẩm có giá trị. Hiện nay, ông đang đảm nhiệm chức vụ giám đốc
Trung tâm Văn hóa Doanh nhân Việt Nam tại Hà Nội, đồng thời là Tổng biên
tập Tạp chí Văn Hóa Doanh nhân Việt Nam.
Ngày 25 tháng 2 năm 2014, Lê Lựu thành lập nên Quỹ nhà văn Lê Lựu.
Đó là quỹ văn học tƣ nhân đầu tiên đƣợc thành lập khi lấy tên của một nhà
văn vẫn còn sống để đặt tên cho quỹ. Đây là một trong các quỹ xã hội thành
lập ra không vì lợi nhuận mà nhằm khích lệ, động viên các cá nhân, tổ chức
có tác phẩm văn học xuất sắc ở các đề tài về doanh nhân, doanh nghiệp và

nông nghiệp, nông thôn thời kì đổi mới.
Tuy là một trong những ngƣời mang quân hàm đại tá, thế nhƣng trong
cuộc sống đời thƣờng, Lê Lựu lại là một ngƣời sống giản dị, gần gũi, thân
thiện với tất cả mọi ngƣời. Điều này đã phần nào giúp Lê Lựu tạo nên những
trang viết có giá trị trong sự nghiệp sáng tác văn chƣơng.
11


1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
Trong lúc còn là chàng lính trẻ vinh dự khi đƣợc đứng vào hàng ngũ
chiến đấu, Lê Lựu đã cầm bút để sáng tác. Bƣớc chân vào làng văn, ngƣời đọc
biết đến ông với tƣ cách là cây bút sáng tác truyện ngắn. Năm 1964, ông đã
trình làng tác phẩm đầu tay thuộc thể loại truyện ngắn mang tên Tết làng
Mụa. Sau đó, ông tiếp tục cho ra mắt nhiều truyện ngắn khác đƣợc đăng trên
bán Văn nghệ và tạp chí Văn nghệ Quân đội nhƣ: Trong làng nhỏ, Người ở
lại hậu phương, Người cầm súng... Đặc biệt trong số đó, truyện ngắn Người
cầm súng đã giành giải nhì trong hội thi Truyện ngắn do báo Văn nghệ tổ
chức vào những năm 1967 - 1968. Tiếp nối mạch cảm xúc đó, Lê Lựu tiếp tục
cho trình làng các truyện khác nhƣ: Phía trước mặt trời, Truyện kể từ đêm
hôm trước, Người về đồng cói. Trong đó, tác phẩm Người về đồng cói là
truyện ngắn đƣợc nhận giải A trong cuộc thi viết về thƣơng binh do Bộ Lao
động Thƣơng binh và Xã hội tổ chức. Sau đó, truyện ngắn này còn đƣợc nữ
đạo diễn Bạch Diệp dựng thành phim điện ảnh cùng tên. Trần Đăng Khoa đã
đƣa ra lời đánh giá rằng đến tác phẩm Người về đồng cói thì văn của ông đã
bắt đầu có hơi hƣớng của tiểu thuyết, độc giả biết rằng Lê Lựu sẽ là một trong
những nhà tiểu thuyết có tài.
Không làm uổng công mong đợi của ngƣời đọc, năm 1972, nhà văn Lê
Lựu khởi hành lên Trƣờng Sơn và bắt đầu viết tiểu thuyết đầu tay có tên Mở
rừng, đánh dấu sự xuất hiện của ông trong làng tiểu thuyết Việt Nam. Sau Mở
rừng là tiểu thuyết Ranh giới, viết khi Lê Lựu vào Sài Gòn. Hai cuốn tiểu thuyết

này đều xoay quanh các đề tài về chiến tranh và ngƣời lính trong kháng chiến.
Bƣớc vào thời kì đổi mới, Lê Lựu đã cảm nhận một cách rõ nét những
vấn đề đang nảy sinh trong cuộc sống xã hội đời thƣờng, vì vậy, những sáng
tác của ông trong giai đoạn này đã có sự chuyển biến. Năm 1986, Lê Lựu ra
mắt độc giả tiểu thuyết Thời xa vắng gây đƣợc tiếng vang lớn, chứa đựng
trong đó một dung lƣợng lớn về hiện thực xã hội, là chặng đƣờng lịch sử sau
khi cách mạng thành công đến đầu những năm tám mƣơi của thế kỷ XX. Thời
xa vắng không chỉ vinh dự nhận giải A của Hội nhà văn Việt Nam mà còn
dựng thành phim cùng tên đƣợc đánh giá cao. Sau Thời xa vắng, tác giả tiếp
tục trình làng các tiểu thuyết khác nhƣ Đại tá không biết đùa (1990), Chuyện
12


làng Cuội (1993). Đến năm 1994, Lê Lựu cho ra đời cuốn tiểu thuyết mang
tên Sóng ở đáy sông. Đây là một trong những cuốn tiểu thuyết thành công của
Lê Lựu khi nhận đƣợc rất nhiều cảm tình của cả độc giả lẫn khán giả xem
truyền hình. Sau đó nhà văn tiếp tục trình làng tiểu thuyết Hai nhà đƣợc sáng
tác năm 2003. Đây là cuốn tiểu thuyết mới nhất của tác giả đƣợc dƣ luận chú
ý và đánh giá cao. Họ đã dành rất nhiều số báo Văn nghệ để đăng các bài
nghiên cứu, bình luận về cuốn tiểu thuyết ấy.
Ngoài các tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, Lê Lựu
còn sáng tác hai tác phẩm thuộc thể loại kí gây đƣợc tiếng vang trên văn đàn,
đó là Một thời lần lỗi (1988) và Trở lại nước Mỹ (1989).
Với gần 40 năm cầm bút cùng với sự say mê, nhiệt huyết, Lê Lựu đã
đem đến nhiều tác phẩm có giá trị, nhất là ở thể loại tiểu thuyết. Điều đó
không chỉ khẳng định đƣợc vị trí của ông trong nền văn học dân tộc mà nó
còn khẳng định đƣợc dấu ấn trong trái tim mỗi ngƣời đọc. Với sự đóng góp to
lớn ấy, Lê Lựu xứng đáng đƣợc coi là ngƣời “mở đƣờng” trong công cuộc đổi
mới diện mạo văn học Việt Nam.
1.3. Vị trí của tiểu thuyết Sóng ở đáy sông trong văn học thời kì đổi mới

Lê Lựu là một trong số những cây bút có đóng góp đáng kể trong nền
văn học nƣớc nhà. Đinh Quang Tốn đƣa ra nhận định: “Nếu trong tổng số sáu
mƣơi hội viên Hội nhà văn Việt Nam, cứ mƣời ngƣời chọn lấy một ngƣời tiêu
biểu thì Lê Lựu là một trong số sáu mƣơi nhà văn ấy” [7, tr.663]. Suốt cuộc
đời lao động nghệ thuật, với những nỗ lực không biết mệt mỏi, Lê Lựu đã
dùng ngòi bút của mình để tạo nên những tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác
nhau nhƣ truyện ngắn, tiểu thuyết, kí... Sự cống hiến đó đã đƣa Lê Lựu trở
thành cây bút xuất sắc, khơi nguồn cảm hứng cho tiểu thuyết trong thời kì đổi
mới. Sự sáng tạo của ông đƣợc thể hiện ở nhiều tác phẩm, trong đó có tiểu
thuyết Sóng ở đáy sông.
Sau các tiểu thuyết Thời xa vắng (1986); Đại tá không biết đùa (1990);
Chuyện làng Cuội (1993) ra mắt bạn đọc thì đến năm 1994, Lê Lựu cho ra đời
cuốn tiểu thuyết tiếp theo mang tên Sóng ở đáy sông. Đây đƣợc coi là tác
phẩm có ý nghĩa quan trọng, đƣợc công chúng đánh giá cao, góp phần khẳng
định vị thế của Lê Lựu trong nền văn học trong thời kì đổi mới.
13


Đƣợc chuyển thể dựa vào cuốn tiểu thuyết cùng tên của tác giả Lê Lựu,
mƣời tập phim truyền hình mang tên Sóng ở đáy sông do Lê Đức Tiến làm
đạo diễn và tác giả Lê Lựu đứng ra viết kịch bản đã thu hút một số lƣợng lớn
khán giả xem truyền hình theo dõi. Bộ phim đƣợc sản xuất năm 1998 - 1999
và khởi chiếu năm 2000, đƣợc Đài truyền hình Việt Nam phát sóng độc quyền
suốt cả tháng. Không chỉ thu hút sự quan tâm của độc giả văn học mà Sóng ở
đáy sông còn thu hút đƣợc nhiều sự quan tâm của khán giả xem truyền hình.
Sóng ở đáy sông viết về số phận và cuộc đời của nhân vật chính có tên
Phạm Quang Núi - một ngƣời con trai sinh ra ở đất Cảng. Vì là con của ngƣời
vợ lẽ từng làm ngƣời ở cho gia đình nên mấy mẹ con anh luôn bị mọi ngƣời
trong nhà bắt nạt, bị ghẻ lạnh, coi thƣờng. Chiến tranh nổ ra, bốn anh em Núi
phải sơ tán về quê ngoại. Khi về đây, anh vừa phải lo chăm sóc cho các em lại

vừa lo làm việc và đi học. Tuy khó khăn, thiếu thốn nhƣng anh vẫn học rất
giỏi, đƣợc tất cả mọi ngƣời xung quanh yêu quý. Mảnh đất này đã giúp Núi
có đƣợc tình yêu đầu đời với ngƣời con gái tên Hiền. Thế nhƣng, vì có quan
hệ họ hàng tới “tám đời” mà hai ngƣời bị ngăn cấm và phải rời xa nhau. Đau
khổ vì tình yêu chƣa qua thì mẹ mất, bố lại cắt một phần trợ cấp của bốn anh
em khiến Núi phải bỏ học, đi bốc hàng ở ga tàu lấy tiền nuôi các em. Đƣợc
một thời gian thì Núi bị bắt oan, công an gọi bố anh lên nhận con, thế nhƣng
ông bố ấy lại tàn nhẫn viết đơn từ bỏ con ngay tại phòng công an. Vì bị cha
đuổi đi, lại không có nơi nƣơng tựa, tá túc nên quá túng quẫn, Núi đã lao vào
con đƣờng trộm cắp, ra tù vào tù nhiều lần. Khi có mong muốn thoát khỏi
cảnh tù tội để làm lại cuộc đời, xây dựng một gia đình nhỏ thì Núi lại gặp một
ngƣời phụ nữ giang hồ tên Mai. Hai ngƣời về sống với nhau nhƣ vợ chồng
đƣợc một thời gian thì Mai nói dối anh về quê ngoại thăm bố mẹ rồi bỏ đi
theo ngƣời con trai khác. Trong lúc Mai bỏ đi, Núi đã vô tình gặp lại bạn của
Hiền ngày xƣa tên là Hồng sau đó đƣợc cô cƣu mang, hết lòng chăm sóc. Hai
ngƣời góp vốn cùng nhau buôn bán đủ các mặt hàng ở chợ gần nhà. Đang
cùng nhau sống trong những tháng ngày tƣơi đẹp của cuộc đời thì Mai ẵm đứa
con cùng hai ngƣời khác về đánh đập, sỉ nhục Hồng trƣớc mặt bà con khu phố
để rồi vì xấu hổ nên cô phải bỏ đi. Không lâu sau đó, Mai lại tiếp tục bỏ Núi
và đứa con mới đẻ để đi theo ngƣời đàn ông khác. Vì hoàn cảnh xô đẩy, Núi
14


lại tiếp tục lao vào con đƣờng ăn trộm ăn cắp để có tiền nuôi con. Sau một lần
ăn cắp để có tiền về quê buôn bán, Núi đã bị công an bắt và chịu mức án 64
tháng tù giam. Ở trong nhà tù, vì thƣơng con, vì nhận đƣợc sự giúp đỡ của
mọi ngƣời nên Núi đã quyết tâm làm lại từ đầu, tu chí học nghề mộc để nuôi
con. Khi gặp lại Hiền và đứa con trai, anh càng quyết tâm hoàn lƣơng và rồi
không uổng công cố gắng, Núi đã trở thành một ông chủ của một xƣởng mộc
với ba mƣơi ba công nhân.

Với tiểu thuyết Sóng ở đáy sông, tác giả Lê Lựu đã dùng ngòi bút của
mình để làm nổi bật lên sự thay đổi về hiện thực cuộc sống đang diễn ra trong
xã hội, kéo theo đó là sự thay đổi của con ngƣời trong thời kì đổi mới. Đặc
biệt trong đó, thế giới nghệ thuật của cuốn tiểu thuyết đã góp phần không nhỏ
vào việc làm sáng tỏ những thay đổi ấy. Từ đó giúp ta có cái nhìn đầy đủ nhất
về cuộc sống và con ngƣời khi đất nƣớc đổi mới và đang trên đà phát triển.

15


CHƢƠNG 2
CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT
TRONG TIỂU THUYẾT SÓNG Ở ĐÁY SÔNG
2.1. Cốt truyện trong tiểu thuyết Sóng ở đáy sông
Cốt truyện là một trong những yếu tố không thể thiếu đƣợc khi nhà văn
sáng tác. Một cuốn tiểu thuyết có cốt truyện lôi cuốn giúp cho tƣ tƣởng, chủ
đề của tác phẩm có sức thuyết phục hơn. Đúng nhƣ lời nhận xét của
Maugham - một tác giả ngƣời Anh cho rằng: “Nhà văn sống bằng cốt truyện,
y nhƣ họa sĩ sống bằng màu và bút vẽ vậy” [2, tr.16]. Điều này chứng tỏ việc
sáng tạo cốt truyện là yếu tố chính để cho thấy thành công của tác phẩm.
Trong dòng tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới, Lê Lựu là một trong những
nhà văn có ý thức sáng tạo cốt truyện đặc sắc, hấp dẫn. Ông đã cho thấy sự
sáng tạo ấy qua nhiều tiểu thuyết, trong đó có tiểu thuyết Sóng ở đáy sông. Để
làm nổi bật đƣợc điều đó, chúng tôi đi tìm hiểu mô hình cốt truyện và cách tổ
chức, sắp xếp các sự kiện trong tiểu thuyết Sóng ở đáy sông.
2.1.1. Mô hình cốt truyện
Trong tác phẩm tự sự, nhất là thể loại tiểu thuyết, cốt truyện có một ý
nghĩa đặc biệt quan trọng để nhà văn có thể gửi gắm tƣ tƣởng, chủ đề và tạo
nên sự hấp dẫn cho tác phẩm. Trong văn học thời kì đổi mới, các nhà văn lựa
chọn xây dựng cốt truyện theo nhiều cách thức, mô hình khác nhau, từ đó làm

cho cốt truyện thêm phần phong phú, hấp dẫn bạn đọc. Lê Lựu cũng là một
trong số những tác giả có nhiều cách tân, đổi mới trong việc xây dựng mô
hình cốt truyện độc đáo đƣợc độc giả quan tâm.
Nếu trong tiểu thuyết Thời xa vắng, Lê Lựu xây dựng cốt truyện mang
tính truyền thống, gắn với những sự kiện, biến cố trong cuộc đời của nhân vật
chính có tên Giang Minh Sài và đƣợc triển khai theo trình tự thời gian khách
quan thì đến tiểu thuyết Chuyện làng Cuội và nhất là khi tiểu thuyết Sóng ở
đáy sông ra đời, Lê Lựu đã có sự đổi mới trong việc tạo dựng mô hình cốt
truyện. Tác giả đã xây dựng nên cốt truyện gắn với sự vận động diễn ra ở bên
trong tâm lý của nhân vật trong tác phẩm. Cuốn tiểu thuyết này giống nhƣ bộ
16


hồ sơ của một phạm nhân đƣợc lật giở một cách cụ thể với từng sự kiện, chi
tiết gắn với từng dấu mốc trong cuộc đời dẫn đến hành vi phạm tội của nhân
vật. Từ đó có thể hiểu rõ hơn về nguyên nhân tại sao nhân vật lại lâm vào con
đƣờng tù tội. Với tiểu thuyết Sóng ở đáy sông, Lê Lựu đã sáng tạo nên một
mô hình cốt truyện theo dòng hồi ức của nhân vật trong tác phẩm để tìm hiểu
lý do tại sao bản thân nhân vật lại “nghiện” quần áo tù, tại sao nhân vật lại có
đƣợc nghề nghiệp lƣơng thiện nhƣ bây giờ. Cốt truyện ấy xoay quanh những
kí ức khi nhớ lại về gia đình, về những biến cố xảy ra trong cuộc đời của nhân
vật chính có tên Phạm Quang Núi. Anh đã phải trải qua rất nhiều biến cố
trong cuộc đời, đã từng vào tù ra tội không biết bao nhiêu lần để có thể trở
thành ông chủ của xƣởng mộc với rất nhiều công nhân nhƣ hiện tại. Theo
dòng cảm xúc của nhân vật, Lê Lựu đã để cho chính nhân vật nhớ lại khoảng
thời gian diễn ra trong quá khứ gắn liền với những đau thƣơng, mất mát rồi
sau đó bắt đầu kể lại những diễn biến đã xảy ra một cách chi tiết để ngƣời đọc
có thể đồng cảm với nhân vật. Từ đó có thể lý giải đƣợc việc nhân vật lại
“nghiện” áo tù đến nhƣ vậy.
Kết thúc cuốn tiểu thuyết, Lê Lựu đã đƣa bạn đọc trở về với hiện tại

cùng với những suy tƣ, chiêm nghiệm của của chính nhân vật Núi. Sau tất cả
những biến cố đã xảy ra, anh tự nhận ra rằng: “Nếu nhƣ ngƣời ta biết rằng
dƣới đáy sông Lấp vẫn còn có hai dòng nƣớc chảy ra của sông Cấm. Sự lên,
xuống của con nƣớc, sự rào rạt của sóng vỗ cũng từ đáy sông mà tạo nên. Nếu
ngƣời ta biết biết là lấp sông vẫn còn nƣớc chảy, còn sóng vỗ, thì hàng trăm
năm trƣớc ngƣời ta lấp sông làm gì?” [8, tr.302]. Đây cũng chính là dụng ý
của tác giả muốn gửi đến ngƣời đọc, đó là trong cuộc sống, có những điều họ
cứ nghĩ nó là sự thật, nhƣng đến cuối đời, họ vẫn không thể chấp nhận đƣợc
sự thật, không thể ngờ rằng giọt máu ruột thịt mà lâu nay họ đã từng đoạn
tuyệt, đã từng dứt bỏ lại là ngƣời có tấm lòng vị tha, bao dung đến vậy. Sự
quan tâm, chăm sóc từ những ngƣời xa lạ mà bản thân họ nhận đƣợc trong lúc
ốm đau bệnh tật lại chính là từ ngƣời mà họ đã từng nhẫn tâm đoạn tuyệt.
Nhƣ vậy, có thể nhận thấy trong tiểu thuyết Sóng ở đáy sông, Lê Lựu
đã tạo dựng đƣợc một mô hình cốt truyện mới lạ, hấp dẫn dựa vào những sự
kiện diễn ra bên trong thế giới nội tâm của nhân vật, đƣợc nhân vật nhớ và kể
17


lại một cách chi tiết, sinh động, từ đó thu hút đƣợc số lƣợng đông đảo độc giả
quan tâm, chú ý. Mô hình cốt truyện theo dòng hồi tƣởng của nhân vật trong
cuốn tiểu thuyết không chỉ làm nổi bật tính cách của nhân vật mà phần nào
còn tạo nên đƣợc phong cách đặc biệt đối với tác giả, ngƣời đƣợc coi là “tiền
trạm” cho văn học thời kì đổi mới.
2.1.2. Cách tổ chức, sắp xếp các sự kiện
Với việc xây dựng cốt truyện theo dòng hồi tƣởng của nhân vật, nhà
văn đã khắc họa một cách rõ nét sự thay đổi giữa quá khứ và hiện tại của
nhân vật theo chiều hƣớng tích cực. Cốt truyện trong tiểu thuyết Sóng ở đáy
sông đƣợc Lê Lựu xây dựng bằng một hệ thống các chi tiết, sự kiện đƣợc tổ
chức và sắp xếp một cách hợp lý, sinh động. Nó không chỉ xuất hiện ngay
trên bề mặt câu chữ mà còn ẩn sâu trong mạch ngầm của tác phẩm, giống

nhƣ tảng băng chìm ở dƣới đáy, đòi hỏi ngƣời đọc phải tự mình vận dụng
hiểu biết và kinh nghiệm để khám phá đƣợc thông điệp mà tác giả gửi gắm.
Nhờ cách tổ chức ấy mà hình tƣợng nhân vật đƣợc hiện lên cụ thể và hấp
dẫn hơn.
Trong Sóng ở đáy sông, Lê Lựu không xây dựng cốt truyện theo trật tự
thời gian nhất định nhƣ nhiều tác giả khác mà thay vào đó, cốt truyện trong tiểu
thuyết này đƣợc ông sáng tạo theo dòng kí ức của nhân vật. Tức là ông để cho
chính bản thân nhân vật nhớ lại và kể lại cuộc đời của mình từ hiện tại ngƣợc
về quá khứ. Chính vì vậy, ở những dòng đầu của cuốn tiểu thuyết, Lê Lựu đã
để cho nhân vật chính nhắc đến cuộc sống ở hiện tại: “Bây giờ hắn đã là một
ông chủ. Ông chủ nghề mộc của 33 ngƣời hoặc đang ở tù, hặc sắp hết hạn, hoặc
là con cháu của bạn tù. Ông chủ đã đƣợc tự do nhƣng vẫn mặc áo tù...” [8, tr.1].
Để hiểu tại sao ông chủ xƣởng mộc ấy lại “nghiện” áo tù đến nhƣ vậy
thì tác giả đã để Núi đi theo dòng hồi ức, nhớ lại và kể lại tất cả. Núi nhớ lại
quá khứ đã từng sống trong một gia đình tuy bên ngoài bề thế nhƣng bên
trong lại có sự phân chia rõ ràng giữa tầng một với tầng hai, giữa các con
“loại một” với các con “loại hai”. Vì chiến tranh nổ ra nên Núi và ba đứa em
phải đƣa nhau đi sơ tán sang nhà cậu mợ ở Kinh Môn. Tại đây, Núi đã gặp
tình yêu đầu tiên trong cuộc đời với Hiền nhƣng hai ngƣời lại không đến
18


đƣợc với nhau bởi vì tục lệ lạc hậu của làng tồn tại từ bao đời. Vì thế, Hiền
và đứa con trong bụng phải bỏ xứ ra đi. Khi còn đang dày vò bản thân trong
đau khổ của tình yêu thì Núi lại nhận thêm nỗi đau mất đi ngƣời mẹ mà mấy
anh em hết mực yêu thƣơng, kính trọng. Sau khi mẹ mất, ngƣời cha lại tàn
nhẫn cắt bớt đi 16 cân gạo khiến tất cả gánh nặng đều đè lên vai của ngƣời
anh đang còn đi học.Vì thế, Núi quyết định nói dối mọi ngƣời là đi học xa
nhà nhƣng thực chất anh đã xin thôi học và đi làm bốc vác ở ga tàu kiếm
thêm tiền nuôi các em ăn học. Trong thời gian làm công việc ấy, Núi đã bị

hiểu lầm và bị bắt giam tại đồn công an sau đó chờ ngƣời nhà đến xác nhận.
Khi ngƣời cha đƣợc gọi đến, ông đã thẳng thừng rũ bỏ trách nhiệm của một
bậc làm cha, dửng dƣng viết giấy từ con ngay tại phòng chỉ vì anh nói dối
ông và bỏ học đi làm.
Chính sự kiện đƣợc coi là bƣớc ngoặt ấy đã làm cho Núi lâm vào con
đƣờng ăn trộm ăn cắp. Trong lúc mong muốn có đƣợc một gia đình nhỏ và
một công việc làm ăn tử tế thì Núi gặp một ngƣời phụ nữ giang hồ tên Mai,
hai ngƣời về sống với nhau nhƣ vợ chồng. Nhƣng cuộc sống nhƣ vợ chồng ấy
chỉ đƣợc một thời gian ngắn thì Mai bỏ anh đi cùng ngƣời đàn ông khác.
Trong lúc ấy anh lại gặp đƣợc cô bạn ngày xƣa của Hiền tên là Hồng ở chợ,
và vì thƣơng cho cảnh của Núi nên Hồng ở lại giúp đỡ, chăm sóc và cùng anh
làm ăn buôn bán. Cuộc sống đang yên ấm hạnh phúc thì Mai quay về đem
theo đứa con, cùng hai đứa giang hồ làm nhục Hồng trƣớc mọi ngƣời. Vì sự
thờ ơ, không bênh vực của Núi nên Hồng quyết định bỏ đi, sau đó Mai cũng
đi theo ngƣời con trai khác bỏ lại đứa con mới đƣợc hơn một tháng tuổi cho
anh. Để có tiền nuôi con, Núi tiếp tục quay lại con đƣờng trộm cắp, móc túi
để rồi bị bắt và nhận mức án 64 tháng tù giam. Khi ở tù, anh phải xa con, lại
lo lắng không biết con sống nhƣ thế nào nên anh đã cố gắng tu dƣỡng bản
thân, cố học lấy một nghề gì đó lƣơng thiện để khi ra tù có thể tự tay chăm
sóc con bằng chính đồng tiền do công sức mình làm nên. Khi đƣợc mọi ngƣời
trong trại giam nhiệt tình giúp đỡ và nhất là khi Hiền cùng ngƣời con trai bao
năm thất lạc đến thăm, anh lại có thêm động lực để cố gắng nhiều hơn nữa.
Cuối cùng, bằng sự tất cả sự nỗ lực của bản thân, anh đã trở thành ông chủ
xƣởng sản xuất đồ gỗ cùng với hai đứa con một trai, một gái. Còn cha anh sau
19


×