Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Nhân vật người kể chuyện trong tửu quốc của mạc ngôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1005.53 KB, 61 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

DƢƠNG QUANG DŨNG

NHÂN VẬT NGƢỜI KỂ CHUYỆN
TRONG TỬU QUỐC CỦA MẠC NGÔN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài

HÀ NỘI, 2019


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

DƢƠNG QUANG DŨNG

NHÂN VẬT NGƢỜI KỂ CHUYỆN
TRONG TỬU QUỐC CỦA MẠC NGÔN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

Thạc sĩ BÙI THÙY LINH

HÀ NỘI, 2019



LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo Thạc sĩ Bùi
Thùy Linh, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn và cho em những lời khuyên
bổ ích để em hoàn thành khoá luận này.
Tiếp đến, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giảng viên
trong tổ Văn học Nước ngoài và các thầy cô trong khoa Ngữ văn trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình học tập,
tìm hiểu và nghiên cứu đề tài.
Do thời gian nghiên cứu đề tài có hạn nên không tránh khỏi những hạn
chế, thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được những ý kiến, nhận xét, góp ý
của các thầy cô và các bạn để khoá luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 14 tháng 04 năm 2019
Sinh viên

Dƣơng Quang Dũng


LỜI CAM ĐOAN
Sau một thời gian nghiên cứu, bằng sự nỗ lực của chính bản thân và sự
hướng dẫn tận tình của cô giáo Thạc sĩ Bùi Thùy Linh, khóa luận của tôi đã
được hoàn thành. Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, nó
không trùng lặp với bất cứ công trình nào đã được công bố. Nếu sai tôi hoàn
toàn xin chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 14 tháng 04 năm 2019
Sinh viên

Dƣơng Quang Dũng



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu ................................................................................... 3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu............................................................... 5
4. Đối tƣợng nghiên cứu ............................................................................... 5
5. Phạm vi khảo sát ...................................................................................... 5
6. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................... 6
7. Bố cục của khóa luận ................................................................................ 6
CHƢƠNG 1: NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TỰ SỰ ................ 7
TRONG TỬU QUỐC.................................................................................... 7
1.1. Ngƣời kể chuyện trong Tửu quốc .......................................................... 7
1.1.1. Lý thuyết về người kể chuyện .............................................................. 7
1.1.2. Người kể chuyện ngôi thứ nhất ........................................................... 8
1.1.3. Người kể chuyện ngôi thứ ba ............................................................. 11
1.1.4. Người kể chuyện “tác giả” ................................................................. 14
1.2. Điểm nhìn tự sự trong Tửu quốc ......................................................... 20
1.2.1. Lý thuyết về điểm nhìn tự sự .............................................................. 20
1.2.2. Điểm nhìn bên trong .......................................................................... 22
1.2.3. Điểm nhìn bên ngoài .......................................................................... 24
1.3. Sự phong phú của ngƣời kể chuyện và điểm nhìn trong Tửu quốc ... 25
CHƢƠNG 2: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU KỂ CHUYỆN TRONG
TỬU QUỐC ................................................................................................. 30
2.1. Ngôn ngữ kể chuyện trong Tửu quốc .................................................. 30
2.1.1. Ngôn ngữ đối thoại đậm chất thô tục ................................................ 31
2.1.2. Ngôn ngữ miêu tả biểu tượng ............................................................ 34
2.2. Giọng điệu kể chuyện trong Tửu quốc................................................ 40
2.2.1. Giọng điệu bỡn cợt ............................................................................. 41



2.2.2. Giọng điệu khoa trương ..................................................................... 45
2.2.3. Giọng điệu giễu nhại .......................................................................... 48
KẾT LUẬN ................................................................................................. 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Lí do khoa học
Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn thuộc khu vực Châu Á Thái Bình
Dương. Nhắc đến Trung Quốc là nhắc đến một đất nước có bề dày lịch sử lâu
đời, là một trong những cái nôi văn hóa của nhân loại. Không chỉ vậy, trong
suốt lịch sử xây dựng và trưởng thành, quốc gia Đông Bắc Á này còn tạo nên
rất nhiều thành tựu đạt đến độ chuẩn mực trong mọi lĩnh vực như kiến trúc,
điêu khắc, triết học, tôn giáo… và đặc biệt không thể không kể đến văn học.
Nhắc đến văn học Trung Quốc là nhắc đến một nền văn học lâu đời được
phân chia thành các giai đoạn, thời kì lịch sử khác nhau. Đó là thơ văn Tiên
Tần, từ Tống, kịch Nguyên hay đỉnh cao thơ Đường với thi tiên Lý Bạch, thi
thánh Đỗ Phủ. Tiểu thuyết thời MinhThanh nổi lên với “tứ đại danh tác”:
Hồng Lâu Mộng (Tào Tuyết Cần), Thủy hử (Thi Nại Am), Tam quốc diễn
nghĩa (La Quán Trung), Tây Du ký (Ngô Thừa Ân)… Văn học hiện đại Trung
Quốc cũng đã khẳng định được vị trí của mình trong dòng chảy văn học với
những tên tuổi hết sức quen thuộc như Lỗ Tấn, Quách Mạc Nhược hay Mao
Thuẫn, Ba Kim…Tiếp nối một cách xứng đáng với văn học truyền thống, văn
học đương đại Trung Quốc đang dần dần bước tới, chiếm lĩnh những đỉnh
vinh quang. Và một trong những người có đóng góp to lớn cho thành công đó
là Mạc Ngôn.
Được coi là một trong những đại biểu xuất sắc nhất, là một hiện tượng
có một không hai của văn học Trung Quốc đương đại, Mạc Ngôn là người có

công rất lớn trong công cuộc cách tân, đổi mới văn học. Ông là một trong
những người tiên phong trong công cuộc cách tân văn học ở thể loại tiểu
thuyết thời đương đại Trung Quốc. và đã đạt được rất nhiều thành công. Ông
cũng chính là người Trung Quốc đầu tiên vinh dự nhận được giải thưởng
Nobel Văn học vào năm 2012. Từ những vốn sống tích lũy được qua những

1


khốn khó đã kinh qua cộng với những kiến thức mà ông được học trong
trường đại học, ông đã cầm bút bắt tay vào công việc sáng tác. Từ đó các tác
phẩm của ông lần lượt ra đời gây được tiếng vang lớn. Tính đến nay, Mạc
Ngôn đã có hơn 300 đầu sách với nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện vừa,
truyện ngắn,… Là một cuốn tiểu thuyết viết về đề tài thành phố đáng tự hào
nhất của Mạc Ngôn, Tửu Quốc được Mạc Ngôn bắt tay sáng tác vào năm
1989 và hoàn thành vào năm 1992, đến năm 1993 thì ra mắt độc giả. Với tiểu
thuyết này, Mạc Ngôn đã nhận được giải thưởng văn học Laurebataillou của
Pháp. Tác phẩm là một sáng tạo mới mẻ của tác giả khi tiếp nối đề tài “ăn thịt
người” của văn học đi trước. Tửu quốc đã lột tả bản chất thú tính, tàn ác của
cán bộ nhà nước thành phố Rượu nói riêng và hơn hết là cán bộ lãnh đạo
Trung Quốc nói chung qua hai hình tượng trung tâm là “rượu” và “thịt trẻ”.
Qua đó, Mạc Ngôn đã phơi bày bức tranh xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ biến
dạng, méo mó, xuống cấp trầm trọng. Mặc dù ra đời không tạo được tiếng
vang lớn nhưng Tửu quốc vẫn đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sự
nghiệp sáng tạo nghệ thuật của Mạc Ngôn.
Có thể khẳng định, Tửu quốc là một trong những tác phẩm tiêu biểu
cho sự đổi mới của Mạc Ngôn trên phương diện thi pháp. Trong tác phẩm,
nhà văn đã có những cách tân đáng kể về nghệ thuật tự sự như kết cấu, cốt
truyện và đặc biệt là nhân vật người kể chuyện. Hiện nay, Việt Nam đã có
một số công trình nghiên cứu một cách toàn diện về nghệ thuật tự sự trong

các tiểu thuyết Mạc Ngôn trong đó có nói đến phương diện nhân vật người kể
chuyện trong Tửu quốc Tuy nhiên, việc nghiên cứu đó mới dừng lại ở mức độ
khái quát, người nghiên cứu vẫn còn bỏ ngỏ nhiều khoảng trống chưa. Vì vậy,
chúng tôi lựa chọn đề tài “Nhân vật người kể chuyện trong Tửu quốc của Mạc
Ngôn” để đi sâu nghiên cứu nhân vật người kể chuyện và các vấn đề liên
quan như điểm nhìn, ngôn ngữ và giọng điệu kể chuyện, với hi vọng giúp bạn

2


đọc hiểu thêm về tiểu thuyết Mạc Ngôn nói riêng và tiểu thuyết đương đại
Trung Quốc nói chung.
1.2. Lí do sư phạm
Nghiên cứu đề tài Nhân vật người kể chuyện trong Tửu quốc của Mạc
Ngôn” có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với bản thân tôi. Công việc này
giúp tôi có nhiều trải nghiệm thú vị trong nghiên cứu khoa học. Từ đó bồi đắp
thêm tình yêu của tôi đối với văn học Trung Quốc.
Đối với một người giáo viên Ngữ văn tương lai như tôi, việc tìm hiểu
về các vấn đề nghệ thuật trong tác phẩm văn học có một vai trò rất quan trọng
việc việc truyền thụ kiến thức cho học sinh của tôi sau này. Đi từ nghệ thuật
để hiểu nội dung hay nói cách khác là tìm hiểu tác phẩm từ góc độ thi pháp
học là một trong những hướng đi mới mẻ, rất phù hợp với công cuộc đổi mới
việc dạy và học hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu
Ngay từ khi bước vào văn đàn Trung Quốc, Mạc Ngôn đã cho thấy
được tài năng xuất chúng của mình qua những bộ tiểu thuyết làm “nức lòng”
độc giả. Các tác phẩm của ông càng được chú ý hơn sau khi ông nhận được
giải thưởng Nobel văn chương cao quý. Giới nghiên cứu xem tiểu thuyết Mạc
Ngôn như một tư liệu quý giá cho việc khai thác, tìm hiểu, nghiên cứu văn
học. Chính vì sự thu hút như vậy nên hầu hết các tác phẩm của Mạc Ngôn đều

được khai thác khá nhiều.
Giá trị mà các tiểu thuyết của Mạc Ngôn đem lại không chỉ ở nội dung
tư tưởng mà hơn thế nữa là ở nghệ thuật kể chuyện đạt đến độ điêu luyện. Có
lẽ bởi vậy mà các nhà nghiên cứu thường tập trung khai thác những phương
diện về mặt nghệ thuật, qua đó giúp giải mã tác phẩm được sâu sắc hơn.
Nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn có
nhiều công trình, tiêu biểu nhất phải kể đến công trình:“Nghệ thuật tự sự
trong tiểu thuyết Mạc Ngôn” của PGS Lê Huy Tiêu, Tạp chí Văn học nước

3


ngoài số 4, năm 2003, và tác giả Nguyễn Thị Tịnh Thy với cuốn chuyên luận
Tự sự kiểu Mạc Ngôn (NXB Văn học 2013). Đây là một công trình lớn, có giá
trị khoa học cao của tác giả. Công trình này đi sâu vào nghiên cứu phong cách
tự sự của Mạc Ngôn trong mười một tiểu thuyết của ông và đã xác định được
những đặc trưng cơ bản: “Sự đa dạng của người kể chuyện”, “Sự độc đáo
của chủ thể mang điểm nhìn”, “Sách lược tổ chức người kể chuyện và điểm
nhìn”, “Phá vỡ trật tự thời gian từ điểm nhìn bên trong, “Tổ chức kết cấu tự
sự từ những gắn kết với người kể chuyện”, “Tạo đặc trưng ngôn ngữ từ nhãn
quan hiện thực và kì ảo” và cuối cùng là “Tạo ra sự phong phú về giọng điệu
từ bút pháp trào lộng và miêu tả”.
Do là một tiểu thuyết đương đại nên số lượng những công trình nghiên
cứu chuyên biệt về Tửu quốc còn khá ít. Nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong
Tửu quốc có thể kể đến hai công trình nghiên cứu chuyên biệt là các khóa
luận tốt nghiệp đại học của sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Loan với đề tài Thủ
pháp lạ hóa trong Tửu quốc của Mạc Ngôn và Nguyễn Thị Hạnh Thực và phi
thực trong Tửu quốc của Mạc Ngôn. Trở lại với chuyên luận Tự sự kiểu Mạc
Ngôn của Nguyễn Thị Tịnh Thy, công trình đã làm rõ các phương diện độc
đáo về mặt nghệ thuật như nhân vật người kể chuyện, điểm nhìn, kết cấu, cốt

truyện, ngôn ngữ, giọng điệu …trong mười một tiểu thuyết trong đó có Tửu
quốc. Có thể nói đây là công trình có ý nghĩa rất lớn trong việc gợi ý cho
chúng tôi những ý tưởng triển khai liên quan tới đề tài. Tuy nhiên, vì nghiên
cứu nghệ thuật trong toàn bộ tiểu thuyết của Mạc Ngôn nói chung nên đối với
Tửu quốc, công trình vẫn còn để lại nhiều khoảng trống cho ngươi viết khai
thác. Hiện tại cũng chưa có công trình chuyên biệt nào nghiên cứu chi tiết về
nhân vật người kể chuyện trong Tửu quốc. Nhận thấy nhân vật đây là một
trong những phương diện quan trọng của tác phẩm văn xuôi đặc biệt là tiểu
thuyết nên chúng tôi lựa chon đề tài Nhân vật người kể chuyện trong Tửu

4


quốc của Mạc Ngôn để đi sâu vào tìm hiểu nhân vật người kể chuyện, điểm
nhìn, ngôn ngữ và giọng điệu tự sự.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài này, người nghiên cứu hướng tới mục đích:
- Nghiên cứu nhân vật người kể chuyện trong tiểu thuyết Tửu quốc, từ
đó tìm ra những nét đặc sắc, độc đáo trong việc xây dựng nhân vật kể chuyện,
điểm nhìn tự sự và cách sử dụng ngôn ngữ cũng như giọng điệu kể chuyện
của nhà văn, tất nhiên không tách rời việc việc thể hiện và làm sáng tỏ giá trị
nội dung tác phẩm.
- Góp thêm tư liệu cho việc tìm hiểu, học tập văn học Trung Quốc, đặc
biệt là văn học Trung Quốc đương đại trong nhà trường.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận có nhiệm vụ chỉ ra những nét độc đáo của nhân vật người kể
chuyện, điểm nhìn tự sự, ngôn ngữ và giọng điệu tự sự trong Tửu quốc. Từ đó
thấy được phong cách nghệ thuật của riêng Mạc Ngôn.
4. Đối tƣợng nghiên cứu

Ở đề tài này, người viết tập trung nghiên cứu các vấn đề xoay quanh
“Nhân vật người kể chuyện trong Tửu quốc của Mạc Ngôn” đó là người kể
chuyện, điểm nhìn tự sự, ngôn ngữ kể chuyện và giọng điệu chuyện.
5. Phạm vi khảo sát
Để hoàn thành khóa luận này, chúng tôi khảo sát cuốn Tửu quốc do
Trần Đình Hiến dịch, nhà xuất bản Văn học 2004. Bên cạnh đó có tìm hiểu
một số tác phẩm khác của Mạc Ngôn nhằm so sánh, liên hệ khi cần thiết.
Đồng thời có sử dụng những thành tựu nghiên cứu của các tác giả khác có
liên quan đến nội dung khóa luận cùng để lí giải các vấn đề được chính xác và
sâu sắc hơn.

5


6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân loại.
- Phương pháp tổng hợp phân tích.
- Phương pháp hệ thống.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận và tài liệu tham khảo, khóa luận được
triển khai thành hai chương:
Chương 1: Người kể chuyện và điểm nhìn tự sự trong Tửu quốc
Chương 2: Ngôn ngữ và giọng điệu kể chuyện trong Tửu quốc

6


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TỰ SỰ

TRONG TỬU QUỐC
1.1. Ngƣời kể chuyện trong Tửu quốc
1.1.1. Lý thuyết về người kể chuyện
Trong tự sự học, vấn đề được giới nghiên cứu quan tâm, chú ý hàng
đầu không phải là cái được kể mà là cách kể. Trong đó, người kể chuyện và
điểm nhìn là hai vấn đề cốt lõi nhất. Trong nghiên cứu văn học, giới học thuật
đã đưa ra rất nhiều những định nghĩa, khái niệm về người kể chuyện. Theo từ
điển thuật ngữ văn học: “Người kể chuyện là hình tượng ước lệ về người trần
thuật trong văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện được kể bởi một nhân
vật cụ thể trong tác phẩm. Đó có thể là hình tượng của chính tác giả, một nhân
vật đặc biệt mà tác giả sáng tạo ra. Một tác phẩm có thể có một hoặc nhiều
người kể chuyện”. Tuy nhiên, tựu trung lại có thể hiểu một cách đơn giản và
thống nhất người kể chuyện là “người kể lại câu chuyện”. Người kể chuyện
luôn tồn tại song song với câu chuyện như một quan hệ cộng sinh và nói như
Tz.Todorov thì “người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo nên
thế giới tưởng tượng,… không thể có trần thuật thiếu người kể chuyện”
[14,tr.66].
Người kể chuyện là một hình tượng tương đối phức tạp, nó đóng một
vai trò rất quan trọng trong việc đại diện cho tác giả thể hiện những ý đồ trong
tác phẩm. Hình tượng văn học này được tác giả nghĩ ra và ước định không chỉ
là công cụ để bộc lộ toàn bộ thế giới nghệ thuật của tác phẩm mà nó còn giúp
tác giả xác định được phong cách sáng tác của mình. Nhìn một cách tổng thể,
người kể chuyện thường được thể hiện dưới ba hình thức sau: người kể
chuyện ngôi thứ nhất, người kể chuyện ngôi thứ hai và người kể chuyện ngôi
thứ ba.

7


Trong ngôi kể thứ nhất, người kể chuyện chính là nhân vật xưng “tôi”.

Tác giả để cho nhân vật tường thuật lại câu chuyện bằng chính ngũ quan, tư
tưởng, tình cảm của chính nhân vật đó.Người kể chuyện này sẽ giúp cho chủ
thể tiếp nhận cảm nhận sâu sắc được mọi tâm tư tình cảm của anh ta.
Người kể chuyện theo ngôi thứ hai là kể về người nghe, người tiếp
nhận tác phẩm. Tuy nhiên, sáng tác văn học thì ít khi tác giả sử dụng người kể
chuyện này.
Người kể chuyện theo ngôi thứ ba là người kể chuyện giấu mình hay
còn gọi là người kể chuyện hàm ẩn, anh ta đứng ở vị trí ngoài tác phẩm nhìn
vào và kể. Người kể chuyện này được phân chia ra nhiều loại, tùy vào chức
năng mà tác giả cho anh ta đảm nhận. Anh ta có thể là người biết tuốt mọi thứ
từ đầu đến cuối câu chuyện (người kể chuyện toàn tri), anh ta cũng có thể là
người có tầm hiểu biết hạn hẹp (người kể chuyện hạn tri)…
Trên thực tế do phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là chiến lược kể
chuyện của tác giả mà hình thức xuất hiện và vai trò cửa người kể chuyện khó
có thể phân định rõ ràng, rạch ròi, việc phân ngôi thứ của người kể chuyện đôi
khi chỉ mang tính chất tương đối.
Trong Tửu quốc, Mạc Ngôn đã xây dựng lên một hệ thống người kể
chuyện đa dạng và phức tạp. Nó bao gồm: người kể chuyện ngôi thứ nhất,
người kể chuyện ngôi thứ ba và người kể chuyện “tác giả”. Tất cả những
người kể chuyện này có mối quan hệ chặt chẽ với trong việc khắc họa bức
tranh hiện thực trong tác phẩm. Điều này được thể hiện ở sự luân phiên, hoán
liên tục giữa những người kể truyện với các vai. Trong Tửu quốc còn có sự
xuất hiện của những người kể chuyện là các nhân vật trong tác phẩm. Chính
vì vậy mà số lượng người kể chuyện luôn tăng theo diễn tiến của câu chuyện.
1.1.2. Người kể chuyện ngôi thứ nhất
Trong Tửu quốc, người kể chuyện ở ngôi thứ nhất xưng “tôi”. Do tác
phẩm có ba tuyến truyện cho nên nhân vật người kể chuyện ngôi thứ nhất

8



cũng có sự đa dạng, phong phú và được chia là hai dạng chính: Dạng thứ
nhất, anh ta là người kể câu chuyện từ ngôi thứ nhất với tư cách là người quan
sát, chứng kiến mọi việc; Dạng thứ hai, anh ta thuộc vào thế giới nhân vât
được miêu tả vừa đảm nhiệm chức năng tổ chức kể chuyện, đồng thời trực
tiếp tham gia vào mọi hoạt động trong truyện.
Trong tuyến truyện trinh thám, nhân vật “tôi” Đinh Câu chính là người
kể chuyện ở dạng thứ hai, anh ta kể về chính mình trong cơn say ở bữa tiệc tại
khu mỏ. Thể xác và tinh thần của anh ta tách rời, mặc dù say rượu nhưng ý
thức của anh ta vẫn rất tỉnh táo, tỉnh táo để nhận ra mình đang ở đâu, được
đưa tới đâu, đang trong trạng thái như thế nào: “Rồi cũng đi hết cái hành lang
dài dằng dặc, tôi nhận ra gian phòng lớn đó. Các cô quẳng xác tôi xuống
thảm, để tôi nằm ngửa. Tôi giật mình vì khuôn mặt tôi. Tôi nhắm tịt mắt, sắc
mặt tôi bợt ra như giấy dán cửa sổ, hàm răng nửa đen nửa trắng, mùi rượu khó
ngửi trào lên họng khiến tôi suýt lộn mửa. Cái xác tôi co giật. Quần tôi ướt
đẫm, xấu hổ quá!” [9,tr.146-147]. Không những vậy Đinh Câu còn cảm nhận
được mọi vật xung quanh khi bị đám phục vụ “khênh”, “kéo lê” hết chỗ này
đến chỗ khác: “Các nàng thở dốc một hồi rồi khênh tôi ra khỏi gian phòng
lớn. Bên ngoài là một biển hoa quì, mặt trời sắp lặn đỏ như máu, màu vàng
của hoa quỳ tỏ ra vô cùng dịu dàng trong sắc đỏ” [9,tr.147] ;“Đám phục vụ
kéo lê tôi trên con đường bê tông. Một con chó đứng bên một cây hoa quì to
như một cây lấy gỗ, sủa ầm ĩ…” [9,tr.147]; “Họ khênh tôi vào một gian
buồng nhỏ đơn độc. Trong buồng có hai cô gái mặc áo bờ lu, đầu gối chạm
nhau, ngồi đối diện trên chiếc bàn viết, mặt bàn khắc chữ nham nhở…”
[9,tr.148]. Trong cuộc chiến với rượu trong bàn tiệc, thể xác của Đinh Câu đã
thất bại hoàn toàn trước ý thức của anh ta. Cái xác của anh ta bây giờ giống
như một vật thể tồn tại, vô hồn và bị điều khiển hoàn toàn bởi chút ít ý thức
tỉnh táo. Phải đến khi cô phục vụ mặc quần áo màu be nhạt bơm thuốc rã rượu
vào người, lúc đó cái xác của Đinh Câu mới “rên hừ hừ”, “tay vung lên”, như


9


được tiếp thêm sức mạnh, cái xác anh ta muốn chụp lấy phần hồn đang lơ
lửng trên trần nhà nhưng ý thức đã chống chọi lại sức hút đó và nhân vật “tôi”
– phần hồn của Đinh Câu tiếp tục quan sát và kể lại những diễn biến tiếp theo
tại căn phòng ở khu mỏ. Sau cuộc hoàn hồn không thành công, Đinh Câu gặp
thằng Vảy Cá “khoảng mười bốn tuổi cởi trần, chân đi đất, chỉ mặc chiếc
quần xà lỏn bằng vải xanh… Nó ngậm trong miệng con dao lá liễu, y như con
mèo ngậm con cá lành canh” [9.tr.150], anh ta “sợ đến mụ người cho cái xác
dở sống dở chết”. Vảy cá đúng là một thằng lỏi khi nó liên tục trêu đùa,
nghịch ngợm các món đồ của Đinh Câu từ nghịch súng chuyển sang lục lọi ví
lôi ra hết mọi thứ: “Tiền, tem gạo, phiếu ăn nhà ăn tập thể chưa kịp báo cắt”
[9,tr.153-154] rồi “nó mân mê, nghiên cứu cái bật lửa” [9,tr.154]. Thằng lỏi
này đã có lúc làm cho Đinh Câu sợ hãi với những hành động chơi đùa của nó.
Bởi cái xác không hồn kia không thể tự ý thức để bảo vệ mình đến nỗi bị xô
xuống đất từ lúc nào cũng không ai hay, cái xác luôn trong trạng thái ngáy
ngủ, vô thức.
Ở truyện ngắn Rượu cồn của Lý Một Gáo gửi Mạc Ngôn, nhân vật
kể chuyện “tôi” là hiện thân của nhân vật Lí Một Gáo – người đồng thời đóng
vai trò là tác giả của câu chuyện. Người kể chuyện này nằm ở dạng thứ nhất,
người quan sát và kể. Anh ta kể về bài giảng của Phó bộ trưởng Khoan Kim
Cương tại trường đại học Chưng cất Rượu. Tuy nhiên, ở nhiều đoạn trong
truyện ngắn, người kể chuyện “tôi” lại có sự lồng ghép bổ sung thêm ở đây là
Khoan Kim Cương đã làm cho câu chuyện kể được khách quan, chân thực
hơn. Ngay phần mở đầu truyện, Khoan Kim Cương đã kể về cảm xúc và lí do
của mình khi được mời thỉnh giảng tại đại học Chưng cất Rượu: “ Thưa bằng
hữu thân mến, các bạn sinh viên thân mến! Khi được mời thỉnh giảng ở đại
học Chưng cất Rượu, niềm vinh dự như ngọn gió xuân ào ạt thổi qua trái tim
hồng, thổi qua ruột xanh phổi đỏ, thổi qua lá gan màu tím – mà vì có nó tôi đã

làm việc hết mình, không sợ thiên hạ đàm tiếu – của tôi. Nhờ tài năng đặc biệt

10


của lá gan, tôi mới có dịp đứng trên bục giảng này…” [9,tr.46-47]. Qua lời kể
của Khoan Kim Cương, ta thấy được đây là một con người có hiểu biết về
rượu, có tài uống rượu đáng nể. Và những hiểu biết đó, tài năng đó của ông ta
thể hiện ra sao được người kể chuyện “tôi” – Lý Một Gáo thể hiện một cách
chi tiết qua cả thiên tiểu thuyết Rượu cồn. Qua lời kể của Lý Một Gáo, Khoan
Kim Cương là một con người có ma lực hấp dẫn khiến cho ai nhìn cũng mê
mẩn. Ông ta chính là niềm tự hào của thành phố Rượu, là đối tượng mà đám
sinh viên đại học Chưng cất Rượu hết lòng ngưỡng mộ và coi ông như một
chuẩn mực: “Đẻ con thì phải như Khoan Kim Cương, lấy chồng thì lấy Khoan
Kim Cương! Không rượu thì còn gì yến tiệc, không có Khoan Kim Cương thì
còn đâu thành phố Rượu!” [9,tr.49]. Điều này cũng là bình thường bởi Khoan
Kim Cương sinh ra đã có một lá gan không biết ngán rượu, tửu lượng đã đạt
tới thượng thừa nhờ sự phấn đấu hết mình đến mức chính ông ta cũng phải
thừa nhận: “Tôi thừa nhận rằng, năng lực bẩm sinh phân giải rượu của tôi khá
mạnh, nhưng nếu như không có sự rèn luyện sau đó thì chưa hẳn đã đạt tới
trình độ nghìn chén không say như bây giờ!” [9,tr.50].
Như vậy có thể thấy, người kể chuyện ngôi thứ nhất rất đa dạng trong
Tửu quốc. Trong tác phẩm có nhiều nhân vật có thể đảm nhận vai trò tự kể về
chính mình mà không cần nhờ tới người kể chuyện chính.
1.1.3. Người kể chuyện ngôi thứ ba
Trong tác phẩm kể từ ngôi thứ ba, người kể chuyện thường không phải
là nhân vật được xuất hiện trực tiếp hay tham gia vào diễn biến câu chuyện.
Anh ta thường được gọi là người kể chuyện theo ngôi thứ ba hay người kể
chuyện hàm ẩn, giấu mặt, ẩn tàng, thượng đế. Thông thường, người kể chuyện
này có một quyền năng vô hạn như một “thượng đế” trong toàn câu chuyện

của mình. Anh ta được ví như một “vị thần” “biết tuốt”, “toàn tri”, có khả
năng thâu tóm toàn bộ thế giới hiện thực của tác phẩm, thậm chí còn năm
được suy nghĩ trong đầu của nhân vật. Đồng thời, ngoài việc dẫn dắt câu

11


chuyện, người kể chuyện này giữ vai trò phân tích, bình giá, làm rõ các mối
quan hệ trong tác phẩm. Tuy nhiên, trong Tửu quốc của Mạc Ngôn, tất cả
những truyện kể ở ngôi thứ ba đều được dẫn dắt bởi người kể chuyện có tầm
hiểu biết giới hạn. Người kể chuyện này còn được gọi là người kể chuyện
“hạn tri” trong sự đối lập với người kể chuyện toàn tri truyền thống.
Tửu quốc - cuốn tiểu thuyết mà Mạc Ngôn cho rằng “không thể nào
viết lại hay hơn thế nữa” [11,tr.121] - có ba tuyến truyện, tuyến truyện một
mang dáng dấp trinh thám kể về trinh sát viên Đinh Câu trên hành trình điều
tra một vụ án đặc biệt – vụ án ăn thịt trẻ ở thành phố Rượu. Tuyến truyện hai
kể về Tiến sĩ Rượu Lý Một Gáo và Mạc Ngôn với hình thức kể chuyện bằng
thư. Qua tuyến truyện này người đọc thấy được cả hai nhân vật đã mở ra một
diễn đàn văn học để bàn luận, đánh giá. Tuyến truyện ba là những tác phẩm
truyện ngắn của Lý Một Gáo gửi kèm theo thư với rất nhiều người kể chuyện.
Với mỗi một tuyến truyện, Mạc Ngôn đã xây dựng nên một hệ thống người kể
chuyện rất đa dạng để làm cho bức tranh hiện thực của tác phẩm được hiện
lên sáng rõ, đầy đủ mọi góc cạnh. Bởi mỗi người kể chuyện trong Tửu quốc,
đặc biệt là người kể chuyện ở ngôi thứ ba chỉ nắm giữ một phần của hiện
thực, quyền năng của họ đã bị hạn chế đi rất nhiều. Chính vì vậy, nếu như
không có sự phối hợp của những người kể chuyện khác thì bức tranh hiện
thực mà họ tái hiện sẽ không vẹn toàn.
Trong tuyến truyện thứ nhất, người kể chuyện cũng chỉ dõi theo từng
bước tha hóa bởi tửu sắc của trinh sát viên Đinh Câu với món thịt trẻ con mà
anh ta thưởng thức cùng các quan chức thành phố Rượu. Nhưng món thịt đó

từ đâu mà có, chế biến ra sao, những con người liên quan đến nó như bộ
trưởng Khoan Kim Cương là người như thế nào… tất cả những câu hỏi ấy là
một thách thức lớn mà người kể chuyện hàm ẩn không thể vượt qua được để
lí giải và độc giả phải trông cậy hoàn toàn vào những người kể chuyện khác
của tác phẩm. Trong bữa tiệc rượu của ở mỏ than, nhân vật Khoan Kim

12


Cương được “Giám đốc hoặc bí thư” giới thiệu “Phó bộ trưởng Khoan vốn là
giáo viên tiểu học con em khu mỏ, là một đồng chí có năng lực, rất nguyên
tắc, trăm người chưa chọn được một người như thế” [9,tr.40]. Hay món “Kỳ
lân dâng con” cũng được Giám đốc và Bí thư khu mỏ giới thiệu “Đây là món
ăn của thành phố chúng tôi, có tên “Kỳ lân dâng con”. Chúng tôi mời khách
nước ngoài, khách khen hết lời, ấn tượng sâu sắc không bao giờ quên. Với
món ăn này, chúng tôi đã kiếm được không biết bao nhiêu ngoại tệ cho nhà
nước” [9,tr.130]. Rồi cách chế biến món “Kỳ lân dâng con” được Khoan Kim
Cương giải thích “Đây là cánh tay thằng nhỏ, nguyên liệu là ngó sen trong hồ
Nguyệt Lượng cùng với mười sáu loại phối liệu, chế biến bằng công nghệ đặc
biệt. Đây là chân thằng nhỏ, thực tế là loại giăm bông đặc chế. Người thằng
nhỏ được gia công từ một con lơn sữa quay. Cái đầu mà anh bắn bay mắt là
quả dưa lê bự. Tóc là rau tóc tiên mà anh ta thường thấy”. Như đã nói ở trên,
với nhân vật Đinh Câu, người kể chuyện chỉ nắm được cuộc hành trình chìm
đắm trong tửu sắc của anh ta, còn cụ thể chìm đắm như thế nào thì người kể
chuyện phải nhờ vào những nhân vật kể chuyện khác trong đó có cả chính
Đinh Câu. Khi bị chuốc say đến mức hồn lìa khỏi xác, ý thứ bị đánh mất chỉ
còn cái xác mơ hồ trong hơi men nồng nặc, Đinh Câu mở màng kể “Tôi nhẹ
nhàng bay bên cái xác của tôi, cách ba thước không rời nửa bước. Tôi buồn
cho cái xác vô tích sự của tôi. Hành lang hình như càng dài ra. Tôi trông thấy
rượu rớt từ miệng chảy xuống cổ, hôi kinh người, các cô phục vụ nín thở, các

cô ọe khan một tiếng. Đầu gục trước ngực, cổ tôi héo như một cọng hành héo
không giữ nổi cái đầu, khiến nó cứ lắc lư sang hai bên. Tôi không nhìn rõ mặt
tôi, chỉ trông thấy hai vành tai màu xám ngoét” [9,tr.146].
Như vậy, có thể thấy trong tuyến truyện thứ nhất, tính chất hạn tri đã
thu hẹp quyền năng của người kể chuyện theo ngôi thứ ba. Quyền năng này
được chia cho các nhân vật kể chuyện khác. Chính điều này tạo nên sự đa
dạng nhân vật người kể chuyện trong Tửu quốc.

13


1.1.4. Người kể chuyện “tác giả”
Đối với Mạc Ngôn – một hiện tượng của văn học Trung Quốc đương
đại đang “làm cho các nhà phê bình phát hoảng” – thì mỗi tiểu thuyết là một
cơ hội để nhà văn này phô diễn kĩ thuật viết tân kì của mình qua hình tượng
người kể chuyện. Ngoài hai kiểu người kể chuyện thường gặp là người kể
chuyện từ ngôi thứ nhất và người kể chuyện từ ngôi thứ ba, trong Tửu quốc
Mạc Ngôn đã xây dựng nên một kiểu nhân vật người kể chuyện hết sức đặc
biệt đó chính là tác giả thực tế “Mạc Ngôn”. Đây chính là điểm “lạ hóa” độc
đáo, mới mẻ trong phương thức kể chuyện của nhà văn Cao Mật. Đồng thời
cho thấy được sự phong phú và đa dạng của người kể chuyện trong tác phẩm
của ông.
“Người trần thuật kiểu tác giả” hay “tình thế trần thuật của tác giả” là
một thuật ngữ được đưa ra vào năm 1955 bởi nhà nghiên cứu văn học người
Áo F.K.Stanzel và sau đó được tu chỉnh bởi J.Kristéva, G.Genette và
J.Lintvelt. Người trần thuật kiểu tác giả được hiểu “là kẻ tổ chức ra cái thế
giới được miêu tả của tác phẩm nghệ thuật và đề xuất với độc giả sự cắt nghĩa
của mình, cái nhìn của mình vào các sự kiện và hành động được miêu tả, cái
nhìn này là chủ đạo so với các quan điểm tư tưởng còn lại do các nhân vật
biểu lộ” [6,tr.239].

Nói về sự phân chia các dạng trần thuật của tác giả, trong cuốn Tự sự
kiểu Mạc Ngôn, tác giả Tịnh Thy có trình bày: “Có hai dạng trần thuật của tác
giả được gọi là hétérodiégétique kiểu tác giả và homodiégétique kiểu tác giả.
Ở trần thuật hétérodiégétique kiểu tác giả, “người trần thuật tách biệt với các
vai, đời sống nội tại của vai được độc giả tiếp nhận thông qua người kể
chuyện và được diễn đạt bởi người kể chuyện”. Ngược lại, ở trần thuật
homodiégétique kiểu tác giả, nhân vật – người trần thuật (cái tôi kể chuyện)
và nhân vật – vai (cái tôi được kể) là một” [12,tr.60]. “Tức là, đời sống nội tại
của nhân vật được tiếp nhận và diễn đạt bởi bản thân nhân vật” [6,tr.239].

14


Trong Tửu quốc ta bắt gặp dạng thức kể chuyện hétérodiégétique kiểu
tác giả này trong tuyến truyện thứ nhất – tuyến truyện trinh thám. Ở đây,
người kể chuyện tách bạch với các vai, tự tạo nên “những chỗ đoản mạch” để
đời sống nội tại của các vai như Đinh Câu, Khoan Kim Cương… được độc
giả tiếp nhận thông qua người kể chuyện và được diễn đạt bởi người kể
chuyện có tên là Mạc Ngôn. Với trinh sát viên Đinh Câu, đời sống nội tại của
anh xoay quanh cuộc hành trình phá án từ lúc lên đường đến mỏ than La Sơn,
thành phố Rượu đều được Mạc Ngôn dẫn dắt và thuật lại một cách rất tỉ mỉ và
chi tiết, có khi hơi dài dòng. Ngay từ mở đầu tác phẩm, độc giả đã thấy được
những biểu hiện tâm lý ngay từ bên trong của Đinh Câu qua những câu dẫn
dắt trong lời thoại đầy thô tục và cả khiêu khích gợi tình của anh ta với nữ xế.
Không chỉ vậy, trong tuyến truyện trinh thám này, Đinh Câu còn được xây
dựng là một con người không có lập trường vững vàng, thiếu sự quyết đoán
của một người đàn ông, anh ta luôn bị phân vân dao động, dễ lung lay trong
mọi việc và đôi khi suy nghĩ trong đầu của anh ta còn có phần hơi kì quặc…
Người kể chuyện tác giả trong Tửu quốc đảm nhiệm vai trò của một cái
tôi chứng nhân đứng ở vị trí ngoài cuộc kể chuyện từ hình thức ngữ pháp ngôi

thứ ba. Chính vì là người đứng ở bên ngoài nhìn vào và kể cho nên câu
chuyện “anh ta” kể có được sự khách quan, hơn nữa “anh ta” còn có được
“quyền năng điều khiển thực tế như thần thánh toàn tri, toàn cõi” [12,tr.63].
Chính nhờ quyền năng này, người kể chuyện này rất nhiều khi xen vào“ nói
chuyện trực tiếp với người tiếp nhận của họ, bình luận về hành động và nhân
vật, tiến hành phản ánh mang tính triết học, làm “gián đoạn” diễn biến hành
động bởi những miêu tả chi tiết” [12,tr.63]. Như Friedman đã nói: “Đặc điểm
phổ biến của sự toàn tri là tác giả (tác giả - người kể chuyện) luôn sẵn sàng
xen vào giữa độc giả và câu chuyện, thậm chí khi dựng cảnh, anh ta sẽ khiến
cho nó giống như anh ta thấy hơn là nhân vật của anh ta thấy” [7,tr.45]. Vì
vậy, rất nhiều lần trong Tửu quốc của Mạc Ngôn vang lên câu nói chuyện với

15


độc giả tiếp nhận: đoạn mở đầu truyện ngắn Thần đồng có viết: “Chư vị độc
giả, cách đây không lâu tôi viết cho các vị câu chuyện “Trẻ thịt”…” [9,tr.163]
hay trong truyện Phố lừa: “Các bạn thân mến, cách đây ít lâu, các bạn đã đọc
“Rượu cồn”, “Trẻ thịt”, “Thần đồng” của tôi…” [9,tr.228]… Và sau những
câu mời gọi như sáo ngữ này, “nhà văn bàn về chính kĩ thuật viết và tiến trình
xây dựng tác phẩm ngay trong tác phẩm của mình” khi bày tỏ băn khoăn, suy
tính trong việc tổ chức tình huống truyện” [12,tr.63]. Trong Tửu quốc, Mạc
Ngôn cân nhắc: “ Truyện dài tôi đang viết, đã đến hồi gian khổ nhất, anh
chàng trinh sát ma mãnh ấy luôn gây khó dễ cho tôi, để anh ta tự bắn vào đầu
hay say rượu mà chết, đằng nào tiện hơn?” [9,tr.406] hay trong truyện ngắn
Lấy tổ yến tác giả Lý Một Gáo cũng bàn luận về lí do viết ra những lời lẽ
phóng đãng về mẹ vợ của mình: “Các bạn thân mến, tôi không bán rẻ mẹ vợ
mà là nghiên cứu mẹ vợ. Cùng với tuổi thọ bình quân trong xã hội ngày càng
cao thì việc kéo dài tuổi xuân cho phụ nữ là vô cùng quan trọng. Công việc
nghiên cứu này có lợi cho nhân loại, hơn nữa rất có thể kiếm bộn tiền, vì vậy

dù mẹ vợ có giận tôi cũng không hối tiếc” [9,tr.311].
Ngoài tuyến truyện thứ nhất kể về trinh sát viên Đinh Câu, tuyến truyện
thứ hai của Tửu quốc là tuyến truyện được tổ chức dưới hình thức trần thuật
bằng thư. Truyện kể về Tiến sĩ rượu Lý Một Gáo và những tác phẩm của anh
ta. “Trong tuyến truyện này, nhân vật Mạc Ngôn đóng vai trò là người dẫn
chuyện từ ngôi thứ nhất kiểu hemodiégétique” [9,tr.67]. Anh ta vừa làm
nhiệm vụ kể chuyện vừa làm trung tâm định hướng cho độc giả tiếp nhận.
Tuy nhiên, ở truyến truyện này thì nhân vật Mạc Ngôn chủ yếu đảm nhận vai
trò soi xét, định hướng hơn là kể chuyện. Trong mỗi bức thư của Lý Một Gáo
gửi Mạc Ngôn đều kèm theo một truyện ngắn, tổng cộng trong Tửu quốc, Lý
Một Gáo gửi cho Mạc Ngôn chín truyện ngắn đó là: Rượu cồn, Trẻ thịt, Thần
đồng, Phố lừa, Một thước anh hào,Giờ dạy chế biến món ăn, Lấy tổ yến,
Rượu bú dù, Tửu thành. Trong thư Lý Một Gáo luôn bày tỏ tình cảm ngưỡng

16


mộ, sự tôn trọng đặc đối với thầy Mạc Ngôn cùng với đó là những trao đổi
bàn bạc về văn học, về rượu, về những vấn đề của đời sống xã hội… Mỗi bức
thư hồi đáp của Mạc Ngôn là một nhận định, thẩm định với tư cách là người
tiếp nhận theo lối phê bình trong đó khen có, chê cũng có và sau đó không thể
thiếu những nhận xét, góp ý chân tình . Trong mỗi lần viết thư tra lời Lý Một
Gáo, rất nhiều lần, Mạc Ngôn cố làm ra vẻ thận trọng, khiêm tốn đôi khi có sự
hơi nhún mình. Với truỵên ngắn Rượu cồn của Lý Một Gáo, ông chỉ nói: “Tôi
đã đọc tác phẩm vĩ đại của huynh, tôi lí luận kém, trình độ thẩm định thấp,
không dám lên mặt dạy đời” [9,tr.40]. Đến Trẻ thịt, Mạc ngôn lại tiếp tục dè
dặt: “nội hàm của “chủ nghĩa hiện thực” trong tác phẩm là gì, tôi quả thật
không hiểu” [9,tr.103]. Nhưng rồi cuối cùng cũng bày tỏ: “Những tình tiết
miêu tả trong truyện khiến tôi sợ rủn người” [9,tr.103]. Trong Thần đồng Mạc
Ngôn cũng nhận định: “tiểu thuyết ngôn ngữ già dặn, ý tưởng dồi dào, tầng

nào lớp ấy không đơn điệu,… tỉ như thằng tiểu yêu trong truyện không rõ lai
lịch, không phù hợp với nguyên tắc hiện thực chủ nghĩa, văn chương kết cấu
rời rạc, tính ngẫu hứng quá mạnh...” [9,tr.187-188]. Và “nói gọn trong câu:
Bạo!” (Phố lừa). Có thể thấy cách mà Mạc Ngôn phê bình các tác phẩm văn
chương của Lý Một Gáo thực chất là một sự tự phê, tự biếm, bởi vì suy cho
cùng thì tất cả các sáng tác trên đều là sản phẩm của một tác giả cụ thể đó là
Mạc Ngôn ngoài đời thực. Qua đây, ta có thể thấy được, Mạc Ngôn đã sử
dụng thủ pháp giễu nhại – một thủ pháp đặc trưng của chủ nghĩa hậu hiện đại
tức là nhà văn mượn lời người kể chuyện – nhân vật để phát ngôn cho quan
điểm văn chương của mình. Nhà văn đã “giễu nhại những tác phẩm trước đây
mà phần lớn là của chủ nghĩa hiện đại, nhờ việc lí giải hài hước những cốt
truyện, thủ pháp và kĩ thuật xử lí chất liệu, nhà văn hậu hiện đại hướng tới độc
giả hiểu biết, giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực này” [1,tr.31]. Trong Tửu quốc
còn xuất hiện một loạt các tôn chỉ của văn chương hiện thực như: “cải tạo xã
hội bằng văn học”, tác phẩm văn học “bắt nguồn từ cuộc sống, cao hơn cuộc

17


sống”, phải “xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình”… “tuân
thủ nguyên tắc” kết hợp chủ nghĩa hiện thực với chủ nghĩa lãng mạn cách
mạng” [9,tr.263-266]… đều được nhấn mạnh. Tuy nhiên: “Nhấn mạnh nhưng
không tuân theo, nhấn mạnh để mà tiễn biệt” [12,tr.68]. Chính vì vậy: “bao
trùm lên Tửu quốc là một ma trận của tự sự hậu hiện đại, và những khuôn
vàng thước ngọc của chủ nghĩa hiện đại được đưa ra trong Tửu quốc chỉ như
là những giá trị đã “vang bóng một thời” [12,tr.68].
Hình thức kể chuyện kiểu tác giả này, theo Tịnh Thy, đã góp phần làm
nên một nhân vật siêu đặc biệt trong Tửu Quốc: nhân vật người kể chuyện tự
biếm. Đây là một điểm rất thú vị trong sách lược kể chuyện của Mạc Ngôn. Ở
Tửu quốc, có những trang viết về chính mình đầy thô tục, phê phán giống

như xúc phạm của tác giả. Trong truyện, nhân vật Mạc Ngôn được khắc họa
với tài năng văn chương “vặt vãnh” “chó ỉa” “cái tài của Mạc Ngôn là tài vặt,
là tà đạo… vốn là một thư kí của Diêm Vương đầu thai… viết nhưng trang
sách chẳng lấy gì làm thơm tho”. Anh ta chính là “người kể chuyện độc ác”,
sáng tạo nên khuynh hướng “chủ nghĩa hiện thực dữ dội”, “chủ nghĩa hiện
thực yêu tinh”, “viết các loại tiểu thuyết chó ỉa” [9,tr.45].Bức chân dung tự
họa của người kể chuyện tự biếm này là sản phẩm của một dạng giễu nhại đặc
biệt mà các nhà lí luận hậu hiện đại gọi là pastiche – tự giễu nhại – một mô
thức căn bản của nghệ thuật hậu hiện đại. Theo các nhà phê bình người Mỹ
R.Poirier và I.Hassan, “tự giễu nhại là một phương thức tiêu biểu mà nhà văn
hậu hiện đại muốn dùng để chống chọi với bản chất dối trá của ngôn ngữ”
[12,tr.69] và với tư cách là người “hoài nghi chủ nghĩa triệt để, nhà văn hậu
hiện đại cho rằng cái thế giới dị thường này thật vô nghĩa và đã đánh mất mọi
nền tảng” [12,tr.69]. Chính vì vậy, bằng việc cung cấp cho chúng ta sự mô
phỏng lại tiểu thuyết bởi tác giả, mô phỏng vai trò của tác giả, nhà tiểu thuyết
hậu hiện đại “giễu nhại chính bản thân mình bằng hành vi giễu nhại” [1,tr.30].
Với tư cách là một “kẻ bịp bợm” (trickster) độc đáo trong tiểu thuyết, nhà văn

18


đã dùng “mặt nạ tác giả” để công nhiên đùa cợt tính khuôn sáo của văn học
đại chúng, đồng thời cũng giễu cợt nhưng sự tiếp nhận thụ động của bạn đọc.
Khi nhà văn nổi tiếng anh ta mặc nhiên trở thành tâm điểm chú ý của
công chúng và với giới phê bình. Nhất cử nhất động trong đời sống lẫn sáng
tác của anh ta đều được săm soi quá mức và gắn với nó là sự đồn thổi, cường
điệu, bóp méo và cả bịa đặt nữa. Bằng những cảm nhận chủ quan và thậm chí
là đầy thiên kiến của mình, xuất hiện từ những động cơ vì văn chương và
ngoài văn chương, các nhà phê bình hoặc nhân danh nhà phê bình đã tán
dương hoặc “nã pháo” vào nhà văn. Trong rất nhiều cách trả lời dư luận, nhà

văn hậu hiện đại dùng “mô thức pastiche để chống lại tính ảo tưởng của
truyền thông đại chúng và gắn với nó là hiện tượng văn hóa đại chúng,… cố
gắng bóc trần chính quá trình mê hoặc diễn ra dưới tác động của truyền thông
đại chúng đến ý thức xã hội”. Với một đất nước vốn có sự ngự trị truyền kiếp
của tâm lý đám đông như Trung Quốc, văn hóa đại chúng đó còn biểu hiện ở
thứ tâm lý thủ tiêu mọi sự tiếp nhận độc lập, sáng tạo. Bằng sự tự giễu nhại,
Mạc Ngôn đã “chứng minh cho những người tiếp nhận tiềm tàng của mình đó
là độc giả, thính giả, khán giả rằng bất kì một nghĩa nào duy lý và được chiếm
lĩnh theo lối truyền thống đều là “vấn đề đối với con người đương đại” .
Soi chiếu bằng lí thuyết hậu hiện đại, chúng ta sẽ hiểu hơn về người kể
chuyện tự biếm trong Tửu quốc của Mạc Ngôn. Đồng thời cũng qua phương
thức tự biếm này có thể thấy rõ chất tiên phong, sự dấn thân của chính nhà
văn của chính nhà văn có bút lực mạnh nhất Trung Quốc hiện nay.
Theo R.Barthers và Tz.Todorov, trong tác phẩm tự sự, mối quan hệ mật
thiết giữa người kể chuyện và tác giả được xem như đã bị cắt đứt, người kể
chuyện và những nhân vật của anh ta chỉ là những “sinh thể trên giấy”, “tác
giả (thực tế) của văn bản không có điểm gì chung với người kể chuyện”. Lý
thuyết tự sự học của M.Bal, W.Schmid, J.Lintvelt cũng tách bạch các cấp độ
trần thuật: tác giả cụ thể, tác giả ẩn tàng, tác giả hiển thị, tác giả hư cấu, người

19


×